Luận án Nghiên cứu căng thẳng khu vực tài chính tại Việt Nam

LỜI CAM ĐOAN.i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.iv

DANH MỤC BẢNG.vii

DANH MỤC HÌNH .viii

MỞ ĐẦU.1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CĂNG THẲNG KHU VỰC TÀI CHÍNH 15

1.1. KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC TÀI CHÍNH.15

1.1.1. Khái niệm về khu vực tài chính .15

1.1.2. Thành phần của khu vực tài chính .16

1.1.3. Chức năng của khu vực tài chính.17

1.2. CĂNG THẲNG KHU VỰC TÀI CHÍNH.19

1.2.1. Khái niệm .19

1.2.2. Đặc điểm của căng thẳng khu vực tài chính .23

1.2.3. Nguyên nhân của căng thẳng khu vực tài chính .28

1.2.4. Đo lường căng thẳng khu vực tài chính .38

1.3. TÁC ĐỘNG CỦA CĂNG THẲNG KHU VỰC TÀI CHÍNH ĐẾN NỀN KINH

TẾ THỰC.47

1.3.1. Căng thẳng khu vực tài chính làm suy giảm các hoạt động đầu tư mới .47

1.3.2. Căng thẳng khu vực tài chính làm suy giảm các hoạt động kinh tế dẫn đến suy

giảm sản lượng .49

1.4. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ CĂNG THẲNG KHU VỰC TÀI

CHÍNH .55

1.4.1. Kinh nghiệm của Singapore.55

1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc.64

1.4.3. Bài học cho Việt Nam.75

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1.78

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CĂNG THẲNG KHU VỰC TÀI CHÍNH Ở VIỆT

NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2017.79

pdf201 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu căng thẳng khu vực tài chính tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức cao nhất, VNIndex đạt mức 1.170,67 điểm và HASTC-Index đạt 495,36 điểm. Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm, và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng. Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn đầu tư nước ngoài cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm 82 công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch- dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng đầu tư nước ngoài” thứ hai vào Việt Nam. Trong giai đoạn này, có một sự kiện rất quan trọng ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng, hệ thống tài chính nói chung, đó là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết. Theo hiệp định này, thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam từng bước được mở cho các doanh nghiệp của Hoa Kỳ và đến năm 2010, các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ được đối xử bình đẳng như các tổ chức tài chính của Việt Nam. Đây là điều kiện tốt để thị trường tài chính Việt Nam phát triển, nhưng cũng là một thách thức rất lớn cho các tổ chức tài chính trong nước, nhất là các ngân hàng thương mại. Từ ngày 1/4/2007, theo lộ trình cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam sẽ mở cửa, cho phép các ngân hàng ngoại lập ngân hàng con 100% vốn. Số lượng chi nhánh NHNN tại Việt Nam tăng từ 26 chi nhánh năm 2001 lên 33 chi nhánh vào năm 2007, phần nào cho thấy sức hấp dẫn của ngành Ngân hàng Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các tổ chức tài chính quốc tế. Năm 2007, tổng tài sản toàn hệ thống đã tăng lên hơn 1.500 nghìn tỷ đồng tương đương hơn 130% GDP năm 2007. Đặc biệt, trong năm 2007, tăng trưởng tín dụng đạt tốc độ tăng 54% do nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế tăng cao, trong đó bao gồm cả nhu cầu vốn đầu tư chứng khoán và bất động sản. Đây cũng là giai đoạn áp lực cạnh tranh giữa khối NHTM quốc doanh và NHTM cổ phần tăng lên mạnh mẽ, và có sự chuyển dịch thị phần khá nhanh từ khối NHTM quốc doanh sang khối NHTM cổ phần. Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng, đặc biệt đối với hoạt động ngân hàng truyền thống gia tăng mạnh mẽ. Mức độ rủi ro của ngành ngân hàng giai đoạn này cũng gia tăng mạnh mẽ, với nhiều loại rủi ro phải đối mặt như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro hoạt động đầu tư Mức độ cạnh tranh bắt đầu trở nên gay gắt trên thị trường tài chính, xu hướng hợp nhất, hình thành các tập đoàn tài chính đa năng cũng như sự xuất hiện các định chế tài chính và sản phẩm tài chính mới diễn ra ngày càng tăng, như sản phẩm tài chính tích hợp 83 từ các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán và đặt ra các vấn đề cho hệ thống giám sát tài chính hiện hành. Bên cạnh đó, sự xâm nhập của các luồng vốn ngoài dưới hình thức FDI và đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp và các khoản vay thương mại ngắn hạn (bùng nổ vào cuối 2006) tạo nên sự bất ổn tiềm tàng cho thị trường tài chính Việt Nam. Giai đoạn 2008 – 2011 Đây là giai đoạn nền kinh tế có những biến động mạnh và đã bộc lộ rõ rệt những điểm yếu của khu vực tài chính Việt Nam bởi những ảnh hưởng toàn diện của khủng hoảng toàn cầu. Tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, những biến động của kinh tế vĩ mô do tác động từ các biện pháp cứu trợ được đưa ra vào cuối năm 2009 và năm 2010; những biến động không thể kiểm soát của thị trường bất động sản, thị trường vàng đã đặt ra những thách thức rất lớn đối với khu vực tài chính của Việt Nam, ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ ổn định hệ thống tài chính. Trên thị trường ngân hàng xu hướng sáp nhập, hợp nhất hình thành các tập đoàn tài chính đa năng vẫn tiếp tục diễn ra, sự đan xen giữa các sản phẩm tài chính tiếp tục gia tăng mạnh mẽ, như sản phẩm ngân hàng – bảo hiểm được triển khai ở hầu hết các NHTM lớn. Sự gia nhập mạnh mẽ thị trường cung cấp dịch vụ tài chính của nhiều chủ thể trong nước và nước ngoài do rào cản gia nhập thị trường của Việt Nam là khá thấp. Bảng 2.1: Cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam tính đến 30/6/2010 STT Loại hình Ngân hàng Số lƣợng 1 Ngân hàng Thương mại Nhà nước 03 2 Ngân hàng Thương mại cổ phần 39 3 Ngân hàng Phát triển Việt Nam 01 4 Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam 01 5 NHTM 100% vốn nước ngoài 05 6 Chi nhánh NHTM nước ngoài 48 7 NHTM liên doanh 05 Nguồn: NHNN 84 Hoạt động tín dụng ngân hàng liên tục tăng trưởng qua các năm, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng luôn ở mức cao vượt xa mức tăng trưởng mục tiêu, bình quân gần 30%/năm, thậm chí ở mức trên 50% vào cuối năm 2007, đến cuối năm 2008, tốc độ tăng trưởng tín dụng lại vượt quá mức 25% theo kế hoạch (sau này được điều chỉnh lại thành 30%), vào khoảng 37,73% so với cuối năm 2008 – đây là giai đoạn được coi là tăng trưởng tín dụng nóng (Vũ Thị Kim Oanh và Trần Việt Dũng, 2015). Năm 2011 cũng là thời điểm những yếu kém của hệ thống ngân hàng bộc lộ rõ nét, hệ thống ngân hàng Việt Nam rơi vào tình trạng căng thẳng thanh khoản nghiêm trọng, chất lượng tài sản giảm với tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Dòng tiền vào-ra các NHTM biến động mạnh mẽ, quy mô huy động /GDP giảm mạnh qua các năm trong khi quy mô cho vay trên GDP tăng đến 110,2%. Nếu xét về tỷ lệ tăng trưởng tiền gửi năm 2011 là 6,9%, trong khi cho vay/GDP tăng 15,3%. Các Ngân hàng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng lãi suất khiến lãi suất trên thị trường liên tục tăng cao. Thị trường chứng khoán, từ tháng 2/2008 trở đi, bắt đầu chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hoạt động sử dụng đòn bẩy quá lớn trong thời kỳ tín dụng mở rộng năm 2007. Chỉ trong hơn 6 tháng đầu năm 2008, VN-Index đã sụt giảm trên 60% so với thời điểm cuối năm 2007. Với sự chung tay cứu thị trường của các tổ chức lớn và sự quay trở lại của các nhà đầu tư, chỉ số VN-Index có mức phục hồi từ 370,55 điểm lên 561,85 điểm ngày 27/8/2008. Ngay sau đó, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu phát nổ, khởi đầu là sự kiện phá sản của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers của Mỹ vào ngày 15/9/2008. Những hiệu ứng âm ỉ của sự kiện này đã bao trùm thị trường suốt 3 tháng còn lại của năm 2008 và kéo dài tới tận tháng 3/2009. Riêng trong 3 tháng cuối năm 2008, VN-Index sụt giảm gần 35% so với thời điểm ngày 26/9/2008 và sụt tiếp gần 22% nữa trong 3 tháng kế tiếp. Tuy nhiên năm 2010, thị trường chủ yếu đi theo chiều hướng giảm cả về chỉ số chứng khoán và khối lượng giao dịch. Số cổ phiếu giao dịch bình quân giảm xuống còn khoảng 60 triệu đơn vị. Chỉ số VNINDEX giảm xuống mức thấp nhất năm 2010 là 423,89 điểm. Nửa đầu năm 2011, thị trường tiếp tục đà suy giảm, 85 VNINDEX giảm xuống 400,88 điểm vào ngày 05/08/2011. Giai đoạn 2008-2011 cũng là giai đoạn dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam tăng vọt, đặc biệt là chảy vào lĩnh vực bất động sản, với đặc điểm tín dụng bất động sản có mối quan hệ thuận chiều với thị trường bất động sản (Đỗ Thị Kim Hảo và Nguyễn Minh Nguyệt, 2015), khi FDI đổ vào bất động sản tăng, tín dụng bất động sản tăng, khiến thị trường BĐS nóng lên nhanh chóng và gây ra những bất ổn cho nền kinh tế. Nguồn: Lê Quốc Hội (2013) Hình 2.2: Tỷ trọng FDI vào lĩnh vực bất động sản Giai đoạn từ 2012 đến nay Kể từ năm 2012, các cơ quan quản lý nhà nước đã có nhiều nỗ lực ban hành các chính sách và gói kích thích kinh tế nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư cả nội địa và ngoại nhập, nhằm tháo gỡ khó khăn cho thị trường. Các hiệp định thương mại tự do (FTA) được thương thảo và thị trường từ 2012 đến nay đã và đang có nhiều chuyển biến tích cực. Tăng trưởng GDP ổn định ở mức trên 6% trong bối cảnh kinh tế thế giới chậm chạp, CPI được kiểm soát ở mức thấp dưới 5%. GDP bình quân đầu người tăng vọt từ khoảng hơn 900 đô la Mỹ/người đến hơn 2.000 đô la Mỹ/người, góp phần giúp Việt Nam bắt kịp các nước trong khu vực, thoát khỏi xếp hạng quốc gia nghèo. Giai đoạn 2012 đến nay cũng đánh dấu những thành công nhất định của Nhà nước trong quá trình tái cấu trúc thị trường tài chính tiền tệ, khắc phục những thất bại của thị trường trong giai đoạn 2008 – 2011. Nhìn chung, hệ thống tài chính đã 15.2 28.6 36.8 35.5 34.3 6.4 0% 20% 40% 60% 80% 100% 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Bất động sản Lĩnh vực khác 86 đảm bảo tốt khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế. Trong năm 2017, hệ thống tài chính cung ứng khoảng trên 1 triệu 300 nghìn tỷ đồng cho nền kinh tế. Trong đó, khu vực ngân hàng cung ứng 64,6%; thị trường vốn cung ứng 35,4%. Tính đến cuối năm 2017, tổng nguồn vốn hệ thống tài chính cung ứng cho nền kinh tế tương đương 198% GDP, tăng 28,6% so với cuối năm 2016. Khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế của hệ thống tài chính được đảm bảo trước hết do thanh khoản của khu vực ngân hàng khá dồi dào. Đồng thời, diễn biến tích cực của thị trường cổ phiếu và trái phiếu đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát hành TPDN và cổ phần hóa DNNN. Vai trò của thị trường vốn trong việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế ngày càng tăng, tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế từ thị trường vốn tăng dần qua các năm với tốc độ 33,4%/năm, từ mức cung ứng 21,6% năm 2012 lên mức 35,4% năm 2017 (UBGSTCQG, 2017). Nguồn: UBGSTCQG Hình 2.3: Tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế Tổng tài sản hệ thống tài chính năm 2017 tăng 17,3% so với cuối năm 2016, tuy nhiên quy mô hệ thống tài chính Việt Nam vẫn nhỏ hơn các nước trong khu vực. Tổng tài sản hệ thống tài chính tương đương 200% GDP, thấp hơn nhiều so với số bình quân của nhóm 5 quốc gia hàng đầu ASEAN (318% GDP). So với các nước trong khu vực, năng lực cung ứng vốn của hệ thống tài chính Việt Nam còn hạn chế. Độ sâu tài chính của hệ thống tài chính Việt Nam chỉ đạt 181% GDP, thấp hơn so với các nước trong khu vực. 87 Nguồn: UBGSTCQG Hình 2.4: Tổng tài sản hệ thống tài chính/GDP của Việt Nam và một số quốc gia Nguồn: WB, IMF Hình 2.5: Độ sâu tài chính so với các nƣớc trong khu vực %GDP năm 2016 Quá trình tái cơ cấu hệ thống TCTD đến cuối năm 2017 đã tháo gỡ cơ bản các khó khăn của hệ thống: (i) Tình trạng căng thẳng thanh khoản được kiểm soát, thanh khoản chung của toàn hệ thống ổn định; (ii) Phát hiện và khu biệt các TCTD yếu kém; (iii) Tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo dưới 3%, số nợ xấu được xử lý từ năm 2013 đến năm 2017 hơn 500 nghìn tỷ đồng (trong đó số nợ bán cho VAMC chiếm 41,6%, TCTD tự xử lý khoảng 58,4%), đồng thời các TCTD đang hạn chế dần việc chuyển nợ sang VAMC mà tìm cách tự xử lý thông qua bán nợ, phát mại TSĐB; sử dụng dự phòng. (iv) Sở hữu chéo, đầu tư chéo dần được kiểm soát; (v) Các TCTD chú trọng hơn vào quản trị rủi ro và quản trị điều hành, các văn bản quy phạm pháp luật về chuẩn mực an toàn trong hoạt động của các TCTD được ban hành. Hầu hết các khó khăn của hệ thống TCTD trước năm 2011 về cơ bản đã được tháo gỡ. Nguồn: UBGSTCQG Hình 2.6: Tốc độ tăng trƣởng tín dụng và tiền gửi ngân hàng, 2012-2017 88 Thị trường chứng khoán chứng kiến đà tăng trưởng tốt, từ 2012 đến 2017 đã tăng từ khoảng 400 điểm lên hơn 900 điểm, đạt mức cao nhất trong 9 năm qua. Số lượng doanh nghiệp niêm yết cùng khối lượng giao dịch trên sàn tăng vọt. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 66% GDP. Đồng thời, tháng 8/2017, thị trường chứng khoán phái sinh chính thức ra đời, tạo điều kiện tích cực cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. Thị trường cổ phiếu phản ánh niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng phục hồi tăng trưởng cũng như quyết tâm của Chính phủ trong hỗ trợ doanh nghiệp và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Chỉ số VNIndex cuối năm 2016 vượt vùng đỉnh 650 điểm kể từ năm 2009 đến nay. Thị trường trái phiếu chuyên biệt đã được thành lập và hoạt động tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội, song chủ yếu là trái phiếu Chính phủ. Số lượng trái phiếu Chính phủ niêm yết trên thị trường khá lớn (160 nghìn tỷ đồng) với rất nhiều loại trái phiếu (hiện nay có 135 loại trái phiếu với các kỳ hạn khác nhau), đồng thời sự liên kết với thị trường tiền tệ còn lỏng lẻo, chưa hình thành hệ thống các nhà tạo lập thị trường (Primary Dealers) cùng với yếu tố vĩ mô chưa thuận lợi (lạm phát, lãi suất cao) nên chưa tạo ra được đường cong lãi suất chuẩn, thị trường giao dịch trái phiếu có tính thanh khoản yếu. Số lượng trái phiếu doanh nghiệp ít, chủ yếu là trái phiếu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội, Tổng công ty Đường cao tốc phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác rất khó khăn trong việc huy động vốn thông qua trái phiếu do lãi suất thị trường còn cao. Nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát tỷ giá hối đoái cũng đem lại hiệu quả tích cực khi trong giai đoạn này, đồng Việt Nam là một trong các đơn vị tiền tệ ổn định nhất khu vực. Yếu tố tỷ giá chính là một trong những thế mạnh của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian phát triển gần đây, hỗ trợ tích cực cho hoạt động đầu tư và ngoại thương. Giá vàng cũng chứng kiến một quá trình tương tự khi tăng nhanh trong giai đoạn 2008-2012 và sau đó chững lại đi ngang ổn định. Điều này thể hiện niềm tin được phục hồi phần nào sau khủng hoảng, doanh nghiệp và người dân dần có lại sự tín nhiệm vào sự phát triển của nền kinh tế, vào 89 thị trường tài chính – ngân hàng. Nguồn: IFS Hình 2.7: Diễn biến tỷ giá VND/USD Hình 2.8 cho thấy cơ cấu tài sản hệ thống tài chính Việt Nam năm 2017 còn chưa hợp lý: hệ thống các TCTD chiếm tới 95,9% trong khi khu vực bảo hiểm chiếm 3% và công ty chứng khoán và quản lý quỹ chỉ chiếm 1,1% tổng tài sản của cả hệ thống tài chính. Nguồn: UBGSTCQG Hình 2.8: Cơ cấu tài sản hệ thống tài chính Việt Nam năm 2017 2.2. THỰC TRẠNG CĂNG THẲNG KHU VỰC TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2017 2.2.1. Căng thẳng thị trƣờng tiền tệ Cho đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây, thị trường tiền tệ vẫn chưa nhận được sự quan tâm chính đáng của các nhà nghiên cứu kinh tế cũng như công chúng. Thị trường tiền tệ là nguồn tài trợ ngắn hạn quan trọng cho hệ thống ngân hàng, là 20,000 20,500 21,000 21,500 22,000 22,500 23,000 2 0 1 2 Q 1 2 0 1 2 Q 2 2 0 1 2 Q 3 2 0 1 2 Q 4 2 0 1 3 Q 1 2 0 1 3 Q 2 2 0 1 3 Q 3 2 0 1 3 Q 4 2 0 1 4 Q 1 2 0 1 4 Q 2 2 0 1 4 Q 3 2 0 1 4 Q 4 2 0 1 5 Q 1 2 0 1 5 Q 2 2 0 1 5 Q 3 2 0 1 5 Q 4 2 0 1 6 Q 1 2 0 1 6 Q 2 2 0 1 6 Q 3 2 0 1 6 Q 4 2 0 1 7 Q 1 2 0 1 7 Q 2 2 0 1 7 Q 3 2 0 1 7 Q 4 Tỷ giá VND/USD Tổ chức tín dụng 95.900% Bảo hiểm 3.000% Công ty chứng khoán và quản lý quỹ 1.100% 90 nguồn gốc cơ bản của vấn đề thanh khoản của khu vực tài chính, do đó có thể nói căng thẳng thị trường tiền tệ phần nào phản ánh tình trạng căng thẳng khu vực tài chính. Để xem xét căng thẳng trên thị trường tiền tệ, nghiên cứu xem xét chênh lệch giữa lãi suất liên ngân hàng và lãi suất tín phiếu kho bạc với cùng thời hạn là 3 tháng (chênh lệch TED). Tín phiếu kho bạc về cơ bản là không có rủi ro tín dụng hay thanh khoản, nói cách khác là có mức rủi ro thấp nhất trong các công cụ trên thị trường tiền tệ vì có rất ít khả năng là chính phủ sẽ không trả được nợ, đồng thời, tín phiếu cũng rất dễ dàng có thể chuyển thành tiền. Chúng có tính thanh khoản cao, được phát hành dưới hình thức tín chỉ hoặc bút toán ghi sổ, song hầu hết ở dạng ghi sổ. Đây là công cụ chiết khấu điển hình, không có phiếu lãi suất. Thu nhập từ tín phiếu (chênh lệch giữa giá mua và giá bán hoàn trả) không bị đánh thuế vì chúng không được coi là tài sản vốn. Do đó, lãi suất của khoản vay liên ngân hàng không có đảm bảo sẽ phải cao hơn lãi suất tín phiếu kho bạc. Chênh lệch này chính là phần bù đắp cho nhà đầu tư với rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản. Khi nền kinh tế có tình trạng không chắc chắn, các nhà đầu tư đòi hỏi tài sản thế chấp có chất lượng tốt hơn, làm tăng cầu và do đó giảm lãi suất với chứng khoán do nhà nước phát hành, lãi suất cho vay không có đảm bảo trên liên ngân hàng có xu hướng tăng lên do đó làm tăng chênh lệch TED. Nguồn: NHNN Hình 2.9: Lãi suất tín phiếu kho bạc 3 tháng, lãi suất liên ngân hàng 3 tháng và chênh lệch TED 4.773 2.969 1.676 -4.000 -2.000 .000 2.000 4.000 6.000 8.000 10.000 12.000 14.000 16.000 18.000 2 0 0 5 Q 1 2 0 0 5 Q 4 2 0 0 6 Q 3 2 0 0 7 Q 2 2 0 0 8 Q 1 2 0 0 8 Q 4 2 0 0 9 Q 3 2 0 1 0 Q 2 2 0 1 1 Q 1 2 0 1 1 Q 4 2 0 1 2 Q 3 2 0 1 3 Q 2 2 0 1 4 Q 1 2 0 1 4 Q 4 2 0 1 5 Q 3 2 0 1 6 Q 2 2 0 1 7 Q 1 2 0 1 7 Q 4 Chênh lệch TED LS TPKB 3 tháng LS LNH 3 tháng 91 Hình trên cho thấy những giai đoạn căng thẳng thị trường tiền tệ được phản ánh tương đối rõ nét khi chênh lệch TED tăng đáng kể. Các giai đoạn chênh lệch TED gia tăng là giai đoạn những năm 2007 (chênh lệch TED là 4,77%), cuối năm 2008 đầu năm 2009 (chênh lệch TED là 2,97%) và giai đoạn cuối năm 2011 và đầu năm 2012 (chênh lệch TED là 1,68%). Giai đoạn những năm 2007 Quan sát trên đồ thị có thể thấy, trong giai đoạn này lãi suất liên ngân hàng không có sự biến động tăng mạnh, chênh lệch TED lớn chủ yếu là do lãi suất tín phiếu kho bạc giảm mạnh trong hai năm 2006 và 2007. Việc xác định khối lượng và lãi suất trúng thầu của tín phiếu kho bạc được dựa vào khối lượng, lãi suất đặt thầu của các thành viên và khối lượng tín phiếu kho bạc Chính phủ muốn huy động. Ở Việt Nam, Chính phủ đưa ra lãi suất chỉ đạo trong quá trình đấu thầu và lãi suất trúng thầu không được vượt quá lãi suất chỉ đạo này. Lãi suất chỉ đạo được áp dụng để giới hạn mức lãi tối đa mà Chính phủ phải trả cho tín phiếu kho bạc huy động, trong khi có những phiên đấu thầu, nhà đầu tư đặt thầu với mức lãi suất khá cao (thậm chí, lãi suất đặt thầu cao hơn lãi suất của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm), làm ảnh hưởng đến mức giá thực của tín phiếu. Điều này dẫn tới tình trạng Chính phủ khó có thể huy động được đủ khối lượng tín phiếu như mong muốn. Nhìn vào diễn biến đấu thầu TPKB giai đoạn 2006 – 2007 có thể lí giải nguyên nhân chênh lệch TED tăng cao trong giai đoạn này (4,77%) là do năm 2007 NHNN phát hành tín phiếu ngân hàng dưới 1 năm, vì thế TPKB không còn hấp dẫn các nhà đầu tư, lãi suất trúng thầu TPKB kỳ hạn 3 tháng giảm còn 3,35%, lượng vốn huy động được cũng rất thấp, ở mức 10.179 tỷ đồng, giảm gần 50% so với lượng vốn huy động năm 2006. Giai đoạn 2008 - 2012 Từ đầu năm 2008, theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ trong văn bản số 30/2008/NQ-CP nhằm ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, NHNN Việt Nam đã sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt theo truyền thống với các công cụ chủ yếu như tăng lãi suất tái cấp vốn và dự trữ bắt buộc, bán trái phiếu NHNN NHNN đã tăng tất cả các loại lãi suất chỉ đạo tới mức cao chưa từng có: lãi suất cơ bản được điều chỉnh 92 tới 14%; cặp lãi suất tái cấp vốn tăng từ 4,5-6,5% lên 13-15% vào tháng 6/2008. Phản ứng dữ dội của thị trường tiền tệ đẩy lãi suất kinh doanh của hệ thống ngân hàng lên tới 24-26%/năm. Các ngân hàng nhỏ gặp khó khăn khi huy động vốn ở thị trường I di chuyển nhu cầu sang thị trường II và làm cho lãi suất liên ngân hàng tăng lên tới mức 30- 40%/năm. Sự biến động tăng đột biến và ở mức cao từ đầu năm 2008 đến giữa 2009 phản ánh sự căng thẳng về vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh, lãi suất TPKB cũng biến động tăng, có thời điểm lãi suất TPKB tăng lên trên 15%. Nếu nhìn vào mức lãi suất các TCTD tham gia nghiệp vụ thị trường mở (OMO) trong giai đoạn này cũng có thể thấy rõ được tình trạng căng thẳng thanh khoản trên thị trường. Năm 2008, nhiều TCTD đã tham gia OMO với mức lãi suất đặt thầu rất cao, trong một số phiên giao dịch mua kỳ hạn với thời hạn 07 ngày, lãi suất đăng ký đã lên tới khoảng 40%/năm và lãi suất trúng thầu khoảng 30%/năm. Trước tình hình đó, NHNN đã phải áp dụng đấu thầu khối lượng, NHNN đặt ra mức lãi suất thống nhất nhằm tạo định hướng cho thị trường trong từng thời điểm cụ thể. Cuối 2008, CSTT nới lỏng thận trọng của NHNN đã giúp thị trường liên ngân hàng hạ nhiệt, lãi suất giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn và sau đó được duy trì tương đối ổn định đến khoảng tháng 7/2009 cùng với sự ổn định của các mức lãi suất chỉ đạo trong thời gian này (lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu). Chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính phủ khiến nhiều doanh nghiệp chuyển từ vay USD sang vay VND cùng với việc NHNN giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn khiến việc vay mượn VND trở nên đắt đỏ và kết quả là lãi suất liên ngân hàng tăng vào giai đoạn cuối 2009. Chính sách tiền tệ thắt chặt lại được áp dụng lần nữa vào năm 2010-2011 (sau thời gian nới lỏng để kích cầu năm 2009) song song với trần lãi suất tăng từ 11%, 12% đến 14% kèm theo chế tài xử phạt hành chính các ngân hàng vi phạm trần. Quan điểm duy trì CSTT thắt chặt là khá quyết liệt thông qua Nghị quyết 11 của Chính phủ từ đầu năm khiến Lãi suất LNH tiếp tục tăng mạnh và duy trì ở mức cao trong năm 2011 phản ánh chính xác động thái theo đuổi CSTT thắt chặt của NHNN, nhiều ngân hàng gặp vấn đề về thanh khoản và huy động vốn trên thị trường. Dấu hiệu đình đốn đã bắt đầu xuất hiện từ cuối năm 2011. Mặc dù NHNN khống chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 20% nhưng mức tăng thực 93 tế thấp (khoảng 12%). Từ cuối quý IV năm 2011 NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng, nhưng nhu cầu tín dụng vẫn rất thấp, báo hiệu tình trạng đình đốn của khu vực sản xuất, nhu cầu tín dụng giảm. CSTT nới lỏng cùng các biện pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng từ 2012 đến nay đã cải thiện tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng, lãi suất liên ngân hàng có xu hướng giảm ở tất cả các kỳ hạn đối với cả VND và ngoại tệ. 2.2.2. Căng thẳng khu vực ngân hàng Để đánh giá căng thẳng khu vực ngân hàng, dữ liệu bảng cân đối đã được sử dụng, trong đó xem xét sự biến động của tỷ lệ tiền gửi/GDP, tỷ lệ cho vay/GDP và tỷ lệ nợ xấu của khu vực ngân hàng. Theo Reinhart và Rogoff (2009), khi tiền gửi của ngân hàng giảm đột ngột, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng, ngân hàng có thể phải bán bớt các tài sản để đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh khoản đến hạn, dẫn đến cung tín dụng giảm, dẫn đến căng thẳng khu vực tài chính. Giá tài sản giảm hay chất lượng tín dụng đi xuống, phản ánh thông qua tỷ lệ nợ xấu tăng, dẫn đến giảm giá trị của các tài sản của ngân hàng. Các ngân hàng phải bán bớt các tài sản của mình (firesales – bán tống), do đó, ảnh hưởng đến cấu trúc bảng cân đối của ngân hàng. Giảm giá trị các tài sản thế chấp, yếu tố quan trọng của cung tín dụng, dẫn đến cắt giảm tín dụng, khiến cho thị trường tài chính căng thẳng (Kappler và Schleer, 2013). Hình 2.10: Tỷ lệ Huy động/GDP và Cho vay/GDP giai đoạn 2005-2016 Nguồn: Báo cáo tài chính các NHTM Hình 2.11: Tỉ lệ nợ xấu hệ thống NHTM Việt Nam 2005-2016 .000 .200 .400 .600 .800 1.000 1.200 .000% 20.000% 40.000% 60.000% 80.000% 100.000% 120.000% 2 0 0 5 Q 1 2 0 0 6 Q 3 2 0 0 8 Q 1 2 0 0 9 Q 3 2 0 1 1 Q 1 2 0 1 2 Q 3 2 0 1 4 Q 1 2 0 1 5 Q 3 2 0 1 7 Q 1 Cho vay/Tiền gửi CV/GDP TG/GDP .00% .500% 1.00% 1.500% 2.00% 2.500% 3.00% 3.500% 4.00% 4.500% 2 0 0 5 2 0 0 6 2 0 0 7 2 0 0 8 2 0 0 9 2 0 1 0 2 0 1 1 2 0 1 2 2 0 1 3 2 0 1 4 2 0 1 5 2 0 1 6 2 0 1 7 Tỷ lệ nợ xấu 94 Qua quan sát hình 2.10 và hình 2.11 có thể thấy giai đoạn 2008 - 2011 chứng kiến sự biến động mạnh mẽ trong quy mô huy động và cho vay của hệ thống ngân hàng, chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng cũng suy giảm nghiêm trọng khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao trên mức 3% vào các năm 2006 và giai đoạn từ năm 2011 – 2014. Những căng thẳng của hệ thống ngân hàng bắt đầu xuất hiện năm 2008. Tình trạng của các ngân hàng bị ảnh hưởng chủ yếu bởi tình trạng thanh khoản trong nước chặt chẽ hơn, lãi suất cao hơn, và sự suy giảm trong giá tài sản vào nửa đầu năm 2008 cũng như tình trạng tăng trưởng đang chậm lại trong nửa cuối của năm 2008. Tỷ lệ huy động vốn trên GDP giảm mạnh từ 80,5% năm 2007

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_cang_thang_khu_vuc_tai_chinh_tai_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan