Luận án Nghiên cứu phát triển trò chơi vận động dân gian và thể thao dân tộc cho sinh viên khối sư phạm trường Đại học Tây Bắc

MỤC LỤC

Trang bìa Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục ký hiệu viết tắt

Danh mục các biểu bảng, biểu đồ trong luận án

PHẦN MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 5

1.1. Một số khái niệm có liên quan 5

1.2. Quan điểm của Đảng và nhà nước về công tác GDTC trong

thời kỳ đổi mới

10

1.3. Sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục thể chất

và thể thao trường học

13

1.4. Vị trí, nhiệm vụ, nội dung giáo dục thể chất trường đại học 16

1.4.1. Vị trí của giáo dục thể chất ở trường đại học 16

1.4.2. Nhiệm vụ của giáo dục thể chất trường đại học 17

1.4.3. Nội dung chương trình giáo dục thể chất trường đại học 18

1.5. Đặc điểm của giáo dục thể chất và thể thao trường học 20

1.5.1. Giáo dục thể chất nội khóa 20

1.5.2. Hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa 21

1.6. Ý nghĩa của trò chơi 23

1.6.1. Ý nghĩa của trò chơi đối với đời sống 23

1.6.2. Ý nghĩa giáo dục của trò chơi 25

1.6.3. Mục đích và lợi ích giáo dục của trò chơi 26

1.7. Trò chơi dân gian và thể thao dân tộc là một phương tiện giáo

dục thể chất

27

1.8. Đặc điểm sinh lý, tâm lí độ tuổi sinh viên 30

1.8.1. Đặc điểm sinh lý 30

1.8.2. Đặc điểm tâm lý 31

1.8.3. Đặc trưng tâm lý sinh viên các dân tộc thiểu số 33

1.9. Khái quát về Trường Đại học Tây Bắc 35

1.10. Những công trình nghiên cứu liên quan 37

1.10.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 37

1.10.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 38

Tóm tắt chương 1 42

CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC

NGHIÊN CỨU

44

2.1. Đối tượng, khách thể nghiên cứu 44

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 442.1.2. Khách thể nghiên cứu 44

2.2. Phương pháp nghiên cứu 45

2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu 45

2.2.2. Phương pháp phỏng vấn 46

2.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học 47

2.2.4. Phương pháp quan sát sư phạm 47

2.2.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm 48

2.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 51

2.27. Phương pháp toán thống kê 52

2.3. Tổ chức nghiên cứu 54

2.3.1. Phạm vi nghiên cứu 54

2.3.2. Kế hoạch nghiên cứu 54

2.3.3. Địa điểm nghiên cứu 54

pdf247 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 391 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu phát triển trò chơi vận động dân gian và thể thao dân tộc cho sinh viên khối sư phạm trường Đại học Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đồng ý (3.4 – 4.2 điểm) và rất đồng ý (4.21 – 5.0) theo thang đo Likert và hầu như đều có ý nghĩa thống kê với P<0.05 đến P<0.01 nếu so ý kiến đồng ý trở lên với các ý kiến còn lại (Bình thường, không đồng ý, rất không đồng ý) 3.2.7. Bàn luận mục tiêu 2 Về sưu tập các trò chơi dân gian vùng Tây Bắc: Từ xa xưa, cha ông ta đã sáng tạo ra nhiều trò chơi dân gian, góp phần tạo nên sự đa dạng và đặc sắc của văn hóa cổ truyền dân tộc. Các trò chơi thường được tổ chức quy củ trong lễ hội, tạo nên nét đặc trưng tiêu biểu, làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần trong phong tục tập quán của cư dân các vùng miền của đất nước. Trò chơi dân gian mang tính giải trí lành mạnh, rèn luyện thể lực, kích thích trí thông minh, tài khéo léo của con người, mang tính cộng đồng rất cao, lôi cuốn mọi người cùng vui chơi và ai cũng có thể tham gia. Trong các lễ hội, bên cạnh phần lễ, phần hội luôn thu hút sự tham gia của đông đảo người dân địa phương và du khách thập phương bởi sự phong phú của các TCDG, tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi cho cả người chơi và người xem. 84 Bên cạnh việc khuyến khích rèn luyện sức khỏe, thể hiện sự khéo léo của người chơi, TCDG còn góp phần nâng cao tinh thần cộng đồng, gắn kết tình làng nghĩa xóm. Cha ông cha ta đã sáng tạo ra rất nhiều trò chơi như: đánh đu, kéo co, đấu vật, đánh cờ tướng, hô bài chòi... Ðồng bào các dân tộc thiểu số cũng có các trò chơi khá phong phú như: ném còn, đẩy gậy, đi cà kheo... Các cư dân vùng biển thì có thi bơi biển, kéo co trên cát, chạy tiếp sức trên bãi biển hay thi gánh cá.[36], [37]. Trong hành trình hình thành, lưu truyền văn hóa dân gian Tây Bắc, có những vùng đất đã đi vào tiềm thức của con người, trở thành địa chỉ văn hóa để mỗi khi nhắc đến, mỗi người đều cảm nhận đó là một miền đất của văn hóa dân gian. Dọc hành trình lên Tây Bắc, ở đâu, chúng ta cũng gặp những miền đất văn hóa. Ở đó, có sự hòa điệu tuyệt vời giữa vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của cảnh sắc thiên nhiên với chất văn hóa dân gian đậm đà bản sắc. Chính sự hòa điệu này là yếu tố quan trọng để mời gọi, níu chân du khách và quảng bá, giới thiệu những sản phẩm văn hóa. Văn hóa dân gian Tây Bắc được hiện hữu trong đời sống của đồng bào vùng cao rất tự nhiên, giản dị mà vẫn có những nét riêng độc đáo. Bởi tính diễn xướng của những loại hình văn hóa dân gian nên mỗi nét lại có cách biểu hiện riêng [90], [91]. Lễ hội Gầu Tào của đồng bào dân tộc Mông (Mai Châu) là nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đã có từ lâu đời. Việc tổ chức lễ hội Gầu Tào nhằm tôn vinh bản sắc văn hóa, dân tộc, tăng cường quảng bá với du khách trong nước và quốc tế về lịch sử, văn hóa và tiềm năng du lịch của xã Hang Kia và xã Pà Cò. Đồng thời, lễ hội cũng tạo không khí vui tươi phấn khởi cho. Trong Lễ hội Gầu Tào của người Mông, cây nêu được trồng trên bãi đất rộng, bằng phẳng, thể hiện sự vững chãi, tâm điểm của trời đất. Nhiều người cao tuổi am hiểu tập tục của tổ tiên, chia sẻ: ngọn cây nêu bao giờ cũng hướng về hướng Đông, là 85 hướng sinh, với mong muốn của người Mông là cầu sinh con, cũng là hướng của mặt trời mọc, với mong ước mùa màng bội thu, cầu cho sức khỏe của bản làng. Việc cúng lễ ngay dưới gốc cây nêu là để cầu trời đất để thần linh phù hộ cho bản làng yên vui, người người khỏe mạnh, hạnh phúc, ăn nên làm ra, trồng trọt, chăn nuôi sinh sôi, được mùa[90]. Đến với Lễ hội Gầu Tào, các du khách được thưởng thức những tiết mục văn nghệ đặc sắc, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Mông. Du khách cũng được chứng kiến nghi lễ dựng cây nêu mà từ lâu cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về người Mông làm và coi đây là biểu tượng thiêng liêng, tránh những xui xẻo, mang lại may mắn cho năm mới. Du khách còn được tham gia vào các hoạt động như: múa khèn, ném pao, thăm các gian hàng ẩm thực - văn hóa và xem thi đấu các môn thể thao dân tộc bắn nỏ, đánh cù, giã bánh dày. Từ xa xưa, trẻ em đồng bào Thái có rất nhiều trò chơi dân gian và trong các ngày lễ, tết, ngày hội vui bản vui mường không thể thiếu những trò chơi này. Nhưng theo năm tháng, nhiều trò chơi đã bị mai một, chỉ còn lại một số trò như ném còn, đẩy gậy, kéo co, đánh đu.... Những trò chơi của trẻ em đồng bào Thái luôn gắn với câu đồng dao, lời ca văn vần vào một trò chơi để các em vừa hát vừa chơi hồn nhiên, phù hợp với tâm sinh lý của trẻ em. Như trò chơi “ Num num tảu tảu” (Vào vào ra ra ). Ngoài trò chơi “ Num num tẩu tẩu” các em còn có nhiều trò chơi khác như “ Tham ngu” (Hỏi rắn ). Nhiều em ôm ngang lưng nhau làm dây nhái. Một em làm nhái, em ở đầu dây hỏi và lừa em ở cuối dây. Vừa chơi vừa hát “ Rắn gì? Rắn ráo trắng; Rắn gì? Rắn ráo nâu; Kiếm gì ăn? kiếm nhái ăn; Nhái gì? Nhái bén: Đớp được đớp thử xem”. Một trò chơi khác khá phổ biến dưới gầm sàn xưa. Bà con thường làm cái đu cho trẻ em ngồi đu, chơi cùng với câu hát “Ngồi lên đu, đu quay, thang đu 86 cây chó đẻ; đu về dưới cưỡi thuyền; đu lên trên cưỡi ngựa... Đến bãi cỏ chăn trâu; đến rừng mây chăn voi; đu vút bổng...đu vút bay...bay.”. Ở bản Bó, phường Chiềng An, thành phố Sơn La, trẻ em đồng bào Thái ngày xưa có rất nhiều trò chơi. Những trò chơi trẻ em, trời mưa thì chơi dưới gầm sàn, lúc trăng sáng thì rủ nhau cùng chơi giữ sân bản. Mùa đông trời giá rét thì nhóm lửa giữa sân cùng chơi, như chơi âm, chơi giáp trận, chơi cướp cờ, kéo co, đến tết thì chơi ném còn ... Trò chơi “Phăn liêng” (Giáp trận ) cũng được các em tổ chức chơi rất vui nhộn cùng hát, cùng chơi. Các em chia ra thành 2 phe, số người tham trận được bàn bạc thống nhất trước, cử người làm trọng tài, có người ghi điểm. Ai bị chém tức là lấy tay đụng đến đầu, vai hoặc rốn thì bị loại không được tính điểm. Cách tính điểm như đã được quy định trong bài hát. Ai tạo được nhiều điểm nhất được làm tướng cưỡi ngựa hô quân, ai cao điểm thứ 2 thì cầm cờ đi trước, ai đứng thứ 3 làm phụ tá hộ vệ tướng. Trò chơi dân gian là một mảng quan trọng trong di sản văn hóa phi vật thể của người Mường. Đây là tri thức bản địa tồn tại dưới dạng các trò chơi dân gian ngoài mục đích chính là giải trí còn có mục đích rèn luyện thể lực, rèn luyện trí óc, giáo dục con người; đồng thời nó phản ánh đời sống, sinh hoạt, sản xuất, quan hệ giữa con người với con người và với thiên nhiên. Với người Mường, từ bao đời nay trò chơi dân gian đã đồng hành cùng con người những lúc vui buồn cũng như khi mệt mỏi, có khi là lúc nông nhàn hay vào mùa lễ tết. Bất cứ lúc nào hay ở nơi đâu cũng xuất hiện những trò chơi dân gian giúp con người được vui chơi, được giải trí nhất là với con trẻ. Không chỉ có vậy, với người Mường trò chơi dân gian còn là công cụ hữu ích để giáo dục, rèn luyện trẻ em, giúp các em vừa chơi, vừa học, có một số kỹ năng và nhân cách con người [91]. 87 Về thực trạng sử dụng trò chơi dân gian vùng Tây Bắc: Trò chơi dân gian là một mảng quan trọng trong di sản văn hóa phi vật thể đồng bào các dân tộc thiểu số. Đây là tri thức bản địa tồn tại dưới dạng các trò chơi dân gian, ngoài mục đích chính là giải trí còn có mục đích rèn luyện thể lực, rèn luyện trí óc, giáo dục con người; đồng thời nó phản ánh đời sống, sinh hoạt, sản xuất, quan hệ giữa con người với con người và với thiên nhiên. Các trò chơi dân gian của các dân tộc Tây Bắc khá đa dạng và phong phú, được dân gian sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất và trong cuộc sống thường ngày. Các trò chơi được tổ chức đa dạng cho cả trẻ em và người lớn chơi, các trò chủ yếu là trò chơi tập thể và được giới thiệu rất cụ thể cách thức chơi, đối tượng chơi, luật chơi, các bước tiến hành của từng trò chơi [38], [77]. Nhưng theo năm tháng, nhiều trò chơi đã bị mai một, chỉ còn lại một số trò như ném còn, đẩy gậy, kéo co, đánh đu.... Về lựa chọn các trò chơi vận động dân gian và thể thao dân tộc: Trong những điều kiện sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, trò chơi ở Việt Nam chưa trở thành hoạt động giải trí thường xuyên của con người mà còn gắn liền với lễ thức và chỉ xuất hiện trong những thời điểm nhất định có tính chất định kỳ. Các trò chơi của trẻ em và trò đánh bạc thì có thể diễn ra quanh năm. Còn phần lớn hoạt động vui chơi của người nông dân Việt Nam (nhất là ở phía Bắc) đều gắn với hội làng tập trung chủ yếu vào lễ hội xuân. Mà đã gắn vào lễ hội xuân thì phần lớn các trò chơi đều thích hợp vào những lễ tiết nông nghiệp mở màn cho một chu kỳ sản xuất mới. Với tình hình sưu tầm và nghiên cứu về trò chơi dân gian của ta hiện nay, chúng ta chưa thể đưa ra một sự phân loại thật khoa học.Trên cơ sở những tài liệu đã sưu tầm được, có thể tạm phân loại trò chơi ở nước ta thành 5 loại sau đây [32], [35]. Trò chơi mang ý nghĩa tín ngưỡng: Trong lễ hội của làng xã, nhiều nghi 88 lễ ở thời kỳ đầu chỉ thuần túy mang ý nghĩa tín ngưỡng, nhưng từ bên trong nó đã báo hiệu sẽ là trò chơi. Nói cách khác, những trò chơi này tuy vẫn chủ yếu thuộc về phần lễ- mà ý nghĩa bao trùm là tín ngưỡng phồn thực, được thấy rõ trong đó “Tranh nỗ nướng”, “Rước sinh thực khí”, “Tranh cây mộc tất” và có thể kể cả những tục tắt đèn để trai gái đùa nghịch trong đình như “Hội rã la”. :Hội làng ném” Bên cạnh đó còn có các trò chơi phản ánh những tín ngưỡng cổ mà đến nay đã bị đẩy ra ngoài biên như hình thái thờ thần mặt trời, thờ mặt trăng. Điều đáng lưu ý là những hình thái tín ngưỡng kể trên không liên quan gì đến vị thần chính thờ phụng trong làng. Đó là vì thành hoàng, phần lớn là một nhân vật anh hùng dân tộc hay người có công khai canh làng xã được thờ trong đình. Về mặt biểu hiện tôn giáo, vị này là đối tượng thờ cúng chính của lễ hội mà quy cách tế lễ đã được thống nhất ở khắp các làng Việt trên đất nước ta. Còn những hình thái tôn giáo biểu hiện trong các trò chơi và cả một phần trong lễ thức – lại là dấu tích của các tín ngưỡng đã được đẩy xuống hàng thứ yếu, phần nào bị chìm vào dĩ vãng và không trực tiếp liên quan đến việc thờ thành hoàng trong đình. Trò chơi giải trí: Nói giải trí là đánh giá mục đích trực tiếp của từng trò chơi như ta còn thấy ngày nay. Thực ra mọi trò chơi lúc xuất phát đều mang theo một ý nghĩa tôn giáo nào đấy, mà cái nổi bật nhất là ý nghĩa phồn thực. Nhưng một số trò chơi như: “đánh đu”; “thả chim”, “bắt chạch trong chum” thường diễn ra bên ngoài đình, không bị gắn chặt với lễ thức của việc thờ cúng, hoặc chỉ kết hợp một cách nhẹ nhàng, nên mang nhiều tính chất giải trí hơn. Vả lại, đến ngày nay, cả người chơi lẫn người xem đều không có cảm nhận một ý nghĩa tôn giáo nào đối với các trò đó, mà chỉ coi như một trò chơi thuần Trò chơi thi tài thi khéo: Những trò chơi này nói chung không còn dính 89 dáng đến một loại tín ngưỡng nào nữa, dù chỉ là dưới dạng vết tích. Trừ trò “thi ném pháo”ở Thị cầu mà ta còn phải xem lại bối cảnh ra đời của nó để tìm hiểu ý nghĩa tôn giáo nếu có. Còn những trò chơi khác như “thi thổi cơm”, “thi dệt vải”, “leo trèo” thì chỉ là những cuộc thi lặp đi lặp lại những sinh hoạt hàng ngày. Nhưng một khi đã trở thành trò chơi thi tài thi khéo người ta phải đưa vào đó những điều kiện hạn chế hành động hàng ngày và làm cho nó trở nên khó khăn hơn, do đó mới có ganh đua giữa người dự thi. Cũng là trò thổi cơm nhưng có nơi thì thổi trên đầm; ở làng Chuông (Hòa Bình) thì vừa thổi vừa giữ em vừa ngăn một con cóc không cho nhảy ra khỏi vòng; còn ở nhiều làng ở nơi khác thì vừa đi vừa thổi. Một số trò chơi thuộc loại này có thể phát triển thành những trò thi tranh nghề, đôi khi nó lại vượt ra khỏi lĩnh vực trò chơi để trở về với lao động nhằm kích thích việc sản xuất ra những sản phẩm thủ công tốt và đẹp hơn. Trò chơi thi đấu thể thao: Trò chơi vận động dân gian là những trò chơi dân gian có sự vận động, đua tranh về thể lực là chính, thực hiện theo điều lệ của cuộc chơi và có sự nhận định hơn/kém, thắng/thua, được/hỏng. Đó chính là tiền đề của các nội dung hoạt động thể thao dân tộc ở Việt Nam hiện nay [35], [42]. Từ góc độ giáo dục thể chất, trò chơi vận động dân gian là một trong những biện pháp giáo dục thể chất có hiệu quả, nhằm góp phần xây dựng những con người mới phát triển toàn diện, đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới đất nước [55]. Cũng có thể xếp thể thao vào hình thức thi tài thi khéo. Nhưng nếu như thổi cơm, dệt vải lặp đi lặp lại nhiều lần một cách tượng trưng những hành động bình thường của cuộc sống hàng ngày và trong đó từng người tham gia với tư cách cá nhân một mình đua tài đua khéo với những người khác, thì ngược lại, các trò thi đấu thể thao không lặp lại những hành động bình thường, hoặc không 90 lặp lại một cách rõ nét và thường chia thành 2 phe (mỗi phe có thể có 1 hay vài người). Dù có phần phức tạp hơn các trò chơi khác thường bị chi phối bởi các quy ước ít nhiều chặt chẽ nhưng đôi khi còn bộc lộ những vết tích của tín ngưỡng xưa quả cẩu trong “Cướp cầu”, “Đánh phết” có thể là vết tích của hình thái thờ mặt trời, “Kéo co” không thể không nhắc đến giao động giữa 2 mùa mưa và khô, có nơi “Bơi chải” mang rõ mục đích cầu mưa Dù sao đây cũng là những trò chơi gây nhiều hào hứng nhất, có khả năng nhất đi vào cuộc sống hiện đại. Trò chơi trẻ em: Đây là một thế giới riêng mà người lớn ít chú ý đến, dù cho mỗi người lớn đã từng là trẻ em và đã từng chơi những trò của trẻ em. Trong khi trò chơi của người lớn chủ yếu tập trung vào lễ hội xuân, thì trò chơi của trẻ em lại rải ra quanh năm và không bị hạn chế ở địa điểm chơi. Hiện nay các nhà giáo dục học đã nghiên cứu kỹ về trò chơi trẻ em, đã phân loại các trò chơi phù hợp với sự phát triển – tâm sinh lý trẻ em ở từng lứa tuổi. Những trò chơi đó mang tính khoa học và tính quần chúng rất cao. Nhưng điều đáng lưu ý là trò chơi trẻ em ở mỗi nước đều liên quan đến đồng giao, đó là yếu tố văn hóa riêng của mỗi dân tộc có tác dụng lớn đến việc giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em, mà chúng ta cần giữ gìn. Phục hồi những trò chơi truyền thống của trẻ em, tùy theo chủng loại của chúng mà đưa vào chương trình giáo dục ở nhà trường mẫu giáo, là một việc làm cần thiết để đánh thức cái hồn dân tộc ẩn tàng trong mỗi một đứa trẻ. Trò chơi dân gian nếu nhìn vào đặc điểm rất dễ nhận thấy có trò chơi tay không, trò chơi có đồ chơi và trò chơi đồng dao, có trò chơi cho trẻ em và trò chơi cho người lớn. Có những trò mang tính suy ngẫm trí tuệ như trò: Đố lá, Đi Hùm (Cờ Đi Hùm), Đánh Cúi Cái (Đánh Lợn cái) Chơi các trò này người chơi, nhất là các em nhỏ phải vận dụng sức suy nghĩ của bộ óc, phải tinh nhanh và phán đoán đường đi, nước bước Sau mỗi 91 cuộc chơi con người như sáng tỏ ra nhiều điều, nhất là trò Đố Lá giúp trẻ em quan sát, nhận biết được các loại lá trong tự nhiên, một bước chuẩn bị cho cuộc sống sau này của người miền núi. Có những trò mang tính thể thao, thượng võ như trò: Vật Mường đè khà, Nỏ bắn bia[88]. Các trò này ngoài việc rèn luyện sức khỏe, nó còn rèn luyện cho con người có tinh thần quả cảm, tinh anh và sự quyết tâm trong mỗi hành động. Ban đầu vào các cuộc chơi ai nấy đều hăng hái và có phần ngạo nghễ. Khi kết thúc cuộc chơi người thắng, người thua đều phục nhau và tôn trọng lẫn nhau. Có một số trò mang tính sa - man giáo như trò Đập Nàng Khót, Đập Nàng Bạn Các trò này mang tính sơ khai của hình thái sân khấu múa rối. Người chơi nhập cuộc chơi với thần linh và cũng là nhân vật chơi, có đối đáp, có các biểu tượng ngôn ngữ đặc trưng ước lệ, bên ra câu hỏi, bên trả lời bằng cách đập tay xuống sạp nhàHình thái tổ chức các trò chơi dân gian Mường được chơi trên các sân bãi nhìn chung là không cần rộng lắm, các trò chủ yếu là trò chơi tập thể [88]. Các loại trò chơi được phân loại theo căn cứ vào yêu cầu về công tác tổ chức thực hiện trò chơi: Trò chơi chia thành đội, không chia đội và trò chơi có một nhóm chuyển tiếp ở giữa. Trò chơi chia thành đội được tiến hành chơi với điều kiện số người chơi của các đội phải ngang nhau, thậm chí số lượng các em nữ, các em nam cũng phải bằng nhau ở các đội chơi, ví dụ: “Kéo co”, “Lò cò tiếp sức” Luật lệ của những trò chơi này thường nghiêm và chặt chẽ hơn. Như trò chơi “kéo co” phải quy định từ cách đặt chân ở vạch phân chia, cách cầm dây.v.v Mỗi đội phải hành động đồng loạt với sự phối hợp chính xác, vì đôi khi sự thắng - thua là kết quả của sự hợp đồng chặt chẽ ở mức khác nhau của mỗi đội. Những trò chơi này có tác dụng giáo dục tinh thần tập thể, tính tổ chức kỷ luật rất tốt. 92 Trò chơi không chia đội lại có thể chia ra: Trò chơi có người điều khiển; Trò chơi không có người điều khiển. Trong loại trò chơi này lại có thể chia ra: Các trò chơi mà toàn bộ số người tham dự cuộc chơi cùng tham gia vào chơi một lúc Các trò chơi mà số người tham gia chơi phải theo lần lượt, thứ tự. Đặc điểm của những trò chơi không chia đội là người chơi không cùng một đích, mỗi người chơi độc lập, cá nhân chịu trách nhiệm về công việc của mình. Loại trò chơi có nhóm phụ ở giữa là những trò chơi vừa mang tính chất cá nhân, nhưng khi cần thiết có thể hợp thành những nhóm, tuy nhiên sự kết hợp ở đây không thường xuyên mà là ngẫu nhiên. Trò chơi vận động là một trong những phương tiện giáo dục thể chất nó được sử dụng kết hợp với bài tập thể chất hoặc du lịch và rèn luyện trong tự nhiên góp phần củng cố và nâng cao sức khoẻ của con người. Thông qua trò chơi vận động góp phần giáo dục khả năng nhanh nhẹn, khéo léo, thông minh, đức tính thật thà, tính tập thể nhằm giáo dục các mặt đức, trí, thể, mỹ v.v đào tạo con người phát triển một cách toàn diện. Trò chơi vận động còn là một phương tiện vui chơi giải trí, một hình thức nghỉ ngơi tích cực, một hoạt động có tính văn hoá góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho con người. Về phương diện sinh lý vận động: Trò chơi vận động giải toả tâm lý tạo nên sự lạc quan yêu đời, vui tươi thoải mái góp phần giảm các căng thẳng thần kinh, giảm và chống đỡ được một số bệnh tật [26], [71]. Với tác dụng to lớn của trò chơi vận động nên đã được nhân dân ta sử dụng phục vụ trong những ngày hội, ngày tết, ngày lễ và đặc biệt trong các dịp trại hè của HS các cấp.Trong trường học, trò chơi được sử dụng kết hợp với bài tập thể chất, nó là một trong những nội dung của chương trình thể dục. Căn cứ vào đặc điểm của từng trò chơi được sử dụng vào các phần khởi động, cơ bản 93 hay hồi tĩnh của mỗi tiết học thể dục, hoặc những giờ chính khoá chuyên về trò chơi vận động. Theo tác giả nguyễn Đức Ninh (2016); nghiên cứu phát triển các môn thể thao dân tộc cho học sinh Trung học cơ sở tỉnh Thái Nguyên; Dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn, xây dựng, ứng dụng chương trình giảng dạy và học tập các môn thể thao dân tộc, gồm có: Bắn nỏ, Đẩy gậy, Tung còn [40]. Về cấu trúc nội dung bồi dưỡng kiến thức tổ chức trò chơi dân gian và thể thao dân tộc cho sinh viên khối sư phạm: Cấu trúc nội dung được biên soạn trên cơ sở các môn thể thao dân tộc; là những môn truyền thống và phổ biến của các dân tộc thiểu số phía Bắc. Các môn thể thao dân tộc này đã được Uỷ ban TDTT (cũ) đưa vào là nội dung chính thức của Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số miền núi. Riêng Bắn nỏ đã trở thành môn thi của Hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc và Đại hội Thể thao quốc phòng toàn quân. Đặc biệt Bắn nỏ và Đẩy gậy là các môn thi chính thức của Đại hội TDTT Toàn quốc lần thứ V, năm 2006 [68]. Cấu trúc môn học tự chọn là cơ sở xây dựng chương trình kế hoạch ngoại khóa, huấn luyện đội đại biểu của nhà trường tham dự Hội khoẻ các cấp. Khi thực hiện giáo viên phổ biến cho học sinh về phương pháp tổ chức tập luyện, thi đấu, luật, dụng cụ, sân bãi, để có thể tự tổ chức hoạt động TDTT ngay trong thời gian học ở trường và sau khi về địa phương công tác. Theo đó, sinh viên khối sư phạm Trường Đại học Tây Bắc sẽ công tác ở các trường phổ thông vùng cao, dân tộc. Để sinh viên khối sư phạm Trường Đại học Tây Bắc tiếp cận các kỹ năng này, với ý tưởng kết hợp vừa có kỹ năng tự tổ chức, vừa có kỹ năng hướng dẫn tổ chức TCVĐDG và TTDT cho học sinh phổ thông sau khi tốt nghiệp sẽ công tác, dạy học, đồng thời họ cũng sẽ là đội ngũ hướng dẫn viên, cộng tác viên thể dục thể thao cơ sở - một nguồn nhân lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển TDTT quần chúng vùng Tây Bắc [49], [58]. 94 3.3. Ứng dụng và đánh giá hiệu quả các trò chơi vận động dân gian và thể thao dân tộc đối với sinh viên khối sư phạm (K57) Trường Đại học Tây Bắc 3.3.1. Cơ sở pháp lý Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, năm 2013, Điều 60. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Điều 61. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc; Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề [44]. Luật TDTT sửa đổi năm 2018, bổ sung Điều 21 như sau: a) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 và Khoản 2 Điều 21 như sau: “1. Nhà nước có chính sách dành đất đai, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường, bảo đảm đủ giáo viên, giảng viên thể dục thể thao cho các cấp học và trình độ đào tạo; ưu tiên phát triển môn bơi, võ cổ truyền và các môn thể thao dân tộc. Luật giáo dục đại học năm 2012, Điều 12, chính sách của Nhà nước trong giáo dục đại học: Phát triển giáo dục đại học để đào tạo nhân lực có trình độ và chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước; Gắn đào tạo với nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học với tổ chức nghiên cứu khoa học và với doanh nghiệp; Nhà nước đặt hàng và bảo để thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đối với cơ sở [43]. 95 Như vậy, những quy định trong pháp luật Việt Nam đối với việc bảo tồn và phát triển TTDT là rất đầy đủ, cụ thể và chặt chẽ. Những quy định đó đã thể chế hoá quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về thể dục, thể thao nói chung và TTDT nói riêng. 3.3.2. Cơ sở thực tiễn 3.3.2.1. Kết quả khảo sát thực trạng sử dụng trò chơi vận động dân gian và thể thao dân tộc vùng Tây Bắc Tiếp cận thực trạng sử dụng trò chơi vận động dân gian và thể thao dân tộc vùng Tây Bắc thông qua khảo sát ý kiến nhận định của các khách thể nghiên cứu; Kết quả khảo sát trình bày ở bảng 3.25. Bảng 3.25. Kết quả khảo sát thực trạng sử dụng trò chơi vận động dân gian và thể thao dân tộc vùng Tây Bắc (n=352) TT Đối tượng và Nội dung khảo sát Mức độ tính p Hay sử dụng Thỉnh thoảng Ít sử dụng 1 Giảng viên: Mức độ sử dụng trong hoạt động GDTC và TDTT của nhà trường (n=23) 02 8.6% 17 73.9% 04 17.5% 55.31 <0.001 2 Cán bộ quản lý TDTT: Mức độ sử dụng trong sinh hoạt văn hóa thể thao cơ sở (n=20) 16 80.0% 02 10.0% 02 10.0% 3 Giáo viên phổ thông: Mức độ sử dụng trong GDTC và TDTT của nhà trường (n=30) 04 13.3% 19 63.4% 07 23.3% 4 Sinh viên khối sư phạm: Mức độ sử dụng trong đời sống hàng ngày (n=279) 43 15.4% 189 67.7% 47 16.8% bảng 22.45 96 Tổng số người được khảo sát gồm 352 người. Trong đó: Giảng viên Bộ môn GDTC Trường Đại học Tây Bắc 23 người (6.55%); Cán bộ quản lý TDTT cơ sở 20 người (5.6%); Giáo viên tiểu học và mầm non 30 người (8.5%) và 279 sinh viên khối sư phạm (79.2%). Qua kết quả ở bảng 3.24 cho thấy: Đối với giảng viên Trường Đại học Tây Bắc: 21/23 (91.3%) ý kiến cho rằng việc sử dụng trò chơi vận động dân gian trong GDTC và TDTT nhà trường chỉ thỉnh thoảng và ít sử dụng; Đối với cán bộ quản lý TDTT cơ sở: 16/20 ý kiến (80.0%) cho rằng trò chơi vận động dân gian hay được sử dụng trong sinh hoạt văn hóa thể thao cơ sở, nhất là trong các dịp lễ tết; Đối với giáo viên tiểu học và mầm non: 19/30 ý kiến (63.4%) và sinh viên khối sư phạm 189 ý kiến (67.7%), cho rằng trò chơi vận động dân gian thỉnh thoảng được sử dụng trong GDTC và trong đời sống hàng ngày. Kết quả khảo sát là cơ sở thực tiễn cần thiết phát triển TCVĐDG và TTDT trong quá trình đào tạo và hoạt động giáo dục (p<0.001). 3.3.2.2. Kết quả khảo sát nhận thức, động cơ, nhu cầu về trò chơi vận động dân gian và thể thao dân tộc của sinh viên khối sư phạm Trường Đại học Tây Bắc Kết quả khảo sát nhận thức và con đường nhận thức về TCVĐDG và TTDT của sinh viên khối sư phạm Trường Đại học Tây Bắc thông qua phỏng vấn 279 sinh viên khối sư phạm được trình bày ở bảng 3.26; Cho thấy: Nhận thức 1: Trò chơi vận động dân gian và thể thao dân tộc là một di sản văn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_phat_trien_tro_choi_van_dong_dan_gian_va.pdf
  • jpgQĐ NCS Lượng 1.jpg
  • pdfTóm tắt Lượng 29.8.22.pdf
  • docTrang Thông tin TV, Luong 27.4.22.doc
Tài liệu liên quan