Luận án Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - Nguyễn Thị Thu Thủy

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI 5

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 5

1.2. Giá trị của các công trình đã được tổng quan và vấn đề đặt ra cần tiếp tục

nghiên cứu trong luận án 22

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT HUY GIÁ TRỊ

GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA

Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY 26

2.1. Cơ sở lý luận 26

2.2. Nội dung, phương thức, chủ thể và sự cần thiết phát huy giá trị gia đình

truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng

sông Hồng hiện nay 37

2.3. Những yếu tố tác động đến phát huy giá trị gia đình truyền thống trong

xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 51

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN

THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG

SÔNG HỒNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 72

3.1. Thực trạng phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình

văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 72

3.2. Những vấn đề đặt ra từ việc phát huy giá trị gia đình truyền thống trong

xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 101

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY

GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH

VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY 114

4.1. Những quan điểm cơ bản phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây

dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 114

4.2. Những giải pháp chủ yếu phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây

dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 122

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

PHỤ LỤC 164

pdf194 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 346 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - Nguyễn Thị Thu Thủy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ễ rơi vào hoàn cảnh nghĩ quẩn tự tử, hoặc bỏ nhà đi lang thang, dễ trở nên hư hỏng, nghiện ngập. Hoặc do một số gia đình giàu có, quá yêu và nuông chiều con cái, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu, đòi hỏi của con dẫn đến đứa trẻ luôn cho mình là nhất, lâu dần sinh ra ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân muốn làm gì thì làm... Theo kết quả nghiên cứu của Trần Đức Châm - giảng viên tâm lý Học viện An ninh nhân dân, khi phân tích hoàn cảnh gia đình của số vị thành niên phạm tội cho thấy: “trẻ em phạm tội có cha, mẹ nghiện ma túy, ham mê cờ bạc chiếm 30%; gia đình làm ăn phi pháp 21%; anh chị có tiền án tiền sự 8%; trẻ mồ côi cả bố lẫn mẹ 10,2%; trẻ có bố mẹ ly hôn 32%; bị cha mẹ đánh đập, chửi mắng 49%; được nuông chiều quá mức 21% và trẻ không được gia đình, bố mẹ quan tâm, quản lý chiếm 75%” [39]. Những lý do nêu trên, chính là nguyên nhân dẫn đến cản trở việc dạy dỗ, giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách trong gia đình, làm cho nhiều gia đình bị rơi vào khủng hoảng, lục đục, thiếu tính bền vững và ly tán. Ngoài ra, việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống từ nhà trường, từ cộng đồng xã hội mặc dù đã được chú trọng, quan tâm nhằm hỗ trợ tốt giáo dục trong gia đình nhưng vẫn còn nhiều hạn chế như: nội dung tuyên truyền, giáo dục còn xơ cứng, đơn điệu, phương pháp sử dụng chưa phong phú, đa dạng... chưa phát huy hết tiềm năng về giáo dục cũng như hệ thống chính trị của vùng. 88 Về giáo dục học tập văn hóa Phát huy truyền thống hiếu học của GĐTT, hầu hết các gia đình thuộc khu vực ĐBSH hiện nay đã chú trọng việc giáo dục và định hướng giáo dục văn hóa. Đứng trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, sự bùng nổ của các phương tiện thông tin truyền thông, sự phong phú, đa dạng của mạng xã hội và trước yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển kinh tế, xã hội, hầu hết các bậc cha mẹ và ngay cả chính bản thân con cái họ đều nhận thức được vai trò của việc nâng cao kiến thức văn hóa khoa học công nghệ nói riêng, cũng như các kiến thức văn hóa xã hội khác nói chung. Họ hiểu rằng chỉ có “việc học tập văn hóa mới là chìa khóa để mở cửa cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống tương lai, góp phần xây dựng phát triển đất nước” [94, tr.55]. Trong phần lớn các gia đình, bố mẹ đều mong muốn con mình học giỏi, có thể học tập lên cao hơn, chiếm được đỉnh cao của tri thức. Kết quả điều tra ở quận Đống Đa (Hà Nội) cho thấy: 100% số gia đình trả lời mong muốn con học giỏi, 89,1% mong muốn con tiếp tục học tập lên các lớp cao. Còn quận Hoàn Kiếm, Ba Đình (Hà Nội) cho thấy, mong muốn con cái học giỏi ở cán bộ viên chức là 83,6%, ở gia đình làm nghề buôn bán là 80,0%, ở gia đình làm nghề tự do là 44,4%... [121, tr.170]. Cha mẹ quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất để giáo dục văn hóa cho con cái cũng được đa số các gia đình ở địa bàn Thái Bình, Hà Nội nhất trí cao: “Con cái không hiểu bài, chúng tôi hướng dẫn cháu; khen thưởng khi con cái có thành tích trong học tập; nhắc nhở con cái học bài; cho con cái lựa chọn trường học mà chúng thích...” [94, tr.56]. Nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa của việc giáo dục, học tập tri thức văn hóa, khoa học của cả bố mẹ và bản thân con cái trong gia đình nên ĐBSH vẫn giữ vững là vùng có trình độ dân trí cao nhất cả nước. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2017, vùng ĐBSH có tỷ lệ đi học tiểu học chiếm 100,2 %, THCS 99%, THPT 87,7%, CĐ, ĐH 45,8% (so với cả nước tỷ lệ tương ứng lần lượt là: 100,2%, 94,1%, 72%, 30,5%) và tỷ lệ số người biết chữ chiếm 98,3% (cả nước 95%), trong đó tỷ lệ biết chữ ở thành thị chiếm 99%, nông thôn 97,9%, chênh lệch giữa thành thị - nông thôn thấp nhất 1,1% (cả nước 4,1%) [139, tr.44-45]. Trong nội dung cuộc họp giao ban giữa các Sở Giáo dục và Đào tạo của các tỉnh vùng ĐBSH diễn ra ngày 24/3/2017 tại TP. Nam Định cũng đã khẳng định: Qua các đợt khảo sát, gần 100% học sinh tiểu học trong 89 cụm đạt yêu cầu theo chuẩn kiến thức, kỹ năng. Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2016-2017, các tỉnh vùng ĐBSH tiếp tục khẳng định thế mạnh, đạt 498 giải, trong đó có 9 giải nhất, 116 giải nhì, 173 giải ba và 200 giải khuyến khích. 3/9 tỉnh trong top đạt tỷ lệ học sinh đạt giải cao của toàn quốc là Hải Dương, Nam Định, Vĩnh Phúc. Các sở Giáo dục và Đào tạo tích cực triển khai cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học, đạt kết quả cao, với 6 giải nhất, 11 giải nhì, 11 giải ba và 5 giải khuyến khích... [83]. Ngoài việc nhận thức và tạo điều kiện để con em trong gia đình được học tập kiến thức văn hóa, nâng cao trình độ nhận thức, tích lũy tri thức, kinh nghiệm từ việc rèn luyện học tập tại nhà trường và ngoài xã hội, cha mẹ còn giáo dục con em mình bằng kinh nghiệm, bằng sự hiểu biết của chính cuộc sống bản thân, bằng sự giáo dục về truyền thống hiếu học, lễ nghi, phong tục, tập quán của gia đình, làng xã để giúp con em họ có tính siêng năng, cần cù, chăm chỉ, hiếu học và có sự hiểu biết sâu rộng về mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội [7]. Hiếu học là đặc trưng của các gia đình và dòng họ vùng ĐBSH, nên việc khuyến khích học tập, tạo điều kiện tối đa cho con cháu học tập tốt không chỉ có các thành viên trong gia đình riêng mà còn mở rộng ra cả dòng họ và làng xã. Các dòng họ, mở rộng ra cộng đồng làng xã giáo dục con cháu bằng phương pháp tuyên truyền, nêu gương những người tài, người học giỏi, có địa vị cao trong xã hội và bằng hình thức lập quỹ khuyến học, khuyến tài. Với những kiến thức, tri thức văn hóa, xã hội và ngay cả những kiến thức về các ngành, nghề gia truyền, truyền thống của gia đình, dòng họ được các thế hệ cao tuổi, nhiều kinh nghiệm truyền dạy cho con cháu, giúp con cháu say mê học tập, có kiến thức, kỹ năng để nối tiếp, phát huy truyền thống của dòng họ đồng thời có đủ khả năng để thích nghi, phát triển đảm bảo cuộc sống của gia đình và bản thân trước những biến đổi kinh tế, xã hội hiện nay. Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, việc thực hiện giáo dục học tập văn hóa ở các gia đình khu vực ĐBSH hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết truyền thống hiếu học và lợi thế, tiềm lực của vùng. Việc quản lý, giáo dục con trẻ trong gia đình và nhà trường nhiều lúc chưa sát sao, vẫn còn hiện tượng bạo lực học đường, học sinh vi phạm kỷ luật, số học sinh THPT bỏ học đứng thứ 3 cả nước (Sau đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ). Nguyên nhân từ phía gia đình 90 có thể do nhiều đứa trẻ được nuông chiều thái quá, được bố mẹ mua sắm nhiều phương tiện hiện đại hỗ trợ việc học tập lại không ý thức được việc tự giác học tập của bản thân dẫn đến sa vào nghiện game, xem phim, xem ca nhạc, sa vào các tệ nạn xã hội; hoặc do áp lực của cơ chế thị trường, nhiều cha mẹ mải kiếm tiền mà buông lỏng việc học của con; hoặc trong gia đình thường xuyên xảy ra bạo lực... Theo kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa cha mẹ với vấn đề bạo lực học đường cho thấy: Trong số các em có hành vi bạo lực thì 77,3% nói rằng trong gia đình mình các thành viên ít có sự quan tâm đến nhau, 52% nói gia đình ít quan tâm, 14,7% nói gia đình không quan tâm... Nghiên cứu cũng chỉ ra 84,7% nữ sinh đánh nhau cho rằng trong gia đình các em có hành vi bạo lực giữa cá thành viên trong đó: 12% bạo lực giữa cha mẹ, 16,7% bạo lực giữa anh chị em, 32,7% bạo lực giữa cha mẹ và con cái và có 13,3% số gia đình tồn tại cả ba loại bạo lực trên [88, tr.337]. Tất cả điều này, khiến cho việc học tập của trẻ ở nhà trường bị gián đoạn, giáo dục trong gia đình có nhiều bất cập [68]. Về giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập cho thế hệ trẻ. Giáo dục lao động để con trẻ biết yêu lao động, biết quý trọng lao động, quý trọng những sản phẩm do mình cũng như người khác tạo ra và để rèn luyện tính sáng tạo, tính tự lập cho con trẻ là điều cần thiết cho mọi gia đình trong mọi xã hội. Vì thế, trong các gia đình ở khu vực ĐBSH hiện nay vẫn kế thừa, phát huy việc giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập cho trẻ. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập cho trẻ ở đây không phải là bắt trẻ lao động nặng nhọc sớm nhằm tạo ra của cải, vật chất, nhằm kiếm ra tiền và để con trẻ có thể tự lập nuôi sống bản thân mình. Giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập ở đây là giáo dục cho con trẻ tham gia vào các công việc của gia đình, tham gia vào các phong trào, các hoạt động do nhà trường, địa phương, xã hội phát động, phù hợp với lứa tuổi nhằm giúp trẻ vừa biết quý trọng lao động, yêu lao động, vừa phát huy tính sáng tạo, tự tin vào bản thân mình. Song, một thực tế hiện nay đang diễn ra ở khu vực ĐBSH nói riêng, cả nước nói chung là việc giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập cho thế hệ trẻ có sự khác biệt lớn giữa gia đình ở thành thị, gia đình công nhân viên chức và gia đình nông thôn đòi hỏi chúng ta cần phải giải quyết, cụ thể là: 91 Đối với gia đình thành thị và gia đình công nhân viên chức khá giả còn tồn tại tâm lý phổ biến cho rằng: những công việc nặng nhọc là việc làm của người lớn, cha mẹ và người lớn tuổi trong gia đình làm, con cái chỉ có nhiệm vụ lo học tập, nhất là học ở trong nhà trường. Vì thế, rất nhiều con trẻ trong gia đình hiện nay ngoài việc học tập tại trường, thời gian còn lại dành để đi học thêm hoặc để giải trí, xem phim, chơi game... mà không phải làm bất cứ công việc nào khác trong nhà. Thậm chí nhiều môn học ở trường của con được giao về nhà làm, một số gia đình còn làm hộ con, hoặc thuê gia sư vừa dạy vừa làm giúp con tại nhà... lâu dần con trẻ sẽ lười lao động, dựa dẫm, ỷ lại vào cha mẹ và người khác đối với công việc trong gia đình và sẽ lúng túng hoặc trốn tránh, làm qua loa, hình thức đối với những công việc được giao ở trường hay ở cộng đồng xã hội. Đối với gia đình ở nông thôn thì trái lại, còn rất nhiều gia đình cho rằng để giáo dục lao động và tính tự lập cho con trẻ phải cho con trẻ tham gia vào các công việc của gia đình, thậm chí cả lao động nặng nhọc quá sức để con trẻ thấu hiểu được giá trị của lao động, biết quý trọng sản phẩm lao động mà mình và người khác làm ra. Do đặc thù của nhà nông, nhất là vào thời vụ, nhiều gia đình thiếu người làm đã huy động con cái mình tập trung sản xuất, thậm chí có gia đình còn bắt con em mình nghỉ học để làm. Hoặc có những gia đình nghèo khó, không có điều kiện để cho con cái mình ăn học nên những đứa trẻ phải bươn chải, phải lao động tạo ra vật chất, của cải, kiếm tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Đây chính là hiện tượng lạm dụng sức lao động của trẻ em và nếu để trong một thời gian dài khiến các em quá sức, kiệt sức là vi phạm pháp luật. Ví dụ, theo thống kê “Xã Quang Trung (Vụ Bản-Nam Định) từ lâu nổi tiếng với nghề rèn truyền thống. Hiện toàn xã có 2.142 hộ với gần 6.400 khẩu, 162 hộ nghèo, 107 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt” [94, tr.67]. Tương tự, theo thống kê của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, năm 2014, Bắc Ninh có khoảng gần 8.000 trẻ em sống trong các hộ gia đình nghèo, 400 trẻ em dưới 16 tuổi đang phải lao động nặng nhọc trong điều kiện nguy hiểm, độc hại, 33 trẻ em phải làm việc xa gia đình... [13]. Ở Hải Phòng, thống kê năm 2012, có 67 em lao động nặng nhọc, nguy hiểm; 48 em theo bố mẹ kiếm sống trên sông Bính, cầu Lạc Long (quận Hồng Bàng) Trẻ thường tham gia vào các hoạt động kinh tế dưới 4 hình thức: làm kinh tế gia đình, vừa làm kinh tế gia đình 92 vừa làm thuê, làm thuê và tự kiếm sống. Điều đáng quan tâm là, tỷ lệ trẻ em tự kiếm sống có xu hướng tăng, trong đó lứa tuổi phổ biến (từ 14-18 tuổi) do bị bỏ rơi, mồ côi cha mẹ, cha mẹ ốm đau, không còn khả năng lao động trong khi người thân không nhận nuôi dưỡng các em. Số trẻ em này rất ít có cơ hội được học tập như bạn bè cùng trang lứa [94, tr.67]. Về giáo dục giới tính cho con trẻ Việc giáo dục giới tính cho trẻ đã được các gia đình trong xã hội truyền thống vùng ĐBSH quan tâm song chủ yếu là giáo dục những chuẩn mực, đạo đức cho con trai và con gái. Còn những vấn đề về tính dục, quan hệ khác giới thì ít được đề cập hoặc có thì rất e dè, né tránh và nếu có giáo dục giới tính thì cũng chỉ là truyền lại những kinh nghiệm của cá nhân cha mẹ trong cuộc sống hôn nhân của mình. Trong giai đoạn hiện nay, các gia đình thuộc khu vực ĐBSH ngoài giáo dục bằng kinh nghiệm sống được truyền thụ từ các tầng lớp thế hệ lớn tuổi để lại, những người làm cha, làm mẹ và thậm chí là cả những đứa trẻ đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, tổ chức, đoàn thể và cả trong nhà trường tuyên truyền, giáo dục giới tính, giáo dục về sức khỏe, tâm sinh lý, tình dục... Theo kết quả Thống kê của Vụ gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) về việc thực hiện các mục tiêu, tiêu chí của chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, về cơ bản các tỉnh thuộc khu vực ĐBSH đã thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục giới tính, chăm sóc sức khỏe vị thành niên, các kiến thức liên quan đến sinh sản, đến gia đình cho giới trẻ trước độ tuổi kết hôn trong khu vực ĐBSH đều đạt từ 90% trở lên [18, tr.35]. Tỷ lệ trẻ em được tuyên truyền, giáo dục này không ngừng tăng lên hàng năm tại các địa phương góp phần làm cho trẻ em nắm được những kiến thức cơ bản về giới tính, về tâm sinh lý lứa tuổi, về tình dục, về các luật liên quan đến gia đình, đến quyền lợi của trẻ em để từ đó biết tự chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ bản thân mình. Mặc dù có được những kết quả như trên, song trên thực tế, tại khu vực ĐBSH nói riêng, cả nước nói chung việc trẻ em quan hệ tình dục trước hôn nhân dẫn đến nạo phá thai ngày càng có xu hướng gia tăng. Theo số liệu thống kê của Bệnh viện Phụ sản Trung ương, tỷ lệ nạo phá thai của vị thành niên tại Việt Nam không ngừng tăng. Mỗi năm cả nước có từ 1,2 triệu đến 1,6 triệu ca nạo phá thai, trong đó lứa tuổi vị 93 thành niên chiếm 20%; số ca nạo phá thai của thanh niên chưa lập gia đình khoảng 15% đến 20% (trong đó, khu vực ĐBSH thứ hai cả nước), số thanh niên có quan hệ tình dục trước hôn nhân cũng ngày càng gia tăng [91]. Do một số gia đình tập trung cho các hoạt động kinh tế, ít dành hoặc không có thời gian cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục giới tính cho trẻ nên hậu quả là làm tăng trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị tai nạn thương tích. Hoặc do kiến thức và kỹ năng về bảo vệ chăm sóc trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ, của các thành viên trong gia đình và bản thân các em chưa đầy đủ, dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ bị hạn chế. Lối sống thờ ơ, thiếu trách nhiệm hoặc sự thiếu hiểu biết về pháp luật ở một số gia đình cũng tạo ra sự mất an toàn cho trẻ ngay trong chính gia đình của mình. Thêm vào đó, trong thời gian gần đây, số vụ trẻ em bị lạm dụng tình dục có chiều hướng gia tăng. Việc bị xâm hại tình dục không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thể chất, tinh thần mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống sau này của trẻ. Theo Tổng cục Cảnh sát, ở Việt Nam, trung bình hàng năm xảy ra khoảng 800 vụ xâm hại tình dục trẻ em. Điều đáng nói, hầu hết các đối tượng thực hiện hành vi đồi bại là những người thân của trẻ như bố dượng, bác, chú, ông, thậm chí là anh em ruột, bố đẻ... hoặc có quan hệ láng giềng. Đặc biệt, có rất nhiều vụ gia đình nạn nhân không tố cáo do sợ ảnh hưởng đến tương lai con cái khi tất cả mọi người đều biết. Do bị dọa nạt, dọa giết, một số bé gái đã bị xâm hại tình dục một cách nghiêm trọng nhưng cũng không dám nói với bố mẹ, người thân. Do đó, những bé gái này vô tình đã trở thành nạn nhân của những tên “yêu râu xanh” bệnh hoạn nhiều lần [94, tr.68]. Con số trẻ em quan hệ tình dục trước hôn nhân, bị xâm hại, lạm dục tình dục, nạo phá thai bừa bãi... ngày càng gia tăng, ngoài những nguyên nhân đã nêu, theo tác giả còn có nguyên nhân quan trọng nữa là do sự thiếu quan tâm, chăm sóc, sẻ chia, tâm sự từ phía người mẹ, người phụ nữ, người chị gái trong các gia đình. Trong GĐTT, cha thường giáo dục con về chí hướng, sự nghiệp và nghị lực thì người mẹ giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, những nguyên tắc chuẩn mực của đạo làm con, làm vợ, làm người phụ nữ trong gia đình... để đạt tiêu chuẩn “công, dung, ngôn, 94 hạnh”. Tuy nhiên, do tác động của KTTT, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ ở vùng ĐBSH, một mặt nó giúp cho người phụ nữ được bình đẳng hơn, tự do hơn so với phụ nữ trong xã hội cũ. Người phụ nữ có thể giải phóng mình khỏi công việc bó hẹp trong phạm vi gia đình để tham gia vào công tác xã hội hoặc đi làm trong các nhà máy, công ty góp phần tăng thu nhập cho gia đình. Thậm chí, ở vùng ĐBSH hiện nay, nhiều phụ nữ còn đóng vai trò là nguồn nhân lực, nguồn thu nhập chính của gia đình. Nhưng mặt khác, do đi làm, áp lực về mặt thời gian, công việc nên thời gian dành cho gia đình, chăm sóc gia đình bị hạn chế rất nhiều. Lâu dần, người mẹ bị cuốn vào guồng quay công việc, kiếm tiền tăng thu nhập đã làm mất đi vai trò, thiên chức người mẹ của mình. Người mẹ không còn gần gũi, quan tâm, chăm sóc, sẻ chia với con cái, làm cho con cái cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, bị bỏ rơi và thiếu đi những kiến thức, kỹ năng cơ bản cần có để phát triển toàn diện, trong đó có cả kiến thức, kỹ năng giới tính, chăm sóc, bảo vệ cho con em mình. 3.1.3. Thực trạng nội dung, phương thức, chủ thể phát huy giá trị tâm lý, tình cảm của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng Trong GĐTT, con người không chỉ gắn bó với nhau bằng những mối liên hệ về vật chất mà còn gắn bó với nhau bằng những mối liên hệ về tâm lý, tình cảm. Tâm lý, tình cảm ruột thịt giữa các thành viên trong gia đình luôn là sợi dây vô hình liên kết, gắn bó giúp cho con người thấy gia đình là tổ ấm, con người được chở che, nâng đỡ, nương tựa, chia sẻ cả những lúc vui lẫn lúc buồn. Một gia đình hòa thuận, êm ấm, biết kính trên nhường dưới, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, đoàn kết, yêu thương gắn bó, sẻ chia vui buồn, hỗ trợ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh là một gia đình hạnh phúc, là mục tiêu phấn đấu của mỗi gia đình vùng ĐBSH và của toàn xã hội. Hiểu rõ được ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, trong thời gian qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và các gia đình thuộc khu vực ĐBSH không ngừng chăm lo, vun đắp, xây dựng để các gia đình có điều kiện trở thành gia đình hạnh phúc, thành tổ ấm, mái ấm yêu thương đối với mỗi thành viên trong gia đình. 95 Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân thực hiện tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, vận động, thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến công tác gia đình như: tuyên truyền Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Luật Người cao tuổi...; tuyên truyền, giáo dục kiến thức, kỹ năng về chăm sóc sức khỏe, giáo dục giới tính, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình; Thực hiện tốt công tác, tuyên truyền, vận động hòa giải, tư vấn tháo gỡ những mâu thuẫn, rắc rối xảy ra trong gia đình đồng thời thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ gia đình phát triển hạnh phúc, bền vững, chính sách kế hoạch hóa gia đình, chăm lo, phụng dưỡng người có công, người cao tuổi, chính sách xóa đói, giảm nghèo... Kết quả bước đầu cho thấy: nhận thức của các cấp, ban ngành, đoàn thể và nhân dân về vai trò, ý nghĩa của giá trị tâm lý, tình cảm trong gia đình nói riêng, công tác gia đình nói chung ngày càng được nâng cao; rất nhiều các mô hình, câu lạc bộ như Gia đình hòa thuận, Gia đình văn hóa, Gia đình tiến bộ, Gia đình hạnh phúc, Gia đình phát triển bền vững... cùng các câu lạc bộ, tổ tư vấn, hòa giải, phòng, chống bạo lực gia đình, địa chỉ tin cậy, đường dây nóng... được xây dựng, đi vào hoạt động có hiệu quả; số vụ bạo lực gia đình hàng năm giảm dần, đời sống cả vật chất lẫn tinh thần của các gia đình ngày càng được cải thiện; tạo tiền đề tốt cho các gia đình hướng đến xây dựng, phát triển gia đình hạnh phúc, bền vững [102];... [117]. Giá trị tâm lý, tình cảm vẫn được các gia đình quan tâm, coi trọng và phát huy trong xây dựng GĐVH hiện nay ở vùng ĐBSH. Theo kết quả khảo sát của tác giả: 89,9% người được hỏi cho rằng giá trị tâm lý, tình cảm có ý nghĩa rất quan trọng đối với gia đình họ (Phụ lục 1.8) và có 84,5% cho rằng cần phát huy giá trị tâm lý, tình cảm của GĐTT (Phụ lục 1.2). Giá trị tâm lý, tình cảm đã góp phần làm cho các gia đình vùng ĐBSH vẫn là tổ ấm, hạnh phúc, là bến đỗ, chỗ quay về nghỉ ngơi sau những bộn bề cuộc sống của mỗi thành viên trong gia đình. Đây cũng chính là một trong những nội dung, tiêu chuẩn, tiêu chí quan trọng để các tỉnh, địa phương bình xét công nhận đạt danh hiệu GĐVH cho các gia đình hàng năm. Và trên thực tế, số lượng các gia đình đạt danh hiệu GĐVH, GĐVH xuất sắc 96 hàng năm đều tăng và đạt từ 80% trở lên trên tổng số hộ gia đình sinh sống ở các tỉnh (Phụ lục 3). Nếu như hôn nhân trong truyền thống là cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, thì hôn nhân ở vùng ĐBSH hiện nay hầu như không còn sự áp đặt, thay vào đó là sự tự do yêu đương, tìm hiểu lẫn nhau giữa các cặp nam nữ. Mặc dù, trên thực tế, nhiều cuộc hôn nhân vẫn cần sự cho phép, đồng ý của gia đình, bố mẹ đôi bên, song về cơ bản, tình yêu của đôi lứa đã trở thành một tiêu chuẩn quan trọng, một yếu tố quyết định của hôn nhân. Xuất phát từ tình yêu đến hôn nhân, các cặp vợ chồng sẽ được thỏa mãn về tâm lý, tình cảm, nó là tiền đề để gia đình được sống vui vẻ, hạnh phúc. Do phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, CNH, HĐH, TCH, hội nhập quốc tế nên nhiều gia đình vùng ĐBSH nắm bắt được cơ hội làm giàu, có đủ điều kiện để quan tâm, chăm sóc đáp ứng thỏa mãn nhu cầu vật chất lẫn tinh thần đến các thành viên trong gia đình. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không còn là mệnh lệnh, một chiều như trong xã hội cũ, mà dần thay vào đó là sự bình đẳng, tôn trọng, sẻ chia, thông cảm, giúp đỡ lẫn nhau. Chẳng hạn như: ông bà, cha mẹ ngoài vai trò là người dưỡng sinh, dưỡng dục, định hướng cho con cái trong gia đình, còn là người bạn lớn của con, sẵn sàng tâm sự, bầu bạn, sẻ chia mọi việc với con. Ngược lại, con cái ngoài thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm ngoan ngoãn, hiếu thảo, vâng lời ông bà, cha mẹ còn có thể đề xuất quan điểm, ý kiến cá nhân cũng như mong muốn của mình với gia đình. Sự bình đẳng, sẻ chia từ hai phía giúp cho ông bà, cha mẹ hiểu sâu, nắm bắt được tâm sinh lý, gần gũi, gắn kết với con cái để có thể đáp ứng nhu cầu chính đáng của con hoặc kịp thời uốn nắn khi con có suy nghĩ sai lệch và con cái cũng nhận thấy tình cảm yêu thương, sẵn sàng chở che, giúp đỡ từ phía ông bà, cha mẹ để từ đó hoàn thiện nhân cách, rèn luyện bản thân mình tốt hơn. Khi gia đình khá giả, có điều kiện, “nhiều gia đình đã khắc phục được sự eo hẹp về thời gian để dành sự quan tâm sâu sắc như trò chuyện, chăm sóc từng bữa ăn, giấc ngủ, sức khoẻ của ông bà, cha mẹ. Qua đó, ông bà, cha mẹ tìm thấy chỗ dựa vững chắc nơi con cháu và ngược lại các con, các cháu tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc bên ông bà, cha mẹ trong mái ấm gia đình” [94, tr.107]. Trong gia đình, mối quan hệ giữa anh chị em cũng luôn được chú trọng, quan tâm. Anh chị em đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ, bảo 97 ban, chia sẻ, tâm sự với nhau để thực hiện tốt bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm với ông bà, cha mẹ và với anh chị em với nhau. Chính nhờ vào sự nỗ lực, nhường nhịn, hòa thuận, sẻ chia, quan tâm, tình cảm yêu thương giữa các thành viên trong gia đình đã giúp các gia đình ĐBSH vượt qua được mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống để tiếp tục tồn tại và gắn bó với nhau. Theo kết quả nghiên cứu về sự biến đổi chức năng gia đình vùng ĐBSH của PGS.TS Nguyễn Thị Ngân “sống hoà thuận vẫn chiếm tỷ lệ khá cao 70,5%. Số gia đình đôi lúc cũng có mâu thuẫn 25,9% , số gia đình thường xuyên mâu thuẫn chiếm khoảng 3,6%” [94, tr.108]. Như vậy, dựa vào thực tế nghiên cứu của tác giả cũng như kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học khác, có thể rút ra kết luận: trong gia đình vùng ĐBSH hiện nay khó có thể tránh xung đột xảy ra (do khoảng cách thế hệ, do ảnh hưởng của các luồng văn hóa mới...), nhưng nhìn chung tâm lý, tình cảm của gia đình vẫn tương đối ổn định, nhiều giá trị của GĐTT vẫn được tôn trọng, gia đình vẫn đáp ứng là mái ấm của mỗi con người và là tế bào lành mạnh để phát triển xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, ở khu vực ĐBSH hiện nay vẫn còn nhiều gia đình chưa thực hiện tốt chức năng tâm lý, tình cảm trong gia đình, làm cho gia đình chưa thực sự là tổ ấm, thậm chí còn trở thành gánh nặng gây ra các tệ nạn, bức xúc cho gia đình và xã hội, cụ thể như: nhiều gia đình không hạnh phúc, ly tán, ly hôn, hiện tượng ngoại tình, bố mẹ mải kiếm tiền không dành thời gian chăm sóc, giáo dục con cái, bạo lực gia đình, mắc các tệ nạn xã hội... Theo Báo cáo điều tra dân số Việt Nam 2006, hậu quả của ly thân, ly hôn, bạo lực gia đình khiến cho 85,5% trẻ em cảm thấy buồn, lo lắng, 20% th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phat_huy_gia_tri_gia_dinh_truyen_thong_trong_xay_dun.pdf
Tài liệu liên quan