Luận án Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam hiện nay - Đinh Phan Quỳnh

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 8

1.1 Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài 8

1.2 Đánh giá về tình hình nghiên cứu 23

1.3 Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 27

Chương 2 CƠ S TRONG LĨNH V Ở LÝ LUẬN V ỰC GIAO THÔNG ĐƯ Ề XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ỜNG BỘ 31

2.1 Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ 31

2.2 Khái niệm, nguyên tắc, vai trò xử lý vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giao thông đường bộ 36

2.3 Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ 55

2.4

Thẩm quyền, thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ 61

2.5

Các yếu tố tác động đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ 66

Chương 3

THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG

LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

77

3.1 Thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ 77

3.2 Thực trạng hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay 97

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH

VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở VIỆT NAM

116

4.1 Phương hướng nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam 116

4.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ 124

KẾT LUẬN 155

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤ

pdf179 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam hiện nay - Đinh Phan Quỳnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iêng. Tuy nhiên một số nguyên tắc được quy định trong luật nhưng không có văn bản hướng dẫn cụ thể trong xử lý đối với từng loại vi phạm cụ thể, dẫn đến sự lúng túng nhất định khi tiến hành xử lý các hành vi vi phạm, ví dụ như Điểm d, Khoản 1, Điều 3, Luật xử lý VPHC năm 2012 quy định: “Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó”. Nguyên tắc này khi được áp dụng để xử lý từng trường hợp cụ thể trong GTĐB đã thực sự gây ra khó khăn; ví dụ khi lực lượng chức năng kiểm tra và phát hiện hộ gia đình đã có hành vi lấn chiếm vỉa hè, lòng lề đường để kinh doanh ăn uống giải khát, thì không biết phạt thế nào cho hợp lý; bởi nếu theo quy định tại Điểm d, Khoản 1, Luật xử lý VPHC năm 2012 thì phải phạt đối với từng thành viên của hộ gia đình (tham gia kinh doanh) hành vi lấn chiếm vỉa hè, lòng lề đường để kinh doanh ăn uống giải khát với mức phạt là từ 2.000.000 đ đến 3.000.000 đ. Trong khi đó nếu tổ chức có hành vi vi phạm này thì mức phạt chỉ từ 4.000.000 đ đến 6.000.000 mà thôi. Hay như quy định “vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm” là chưa thực sự chính xác; bởi không phải trong trường hợp nào người thực hiện hành vi VPHC nhiều lần cũng sẽ bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, hơn thế theo Điểm b, Khoản 1 Điều 10 Luật xử lý VPHC năm 2012 thì đây lại là một tình tiết tăng nặng của TNHC. Như vậy có thể thấy ngay trong một văn bản pháp luật đã cố những quy phạm mâu thuẫn với nhau (Điểm d, Khoản 1, Điều 3 mâu thuẫn với Điểm b, Khoản 1, Điều 10). 3.1.2. Thẩm quyền xử lý và đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ 3.1.2.1. Thẩm quyền Trên cơ sở quy định về thẩm quyền xử lý các hành vi VPHC tại chương thứ 4 của Luật xử lý VPHC năm 2012 từ điều 38 đến điều 51, Nghị định 46/2016 quy định về thẩm quyền xử lý các hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB như sau: (1) Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp: Theo quy định tại khoản 1 điều 70, Nghị định 46/2016 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp được phép xử phạt tất cả 79 các hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên phạm vi quản lý của địa phương mình, tuy nhiên xuất phát từ thực tiễn trong quản lý nhà nước về trật tự, ATGTĐB cho nên đa số các VPHC trong lĩnh vực này đều do công an các cấp thực hiện, chỉ một số trường hợp nếu mức tiền phạt vượt quá thẩm quyền xử phạt của lực lượng công an, thì mới trình Chủ tịch Ủy ban ký quyết định xử phạt; (2) Công an nhân dân: Đây là lực lượng chủ công thực hiện nhiệm vụ xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Theo quy định tại điều 72 – Nghị định 46/2016 có rất nhiều chủ thể thuộc CAND có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật về GTĐB, bao gồm các chủ thể từ Chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành công vụ cho đến Cục trưởng Cục CSGT; (3) Thanh tra ngành GTVT: Theo quy định của điều 73 của Nghị định 46/2016, thì lực lượng Thanh tra ngành GTVT được phép tiến hành xử phạt đối với một số VPHC về trật tự GTĐB như: Vi phạm về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng GTĐB, bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật của công trình đường bộ; các vi phạm quy định của pháp luật về hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tại cơ sở kinh doanh vận tải đường bộ, điểm dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ, trạm kiểm tra tải trọng xe, trạm thu phí và khi phát hiện phương tiện (có hành vi vi phạm) dừng, đỗ trên đường bộ Việc quy định cụ thể các chức danh có thẩm quyền xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB tại các điều 71,72 và 73 của Nghị định 46/2016 đã có một số thay đổi so với Nghị định 171/2013 đã tạo điều kiện thuận lợi trong công tác xử lý các VPHC trong lĩnh vực GTĐB của các lực lượng chức năng, giúp họ nắm rõ những vụ việc nào thuộc thẩm quyền của mình, vụ việc nào thuộc thẩm quyền của cấp cao hơn cũng như các biện pháp ngăn chặn, khắc phục hậu quả mà mình được phép áp dụng. Tuy nhiên việc Nghị định 46/2016 vẫn quy định các chức danh có thẩm quyền theo phương pháp liệt kê có thể sẽ gây ra những khó khăn nhất định trong hoạt động xử phạt dù tại điều 53 Luật xử lý VPHC đã dự liệu tình huống khi có 80 sự thay đổi chức danh có thẩm quyền; nhưng trong trường hợp xuất hiện các chức danh mới (do chia tách, sáp nhập cơ quan hành chính) thì sẽ gây khó khăn cho hoạt động này. Tiếp theo đó việc Luật cũng như Nghị định chỉ giao thẩm quyền xử lý cho cấp trưởng (một số ít hành vi thì người trực tiếp thi hành công vụ có quyền xử phạt) và cấp trưởng có thể giao quyền xử phạt trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của mình cho cấp phó trên thực tế cũng tạo ra những sự khó khăn nhất định cho hoạt động xử lý các hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Bởi việc quy định giao quyền như vậy dễ dẫn đến tình trạng cấp trưởng sẽ trực tiếp xử lý đối với những vụ việc đơn giản, tính rủi ro thấp; còn những vụ việc phức tạp, tính nguy hiểm cao thì lại đẩy cho cấp phó với lý do “đã giao quyền”; hoặc có những thời điểm cơ quan đó không có cấp trưởng mà chỉ có phó phụ trách thì việc xử lý chắc chắn sẽ gặp khó khăn. Vì vậy khi quy định về thẩm quyền xử lý đối với các VPHC trong lĩnh vực GTĐB, cần quy định cấp phó có quyền ký các quyết định xử lý VPHC ở mảng, lĩnh vực mình phụ trách. 3.1.2.2. Đối tượng bị xử lý Hiện trong Nghị định 46/2016 cũng không quy định cụ thể về đối tượng bị xử lý VPHC mà chủ quy định chung tại khoản 1, điều 2 đó là mọi cá nhân, tổ chức có hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều bị xử lý. Như vậy bất kỳ cá nhân (có năng lực TNHC), tổ chức nào khi có hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB tại Việt Nam đều bị xử lý. Như vậy trong quá trình xử lý các VPHC trong lĩnh vực GTĐB cần phải tuân thủ quy định của Luật xử lý VPHC về đối tượng bị xử lý, cụ thể như sau: (1) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: Bị xử lý về hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử lý về mọi VPHC trong lĩnh vực GTĐB; (2) Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân: Nếu có VPHC trong lĩnh vực GTĐB thì bị xử lý như đối với công dân khác; trường hợp 81 cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì phải đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội, Công an có thẩm quyền xử lý; (3) Tổ chức: Bị xử lý về mọi VPHC trong lĩnh vực GTĐB; (4) Cá nhân, tổ chức nước ngoài: Nếu VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên phạm vi lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. Việc Nghị định 46/2016 không quy định cụ thể các nhóm đối tượng bị xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, mà áp dụng theo đúng tinh thần của Luật xử lý VPHC là không sai, tuy nhiên việc Nghị định không “cụ thể” hơn về đối tượng bị xử lý thực sự lại chưa thực sự phù hợp. Ở đây Nghị định cần cụ thể từ 4 nhóm đối tượng bị xử lý VPHC theo quy định của luật thành nhiều nhóm đối tượng với đường lối xử lý cụ thể, thì hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB sẽ đạt hiệu quả cao hơn. 3.1.3. Các hình thức xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ 3.1.3.1. Hình thức xử phạt Theo quy định của pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, hiện nay hình thức xử phạt đối với VPHC trong lĩnh vực GTĐB đang được áp dụng gồm có: Cảnh cáo; phạt tiền; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính và tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn. Trong đó cảnh cáo và phạt tiền được xác định là hình thức xử phạt chính còn hai hình thức còn lại thì chỉ được coi là hình thức xử phạt bổ sung (mặc dù Luật xử lý VPHC cho phép có thể coi hai hình thức này là hình thức xử phạt chính). (1) Cảnh cáo: Được áp dụng đối với những vi phạm trong lĩnh vực GTĐB do cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm các quy định về trật tự, ATGTĐB không 82 nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ, hoặc đối với mọi hành vi do người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Trường hợp áp dụng hình thức xử phạt này chủ thể có thẩm quyền không lập biên bản mà ra quyết định xử phạt bằng văn bản (trong một số trường hợp cụ thể, nếu xét thấy có đủ điều kiện, thì có thể thay thế biện pháp xử phạt này bằng biện pháp nhắc nhở tại chỗ). Trong lĩnh vực GTĐB việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo được quy định đối với 23 hành vi cụ thể được quy định tại các điều 8;9;10;15;18;20;21 và 31 của Nghị định 46/2016. Có thể nhận thấy hình thức xử phạt cảnh cáo được sử dụng đối với những vi phạm nhỏ, thậm chí rất nhỏ, không hướng tới mục tiêu trừng phạt mà chủ yếu mang tính răn đe, giáo dục đối với người vi phạm. Tuy nhiên trong thực tế hình thức xử phạt này hầu như không được áp dụng bởi tính hiệu quả của hình thức này không cao, vì thiếu một cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành Quyết định xử phạt cảnh cáo. Vì vậy cần có những nghiên cứu để nâng cao hiệu quả của hình thức xử phạt này hoặc có thể nghiên cứu để thay thế hình thức xử phạt này bằng một hình thức xử phạt khác có tính giáo dục cao hơn (như buộc lao động công ích). (2) Phạt tiền: Trong lĩnh vực GTĐB mức phạt tiền tối đa cho VPHC là 40.000.000đ được áp dụng đối với cá nhân và 80.000.000đ đối với tổ chức. Đối với những vi phạm về TTATGT tại khu vực nội thành của các thành phố trực thuộc trung ương có thể cao hơn nhưng không được quá 02 lần mức phạt chung. Trong lĩnh vực GTĐB mức phạt tiền cụ thể được xác định là mức trung bình chung của mức phạt tối đa và tối thiểu, nếu có tình tiết giảm nhẹ thì không được giảm xuống dưới mức tối thiểu và có tình tiết tăng nặng cũng không được vượt quá mức tối đa. Việc áp dụng hình thức phạt tiền đối với đa số các VPHC trong lĩnh vực GTĐB là cần thiết (điều này thể hiện qua việc chỉ có 23 hành vi được áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo). Tuy nhiên mức phạt tiền đối với một số vi phạm trong lĩnh vực GTĐB vẫn chưa thực sự hợp lý, có hành vi rất nguy hiểm, trực tiếp uy hiếp đến trật tự ATGTĐB thì mức phạt lại thấp (ví dụ như hành vi không giảm 83 tốc độ và nhường đường khi điều khiển ô tô từ trong ngõ, đường nhánh ra đường chính; Lùi xe ở đường một chiều, đường cấm, đi ngược chiều thì mức phạt chỉ là từ 300.000đ đến 400.000đ). Hiện nay mức phạt tiền được quy định tại Nghị định 46/2016 là mức phạt áp dụng chung cho cả nước là chưa thực sự phù hợp (chỉ có các thành phố trực thuộc trung ương mới được phép tăng mức phạt tiền đối với những VPHC về GTĐB ở khu vực nội thành, và cũng được tăng không quá hai lần). Điều này cũng là nguyên nhân dẫn đến việc trong một thời gian ngắn, Chính phủ phải liên tục sửa đổi Nghị định về xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB (chủ yếu là thay đổi về mức phạt đối với từng hành vi cụ thể). Điều này cho thấy việc ấn định mức phạt tiền thống nhất, cố định như vậy là chưa phù hợp, dẫn đến việc phải chỉnh sửa các văn bản quy phạm pháp luật nhiều lần, gây lãng phí về thời gian và tiền của. Không những vậy việc quy định một mức phạt chung, thống nhất trên phạm vi toàn quốc ở góc độ nà đó còn làm ảnh hưởng đến nguyên tắc tương xứng, công bằng trong xử lý VPHC đối với các hành vi xâm hại trật tự, ATGTĐB; vì vậy cần quy định mức phạt theo tỷ lệ của mức lương tối thiểu vùng để vừa đảm bảo được tính bền vững, vừa đảm bảo nguyên tắc tương xứng, công bằng trong xử lý đối với các hành vi vi phạm. (3) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn: Đây thực tế là hai biện pháp khác nhau, nhưng Luật xử lý VPHC lại nhập lại thành một, điều này cũng là một bất cập cần được thay đổi bởi trình tự thủ tục, thẩm quyền cũng như điều kiện để áp dụng hai biện pháp này là không giống nhau. Đối với những VPHC trong lĩnh vực GTĐB, thì biện pháp chủ yếu được áp dụng là tước giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề (trong đó chủ yếu cũng chỉ là tước giấy phép điều khiển phương tiện giao thông). Và theo hướng dẫn tại thông tư số 45/2014/TT-BCA thì thời gian tước giấy phép là 01, 02, 04 và 24 tháng. 84 Có thể khẳng định biện pháp này là rất cần thiết khi tiến hành xử lý các VPHC trong GTĐB, tuy nhiên thời gian tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề được quy định trong Nghị định 46/2016 có thể lên đến 24 tháng, là quá dài, việc áp dụng biện pháp này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của cá nhân và gia đình người vi phạm nếu người bị tước có công việc liên quan đến nội dung giấy phép và chứng chỉ đó. Bên cạnh đó theo quy định của Nghị định 46/2016 quy định thời hạn được tính kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực, nhưng trên thực tế các loại giấy tờ này thường bị tạm giữ ngay ở thời điểm lập biên bản VPHC. (4) Tịch thu tang vật, phương tiện VPHC: Tịch thu tang vật, phương tiện VPHC là việc sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến VPHC, được áp dụng đối với VPHC nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày có quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, cơ quan có thẩm quyền phải xử lý theo đúng quy định đã được thể hiện tại khoản 1 của điều 82, luật xử lý VPHC năm 2012; nếu quá thời hạn mà không thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Số tiền thu được từ bán đấu giá tang vật phương tiện bị tịch thu được nộp vào ngân sách nhà nước sau khi đã trừ đi các chi phí như lưu kho, bến bãi... Trong trường hợp muốn tịch thu thì người ra quyết định phải định giá tang vật, phương tiện; việc định giá tang vật, phương tiện rất quan trọng bởi nó liên quan đến thẩm quyền tịch thu cũng như thẩm quyền ra quyết định. Tuy nhiên theo quy định thời hạn tạm giữ tang vật để xác định giá trị là không quá 24 giờ (có thể gia hạn nhưng cũng không quá 24 giờ) là quá ngắn, không đủ để người có thẩm quyền có thể thành lập Hội đồng định giá, và điều này dễ dẫn đến những sai phạm trong hoạt động định giá. 3.1.3.2. Biện pháp khắc phục hậu quả 85 Ngoài các hình thức TNHC mang tính chất xử phạt như vừa trình bày trên, thì pháp luật cũng quy định những TNHC mang tính khôi phục, mà hiện nay thuật ngữ này được quy định trong Luật xử lý VPHC là “các biện pháp khắc phục hậu quả”. Đối với các VPHC trong lĩnh vực GTĐB, thì ngoài việc các cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu các hình thức xử phạt theo luật định, trong một số trường hợp còn phải thực hiện trách nhiệm khắc phục các hậu quả quả do hành vi của mình gây ra, cụ thể như sau: (1) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do VPHC gây ra; (2) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; (3) Buộc thực hiện biện pháp để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do VPHC gây ra; (4) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất phương tiện; (5) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện VPHC; (6) Và các biện pháp khắc phục hậu quả khác được quy định tại Chương II và Chương III của Nghị định 46/2016. Qua khảo sát thực tiễn áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực GTĐB, NCS nhận thấy một số biện pháp như buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu do VPHC gây ra đối với một số hành vi như tự ý thay đổi nhãn hiệu, kiểu dáng phương tiện; chở quá tải trọng, còn chưa được thực hiện một cách triệt để. Trao đổi với đội ngũ cán bộ làm thực tế thì được biết sở dĩ biện pháp chưa được thực hiện quyết liệt, triệt để vì trang thiết bị của các lực lượng chức năng còn thiếu như kho, bãi để hạ tải; phương tiện để sang tải. Vì vậy khi phát hiện phương tiện chở quá số người quy định, hay quá tải trọng cho phép thì việc áp dụng biện pháp này là rất khó khăn. Tuy nhiên theo quan điểm của NCS, Nhà nước chỉ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức mà tuyệt đối không bảo vệ các lợi ích không hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức. Vì vậy nếu việc hạ tải gây ảnh hưởng đến lợi ích vật chất của chủ hoặc người điều khiển phương tiện thì đó không phải trách nhiệm của Nhà nước, bởi khi chở hàng hóa vượt quá tải trọng 86 cho phép tức họ đã ý thức được hành vi của minh là VPPL, và đương nhiên những thiệt hại (nếu có) do hành vi vi phạm đó thì chủ thể vi phạm phải gánh chịu. 3.1.3.3. Biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ Hiện nay theo quy định của Luật xử lý VPHC và Nghị định 46/2016, để ngăn chặn cũng như bảo đảm việc xử lý VPHC, các chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng rất nhiều biện pháp như: Tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; khám người có hành vi VPHC trong GTĐB; khám phương tiện vận tải, đồ vật ; khám nơi cất dấu tang vật, phương tiện VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Tuy nhiên trên thực tế, trong các biện pháp được pháp luật cho phép sử dụng, thì biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề là biện pháp được áp dụng phổ biến. Bởi thực chất các VPHC trong lĩnh vực GTĐB đa phần là những vi phạm nhỏ, tính nguy hiểm cho xã hội là không lớn, vì vậy việc áp dụng các biện pháp như khám phương tiện vận tải, khám nơi cất dấu tang vật, phương tiện hay khám người..., để phục vụ cho hoạt động xử lý hành chính đối với hành vi này hầu như không được áp dụng, nếu có thì cũng là nhằm ngăn chặn một hành vi VPPL khác (như vi phạm về trật tự an toàn xã hội). Vấn đề vướng mắc nhất trong áp dụng biện pháp này đối với những VPHC trong lĩnh vực GTĐB, đó là: Đa phần đội ngũ cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát lại không có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện cũng như giấy phép, chứng chỉ hành nghề vì theo quy định của luật xử lý VPHC thì người có thẩm quyền tịch thu mới có quyền tạm giữ. Mặc dù mẫu biên bản VPHC số 01, ban hành kèm theo Nghị định 97/2017/NĐ-CP của Chính phủ, đã có bổ sung nội dung (mục 10) ghi loại tang vật, phương tiện bị tạm giữ, nhưng đây chỉ là giải pháp mang tính tạm thời. Bên cạnh đó hiện nay theo quy định tại khoản 8 điều 125, Luật xử lý VPHC 2012, thì trong trường hợp VPHC có nhiều tình tiết phức tạp cần phải xác minh, thì người có thẩm quyền xử phạt có quyền có quyền gia hạn một lần không quá 30 87 ngày, tuy nhiên muốn gia hạn thì phải báo cáo bằng văn bản đối với thủ trưởng trực tiếp của mình. Quy định này trên thực tế đã gây nhiều khó khăn khi người ra quyết định tạm giữ là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (vì theo quy định thì người đồng ý gia hạn quyết định tạm giữ phải là Thủ tướng chính phủ). Cũng liên quan đến vấn đề tạm giữ tang vật phương tiện VPHC trong lĩnh vực GTĐB, do sự thiếu thốn về kho bãi bảo quản, nên pháp luật cho phép cá nhân, tổ chức vi phạm tự bảo quản tang vật, phương tiện VPHC. Tuy nhiên thủ tục để cá nhân, tổ chức vi phạm có thể tự quản lý tang vật, phương tiện còn quá phức tạp [17], vì vậy để bảo đảm cho quy định này được thực hiện trên thực tế thì cần phải có những thay đổi mạnh về mặt thủ tục theo hướng đơn giản, gọn nhẹ với tinh thần tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức vi phạm. 3.1.4. Thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ Như đã trình bày tại mục 2.4.2 của luận án, thủ tục xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB là là những công việc mà các chủ thể có thẩm quyền phải tiến hành để xử lý một VPHC cụ thể trong lĩnh vực GTĐB. Cũng giống như thủ tục xử lý VPHC, trong lĩnh vực GTĐB thì khi xử lý VPHC cũng chia ra làm hai loại đó là thủ tục không lập biên bản (thủ tục đơn giản) và thủ tục có lập biên bản. 3.1.4.1. Thủ tục không lập biên bản (thủ tục đơn giản) Theo quy định chung về thủ tục tại điều 56 Luật xử lý VPHC năm 2012, trong lĩnh vực GTĐB nếu chủ thể vi phạm bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền ở mức thấp (đến 250.000 đ đối với cá nhân và đến 500.000đ đối với tổ chức), thì áp dụng thủ tục không lập biên bản. Trường hợp này người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt ngay, và người vi phạm có thể thực hiện quyết định tại chỗ. Đây là một quy định nhằm mục đích đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hạn chế sự phiền hà cho người vi phạm khi phải thực hiện quyết định xử phạt, tuy nhiên việc nộp tiền phạt tại chỗ cũng tạo điều kiện và làm phát sinh hành vi nhũng nhiễu, mãi lộ.... 88 Việc quy định mức phạt tiền theo thủ tục không lập biên bản, là thấp (đến 250.000đ), vì vậy cần phải tăng mức phạt tiền lên cao hơn (đồng nghĩa với việc tăng thẩm quyền cho người trực tiếp thi hành công vụ); nhưng để hạn chế tiêu cực pháp luật cần bỏ quy định về nộp phạt tại chỗ và thay bằng nhiều biện pháp nộp phạt khác linh hoạt hơn như nộp trực tuyến; nộp qua bên thứ ba (thu hộ)... (hiện nay theo quy định của Nghị quyết 10/NQ-CP ngày 04/2/2016 người vi phạm có thể nộp tiền phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB qua bưu điện, nhưng người vi phạm muốn nộp qua hình thức này thì người vi phạm phải đăng ký hình thức nộp phạt ở thời điểm lập biên bản, mà điều này thì không phải ai cũng biết, thậm chí cả người thi hành công vụ cũng không biết có quy định này). 3.1.4.2.Thủ tục có lập biên bản Khi phát hiện VPHC trong lĩnh vực GTĐB, người có thẩm quyền không ra quyết định xử lý ngay mà phải lập biên bản VPHC đối với người vi phạm. Biên bản là bằng chứng pháp lý ghi nhận hành vi vi phạm, trên cơ sở đó người có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật để ra các quyết định xử lý phù hợp. Việc xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB thông qua thủ tục có lập biên bản được tiến hành theo các bước sau: Thứ nhất, lập biên bản VPHC về GTĐB Khi phát hiện hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB người có thẩm quyền phải lập biên bản kịp thời theo quy định của pháp luật (riêng đối với vi phạm được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì lập biên bản kể từ thời điểm xác định được cá nhân, tổ chức vi phạm). Biên bản phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý; tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai 89 của họ; quyền và thời hạn giải trình của người vi phạm hoặc đại diện của tổ chức vi phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình.(nếu thuộc trường hợp giải trình) Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh hoặc vì lý do nào đó mà không ký vào biên bản thì phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến vào biên bản. Biên bản VPHC trong lĩnh vực GTĐB phải được lập thành ít nhất 02 bản, được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; trường hợp người vi phạm không ký được thì điểm chỉ; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì họ cùng phải ký vào biên bản; trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản, đồng thời phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở hoặc của hai người làm chứng. Biên bản lập xong phải giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm 01 bản; trường hợp vi phạm không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì người lập biên bản phải hoàn thiện hồ sơ và chuyển ngay hồ sơ vi phạm đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt. Trường hợp người dưới 18 tuổi vi phạm thì biên bản còn được gửi cho cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó. Thứ hai, xác minh tình tiết của vụ việc VPHC trong lĩnh vực GTĐB Theo quy định tại điều 59, Luật xử lý VPHC thì trước khi ra quyết định xử phạt VPHC, trong trường hợp cần thiết người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh các tình tiết để bảo đảm quyết định xử phạt phản ánh đúng tính chất, mức độ của hành vi VPHC để có được một quyết định chính xác, khách quan theo quy định của pháp luật. Các tình tiết cần phải xác minh như: Có hay không có VPHC; vấn đề lỗi, nhân thân của cá nhân VPHC; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; 90 tính chất mức độ thiệt hại do VPHC gây ra, việc xác minh tình tiết của VPHC phải được thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên trong thực tế do sự thiếu đồng bộ cũng như các công cụ phục vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực này còn lạc hậu vậy khi tiến hành xử lý các hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB, thì hầu như việc xác minh đã không được thực hiện một cách đầy đủ. Thứ ba, xác đị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_xu_ly_vi_pham_hanh_chinh_trong_linh_vuc_giao_thong_d.pdf
Tài liệu liên quan