Luận văn Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại Trường trung học phổ thông Mỹ Đức B – Hà Nội

Qua khảo sát tác giả thấy rằng 80% số cán bộ quản lý nhận thức việc xây dựng nền nếp dạy học là rất cần thiết và có 70,5% đã làm tốt, 29,5% chưa thực hiện tốt.

- Qui định chế độ thông tin báo cáo và sắp xếp thay thế hoặc dạy bù trong trường hợp GV vắng. Với những trường hợp đi công tác hoặc nghỉ theo chế độ thì Ban giám hiệu nhà trường chủ động phân người thay thế. Với những trường hợp vắng đột xuất một hoặc hai tiết thì GV chủ động báo cáo cho Tổ trưởng chuyên môn điều động người dạy thay. Đây cũng là một trong những tiêu chí của nhà trường để đánh giá thi đua. Về biện pháp này có 80% cán bộ quản lý cho là rất cần thiết và thực hiện rất tốt, tuy nhiên vẫn còn 40,4% GV cho rằng chưa tốt trong thực hiện.

-Tổ chức dự giờ theo định kỳ, đột xuất có phân tích sư phạm bài dạy cũng là biện pháp được 100% cán bộ quản lý đưa ra, coi đó thực sự cần thiết để quản lý tiến độ giảng dạy của GV và việc thực hiện nền nếp dạy học của họ. Tuy nhiên, biện pháp này mặc dù đã được tất cả giáo viên nhà trường thực hiện nhưng chỉ mang tính hình thức, tính khách quan chưa cao, nặng về đánh giá hơn là phân tích bài dạy về các mặt theo yêu cầu đánh giá của Bộ Giáo dục & Đào tạo.

 

doc124 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3295 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại Trường trung học phổ thông Mỹ Đức B – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.3.1.1. Quản lý khâu soạn bài, chuẩn bị bài lên lớp Qua các phiếu trưng cầu ý ‎kiến của các CBQL và các GV bộ môn, đa số cho rằng, việc hướng dẫn các qui định, yêu cầu soạn bài, cung cấp SGK, tài liệu tham khảo là rất cần thiết và có 78,7% cho rằng nhà trường đã làm tốt vấn đề này. Việc yêu cầu bộ môn thống nhất cơ bản mục đích, yêu cầu, nội dung, hình thức bài dạy chưa được nhà trường chú trọng, đa số cho là cần thiết. Tuy nhiên, có 66% khẳng định nội dung quản lý này được thực hiện tốt, chỉ có 2,1% cho là họ chưa thực hiện. Về thực hiện kiểm tra định kỳ các CBQL cho là rất cần thiết, phần lớn giáo viên đánh giá cao mức độ thực hiện nội dung quản lý này (tới 76,6%). Tuy nhiên vẫn còn 12,8% giáo viên cho rằng nhà trường đã thực hiện kiểm tra định kỳ nhưng số lần kiểm tra không nhiều, và việc kiểm tra còn mang tính hình thức. Có 10,6% đánh giá là họ chưa làm. Vấn đề dự giờ đánh giá bài soạn qua giờ dạy cũng được các cán bộ quản lý cho là quan trọng và có 74,5% GV nhận định vấn đề này được thực hiện tốt, 2,1% khẳng định nội dung quản lý này không được đề cập đến khi kiểm tra đánh giá giờ dạy. Bảng 2.12: Quản lý khâu soạn bài, chuẩn bị bài lên lớp của giáo viên. Số TT Nội dung quản lý Nhận thức của cán bộ quản lý GV đánh giá mức độ thực hiện Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Làm tốt Làm chưa tốt Chưa làm 1 Hiệu trưởng hướng dẫn các qui định, yêu cầu soạn bài, cung cấp SGK, tài liệu tham khảo 48,9% 51,1% 0% 78,7% 19,2% 2,1% 2 Hiệu trưởng yêu cầu tổ bộ môn thống nhất cơ bản mục đích, yêu cầu, nội dung, hình thức bài dạy. 31,9% 59,6% 8,5% 66% 29,8% 2,1% 3 Hiệu trưởng giao cho tổ trưởng chuyên môn kiểm tra định kỳ giáo án của giáo viên 31,9% 61,7% 6,4% 93,6% 6,4% 0% 4 Hiệu trưởng kiểm tra định kì và kiểm tra đột xuất công tác soạn bài và chuẩn bị bài lên lớp của GV 23,4% 63,8% 12,8% 76,6% 12,8% 10,6% 5 Hiệu trưởng dự giờ, đánh giá hiệu quả bài soạn qua giờ dạy 36,2% 59,6% 4,2% 74,5% 23,4% 2,1% . Một số yêu cầu cơ bản đối với thiết kế bài học (giáo án) môn lịch sử Nâng cao chất lượng dạy học nói chung, giờ học lịch sử nói riêng là mục tiêu phấn đấu của hầu hết các thầy cô trong nhà trường hiện nay. Vậy chuẩn bị một giáo án như thế nào cho tốt, nhất là giáo án theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Để soạn giáo án tốt, giáo viên cần tiến hành các công việc sau : Trước hết, cần xác định loại bài và vị trí của bài trong khoá trình để có nội dung và phương pháp dạy học cho phù hợp. Thứ hai, phải xác định rõ mục tiêu (mục đích yêu cầu) của bài học. Nội dung mức độ bài học gồm các yếu tố : kiến thức, tư tưởng và kĩ năng. Đây là công việc khó và phức tạp, quyết định hiệu quả của các công việc tiếp theo khi soạn bài. Về việc xác định nội dung kiến thức, giáo viên phải nghiên cứu nội dung bài viết trong Sách giáo khoa, hướng dẫn của Sách giáo viên để tìm ra nội dung chính của bài học, những sự kiện cơ bản, mức độ trình bày. Để xác định nhiệm vụ giáo dục tư tưởng của bài, giáo viên cần căn cứ vào nhiệm vụ giáo dục chung của khoá trình và nội dung cụ thể của bài. Như vậy sẽ không rơi vào công thức giáo điều. Muốn xác định nhiệm vụ phát triển kĩ năng, giáo viên nên dựa vào mức độ cần đạt được chương trình lịch sử mỗi lớp, đặc điểm trình độ học sinh, nội dung cụ thể của bài học mà xác định cụ thể. Tổng hợp các yêu cầu trên, chúng ta xác định một cách toàn diện cụ thể mục đích bài học. Thứ ba, phải xây dựng đề cương và viết giáo án. Để xây dựng nội dung và đề cương bài học, giáo viên phải xem xét mối tương quan giữa bài viết của sách giáo khoa với nội dung bài giảng. Căn cứ vào nội dung chính của bài (đã xác định), thời gian của tiết học, giáo viên xác định khối lượng thông tin học sinh cần nắm, mức độ lĩnh hội các thông tin này (những sự kiện cần đi sâu, sự kiện đi lướt và những sự kiện hướng dẫn học sinh về nhà đọc), các phương tiện học tập (tài liệu tham khảo, đồ dùng trực quan…). Nội dung bài soạn cần tránh lối dạy học nhồi nhét kiến thức, kiểu cổ động giáo dục bằng những “khẩu hiệu chính trị” không xuất phát từ sự kiện lịch sử cụ thể, mà phải thể hiện được các hoạt động điều khiển, tổ chức của giáo viên trên cơ sở phất huy tính tích cực học tập của học sinh . Muốn vậy, khi xác định cách tổ chức công việc của giáo viên và học sinh phải kết hợp việc truyền thụ kiến thức có sẵn với hoạt động của các em. Lĩnh hội kiến thức và phát triển năng lực nhận thức là hai mặt khăng khít với nhau của một quá trình. Giáo án tốt được đánh giá theo những yêu cầu chủ yếu sau đây : - Phản ánh được nội dung cơ bản của chương trình, sách giáo khoa và tình hình học sinh. - Thể hiện được các điều kiện cụ thể của từng lớp, từng trường, từng vùng, từng địa phương. - Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên lên lớp đạt hiệu quả cao - Tạo điều kiện cho học sinh lĩnh hội bài tốt. Trên đây là một số cơ sở lý luận về chuẩn bị bài học; việc tiến hành một bài giảng sẽ được trình bày qua cấu trúc bài giảng cụ thể sau: Gợi ý cấu trúc bài học lịch sử Một giáo án lịch sử được thiết kế theo những yêu cầu sau: I. Mục tiêu bài học 1.Kiến thức -Phải xác định được bài có mấy đơn vị kiến thức cơ bản mà học sinh cần nắm - Đồng thời cần xác định kiến thức nào là kiến thức trọng tâm của bài để tập trung các biện pháp sư phạm giúp HS nắm vững . Để xác định tốt nhiệm vụ này giáo viên phải nghiên cứu nội dung bài viết trong Sách giáo khoa, hướng dẫn của Sách giáo viên để tìm ra nội dung chính của bài học, những sự kiện cơ bản, mức độ học sinh cần đạt được. 2. Tư tưởng, tình cảm Qua bài học giáo dục cho học sinh về mặt nào: yêu quê hương đất nước, yêu lao động, biết ơn các anh hùng liệt sĩ, lòng tự hào dân tộc, tinh thần quốc tế vô sản....Tuỳ theo nội dung của bài mà giáo dục mặt nào không gò ép cứng nhắc. 3. Kĩ năng Bài học rèn cho học sinh những kĩ năng gì: so sánh đối chiếu, lập bảng thống kê, phân tích tổng hợp , sử dụng lược đồ .... giáo viên nên dựa vào mức độ cần đạt được chương trình lịch sử mỗi lớp, đặc điểm trình độ học sinh, nội dung cụ thể của bài học mà xác định cụ thể. II. Thiết bị, đồ dùng dạy học và tài liệu dạy học -Giáo viên chuẩn bị thiết bị, đồ dùng dạy học: đầu Video, đèn chiếu, bảng trong, tranh ảnh bản đồ, các tài liậu tham khảo cần cho bài giảng. -Về phía học sinh cũng phải chuẩn bị: sưu tần tranh ảnh, vẽ bản đồ, chuẩn bị bài tập trò chơi... III. Thiết kế bài học 1.Quan niệm về cấu trúc bài học *Quan niệm cũ : Bài học phải đầy đủ và thực hiện theo trình tự các bước lên lớp : ổn định lớp - Kiển tra bài cũ - Dẫn dắt vào bài mới- Giảng bài mới - Củng cố, dặn dò học sinh *Quan niệm hiện nay: - Đó là những công việc của một bài học mà giáo viên cần thực hiện không nhất phải tuân thủ theo trình tự và đủ cả 5 bước mà tuy thuộc vào điều kiện cụ thể đối tượng học sinh, cơ sở vật chất, nội dung bài học mà vận dụng sao cho linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo không cứng nhắc và máy móc. - Cấu trúc bài học phải phụ thuộc vào lọai bài, nội dung và mục tiêu bài học. 2. Gợi ý về cấu trúc bài học 2.1. Ổn định và tổ chức các hoạt động dạy học 2.2. Kiểm tra bài cũ 2.3. Giới thiệu bài mới 2.4. Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp - Thiết kế theo hoạt động của thày và trò - Mỗi mục của bài trong SGK có thể có một hoặc nhiều hoạt động tuỳ theo nội dung của bài. - Mỗi hoạt động thường được tiến hành các công việc sau: Thứ nhất: Xác định mức độ kiến thức cần đạt của hoạt động đó: thông qua hoạt động đó HS nắm được nội dung kiến thức gì, mức độ như thế nào? Thứ hai: Tổ chức với hoạt động của GV và HS bao gồm các bước sau: - Thông báo thông tin, cho học sinh làm việc với SGK, tư liệu lịch sử, tranh ảnh , bản đồ, tuy nhiên thông tin phải có định hướng của giáo viên. - Xử lí các thông tin, với việc nêu các câu hỏi, bài tập, vấn đề thảo luận - Kết quả xử lí và kết luận, Với việc học sinh thông báo kết quả xử lí thông tin do thầy tổ chức hướng dẫn và thầy đưa ra nhận xét đúng, sai, sửa chữa, bổ sung và cuối cùng thầy đưa ra kết luận. Hoạt động của thầy-trò Kiến thức cơ bản học sinh cần nắm vững Hoạt động 1: Cá nhân, nhóm hay cả lớp -Mức độ kiến thức cần đạt: .......... -Tổ chức thực hiện: +GV thông báo thông tin, cho học sinh làm việc với SGK, tư liệu lịch sử, tranh ảnh , bản đồ, xem băng, tuy nhiên thông tin phải có định hướng của giáo viên. +HS xử lí các thông tin, với việc nêu các câu hỏi, bài tập, vấn đề thảo luận thông qua các hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm hoặc cả lớp dưới sự tổ chức hướng dẫn của thầy. + Học sinh thông báo kết quả xử lí thông tin . +GV nhận xét đúng sai, sửa chữa, bổ sung và chốt ý Hoạt động 2: ... -Mức độ kiến thức cần đạt................ -Tổ chức thực hiện........ Mục1... 2.5. Sơ kết bài học - Củng cố : +Sau khi kết thúc bài học giáo viên khái quát và tổng kết toàn bộ nội dung của bài; có thể củng cố, sơ kết sau mỗi mục nếu thấy cần thiết. +Việc củng cố còn có thể tiến hành bằng cách GV nêu các câu hỏi kiểm tra hoạt động nhận thức của HS, yêu cầu HS trả lời . - Dặn dò, ra bài tập : + Dặn dò học sinh chuẩn bị công việc ở nhà phục vụ cho bài mới như: tìm hiểu SGK, sưu tầm tranh ảnh, tư liệu tham khảo, làm đồ dùng học tập... + Giáo viên ra bài tập hướng dẫn học sinh làm bài ở lớp hoặc ở nhà 2.3.1.2. Quản lý giờ dạy trên lớp Quản lý giờ dạy cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Hiệu trưởng Và CBQL trong công tác quản lý. Hiệu quả của giờ dạy có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả học tập của HS, đồng thời nó phản ánh năng lực, tinh thần, trách nhiệm của người GV. Hiệu trưởng và CBQL có các biện pháp quản lý giờ dạy phù hợp sẽ đảm bảo được nguyên tắc, chất lượng và hiệu quả đào tạo. Qua thực tế khảo sát tác giả thấy rằng, 100% Hiệu trưởng và CBQL đều có các biện pháp quản lý giờ lên lớp của GV, cụ thể qua kết quả tổng hợp điều tra ở bảng 2.13 cho ta thấy: - Tổ chức cho GV học tập qui chế, tiêu chuẩn đánh giá xếp loại tiết dạy làm cho toàn thể GV thực hiện theo qui chế một cách nghiêm túc là biện pháp được 100% CBQL cho là rất cần thiết và đã được các trường thực hiện. Bảng 2.13: Quản lý giờ dạy trên lớp Số TT Quản lý giờ lên lớp Nhận thức của cán bộ quản lý Kết quả thực hiện Rất cần Cần thiết Không cần thiết Làm tốt Làm chưa tốt Chưa làm 1 Tổ chức cho giáo viên học tập qui chế, tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại tiết dạy 100% 0% 0% 63,8% 31,9% 4,2% 2 Quản lý giờ dạy thông qua TKB, kế hoạch giảng dạy, sổ báo giảng và sổ ghi đầu bài. 100% 0% 0% 76,6% 23,4% 0% 3 Xây dựng nền nếp dạy học của giáo viên 80% 20% 0% 70,2% 29,8% 0% 4 Quy định chế độ thông tin, báo cáo và sắp xếp thay thế hoặc dạy bù trong trường hợp vắng giáo viên 80% 20% 0% 53,2% 40,4% 6,4% 5 Tổ chức dự giờ định kỳ, đột xuất có góp ý 100% 0% 0% 51,1% 31,9% 17% 6 Thường xuyên kiểm tra (sổ báo giảng) 80% 20% 0% 80,9% 14,9% 4,2% 7 Thu thập thông tin của học sinh, phụ huynh học sinh và đồng nghiệp 0% 100% 0% 51,1% 34% 14,9% Hiệu trưởng cho rằng quản lý giờ dạy của GV thông qua Thời khoá biểu (TKB), kế hoạch cá nhân, sổ báo giảng, sổ ghi đầu bài là rất cần thiết. Qua điều tra giáo viên của trường thì 76,6% cho rằng biện pháp này đã được thực hiện tốt còn 23,4% thực hiện chưa tốt. TKB được xây dựng dựa trên phân phối chương trình của Bộ Giáo dục & Đào tạo. Xây dựng TKB khoa học, hợp lý sẽ giúp cho các em học sinh được học cân đối giữa các môn học, giữa các giờ học và giữa các buổi học với nhau, tránh sự lĩnh hội kiến thức quá nhàm chán và căng thẳng. Tuy nhiên, nhà trường khi xây dựng TKB thường quan tâm nhiều đến nguyện vọng của GV làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của HS. Kế hoạch giảng dạy của cá nhân được lập từ đầu học kỳ, GV căn cứ vào phân phối chương trình, hướng dẫn thực hiện năm học để lập kế hoạch chi tiết cho từng tuần trong tháng. Sổ báo giảng là kế hoạch giảng dạy trong tuần của GV, được GV ghi từ đầu tuần dựa trên TKB của toàn trường. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp GV không trung thành với sổ báo giảng, đôi khi giữa các GV đổi giờ cho nhau để phục vụ mục đích cá nhân nào đó. Nếu điều này thường xảy ra sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện nội qui, kỷ luật giảng dạy của nhà trường. - Nền nếp dạy học của GV chính là ý thức trách nhiệm của GV đối với HĐDH được thể hiện qua các loại hồ sơ giảng dạy. Nền nếp dạy học được xây dựng dựa theo điều lệ trường THPT, theo yêu cầu cụ thể của từng trường. Để kiểm tra các giờ lên lớp, hầu hết các Hiệu trưởng và CBQL đều yêu cầu GV phải xây dựng kế hoạch cá nhân, kế hoạch giảng dạy từng tuần, từng học kỳ, từng bài, điển hình bằng sổ báo giảng. Hiệu trưởng quản lý kế hoạch của GV bằng cách kiểm tra sổ sách của toàn trường và của từng GV. Hiệu trưởng đề ra các qui định thực hiện nền nếp giảng dạy, ra vào lớp, quy định về bài soạn, về dự giờ, thăm lớp về tiến độ cho điểm và chế độ báo cáo định kỳ... Căn cứ vào các qui định và đối chiếu với thực tế đã thực hiện hàng tuần, hàng tháng thi đua Hiệu trưởng đánh giá, nhận xét để từ đó mỗi cán bộ GV tự điều chỉnh thực hiện cho tốt kế hoạch đã đề ra, nhằm đạt được mục tiêu chung của toàn trường. Qua khảo sát tác giả thấy rằng 80% số cán bộ quản lý nhận thức việc xây dựng nền nếp dạy học là rất cần thiết và có 70,5% đã làm tốt, 29,5% chưa thực hiện tốt. - Qui định chế độ thông tin báo cáo và sắp xếp thay thế hoặc dạy bù trong trường hợp GV vắng. Với những trường hợp đi công tác hoặc nghỉ theo chế độ thì Ban giám hiệu nhà trường chủ động phân người thay thế. Với những trường hợp vắng đột xuất một hoặc hai tiết thì GV chủ động báo cáo cho Tổ trưởng chuyên môn điều động người dạy thay. Đây cũng là một trong những tiêu chí của nhà trường để đánh giá thi đua. Về biện pháp này có 80% cán bộ quản lý cho là rất cần thiết và thực hiện rất tốt, tuy nhiên vẫn còn 40,4% GV cho rằng chưa tốt trong thực hiện. -Tổ chức dự giờ theo định kỳ, đột xuất có phân tích sư phạm bài dạy cũng là biện pháp được 100% cán bộ quản lý đưa ra, coi đó thực sự cần thiết để quản lý tiến độ giảng dạy của GV và việc thực hiện nền nếp dạy học của họ. Tuy nhiên, biện pháp này mặc dù đã được tất cả giáo viên nhà trường thực hiện nhưng chỉ mang tính hình thức, tính khách quan chưa cao, nặng về đánh giá hơn là phân tích bài dạy về các mặt theo yêu cầu đánh giá của Bộ Giáo dục & Đào tạo. - Thường xuyên kiểm tra sổ báo giảng cũng là biện pháp được 100% cán bộ quản lý nhà trường coi trọng. Tuy nhiên mức độ thực hiện tốt chưa cao có (32,6%). Còn có 14,9% GV nhận định nội dung này thực hiện chưa tốt. - Biện pháp thu thập thông tin phản ánh của đồng nghiệp, CMHS và HS mặc dù không phải là một qui định thành văn nhưng lại đem đến một hiệu quả rất lớn cho Hiệu trưởng, thông qua các thông tin phản hồi, Hiệu trưởng có những biện pháp nhắc nhở và xử lý kịp thời những thiếu sót, quản lý thích hợp hơn giờ lên lớp của GV nói chung và của từng GV nói riêng. Qua điều tra, có 51,1% GV nhận định nhà trường đã thực hiện tốt, 34% chưa thực hiện tốt, 14,9% chưa thực hiện. 2.3.1.3. Quản lý việc thực hiện chương trình giảng dạy Chương trình giảng dạy là văn bản pháp qui của Ngành Giáo dục& Đào tạo ban hành, tất cả các trường phải tuân thủ nghiêm túc mà người trực tiếp thực hiện là đội ngũ GV. Hiệu trưởng không chỉ căn cứ vào đó để hướng dẫn GV thực hiện đủ nội dung chương trình, không được cắt xén, dồn ép mà còn lấy đó làm căn cứ để kiểm tra, đánh giá GV có nghiêm túc trong công tác giảng dạy hay không. Việc quản lý chương trình dạy học phải đảm bảo sao cho: Nhà trường phải dạy đúng, đủ số môn theo qui định; GV dạy đủ tiết/tuần/môn/; GV dạy đúng, đủ số tiết/bài. Căn cứ vào chương trình giảng dạy, GV lập kế hoạch giảng dạy từ đầu mỗi học kỳ, sau đó được GV cụ thể hoá ở sổ báo giảng hàng tuần, sổ báo giảng được ghi ngay từ sáng thứ hai hàng tuần. Việc xây dựng lịch báo giảng của GV giúp cho Hiệu trưởng nắm được tiến độ chương trình giảng dạy, thuận lợi cho việc kiểm tra, dự giờ đột xuất và định kỳ. Tại Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội, Hiệu trưởng qui định các tổ trưởng chuyên môn kiểm tra GV của tổ mình, sau đó báo cáo trực tiếp và bằng văn bản tiến độ thực hiện chương trình của các GV hàng tháng. Cứ định kỳ 2 lần/học kỳ, Ban chuyên môn (gồm Ban giám hiệu, Ban thanh tra nhà trường, Tổ trưởng chuyên môn) lại kiểm tra việc thực hiện chương trình, các loại hồ sơ, giáo án của GV, ngoài ra Hiệu trưởng còn kiểm tra GV thông qua sổ ghi đầu bài của lớp, biên bản họp tổ nhóm chuyên môn. Khi xin ý kiến các cán bộ quản lý nhà trường về các biện pháp quản lý chương trình dạy học, tác giả thu được kết quả như sau: Bảng 2.14: Ý kiến đánh giá của cán bộ quản lý nhà trường và mức độ thực hiện , quản lý việc thực hiện chương trình giảng dạy STT Quản lý chương trình giảng dạy Nhận thức của cán bộ quản lý Mức độ thực hiện Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Làm tốt Làm chưa tốt Chưa làm 1 Tổ chức phổ biến cho giáo viên nắm vững và thực hiện đúng, đủ phân phối chương trình 80% 20% 0% 74,7% 20% 5,3% 2 Tổ chức cho giáo viên học tập các văn bản mới về bổ sung thay đổi. 60% 40% 0% 88,9% 11,1% 0% 3 Yêu cầu Tổ chuyên môn, giáo viên lập kế hoạch và kiểm tra, duyệt kế hoạch. 100% 0% 0% 95,3% 4,7% 0% 4 Kiểm tra hồ sơ giảng dạy của từng giáo viên 80% 20% 0% 68,4% 31,6% 0% 5 Kiểm tra hồ sơ theo dõi, đánh giá của nhóm tổ chuyên môn. 100% 0% 0% 85,4% 14,6% 0% 6 Có biện pháp xử lý giáo viên thực hiện chưa đúng theo phân phối chương trình. 40% 60% 0% 32,6% 54,7% 14,7% Sau khi tiến hành khảo sát, kết quả cho thấy việc tổ chức phổ biến cho GV nắm vững và thực hiện đúng phân phối chương trình được Hiệu trưởng đặc biệt chú trọng và thực hiện khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn một số GV thực hiện chương trình còn chưa nghiêm túc, có 20% GV khẳng định về vấn đề này. Khi xin ý kiến về biện pháp tổ chức cho GV học tập các văn bản mới về bổ sung thay đổi, 100% cán bộ quản lý rất quan tâm vấn đề này và kết quả triển khai thực hiện khá tốt, con số này được các GV đánh giá là 11,1% làm chưa tốt. Qua điều tra, 100% cán bộ quản lý đều triển khai yêu cầu tổ chuyên môn, GV lập kế hoạch của năm học, học kỳ. Điều này được GV đánh giá chưa tốt chiếm 4,7%. Qua điều tra, có phần lớn cán bộ quản lý cho rằng, việc kiểm tra hồ sơ giảng dạy của GV và kiểm tra hồ sơ theo dõi, đánh giá của nhóm tổ chuyên môn là rất quan trọng, vì có kiểm tra mới nắm bắt được thực tế giảng dạy, chương trình giảng dạy có đúng kế hoạch đặt ra hay không, họ đã tiến hành thực hiện và đạt kết quả khá cao. Tuy nhiên, một số GV đánh giá là họ thực hiện chưa tốt, thể hiện ở mức độ thực hiện trung bình đạt 14,6%. Lý do là có GV dạy chậm hơn so với chương trình, có GV dạy nhanh hơn so với chương trình. Một số GV trẻ, chưa có kinh nghiệm nên trong giờ dạy còn tham kiến thức, không điều chỉnh cho phù hợp nên kiến thức cần truyền đạt ở giờ trước chuyển sang giờ sau. Một số GV khác thì vì những lý do cá nhân mà nghỉ nhưng chưa kịp thời bố trí dạy bù. Một số GV dạy lấp giờ giúp đồng nghiệp nên dạy nhanh hơn so với phân phối chương trình. Khi phát hiện như vậy người Hiệu trưởng và CBQL cần phải có biện pháp uốn nắn kịp thời để hoạt động giảng dạy được diễn ra đúng tiến độ theo tinh thần chỉ đạo của toàn ngành, không để dạy dồn ép chương trình khiến các em học sinh phải lĩnh hội một lượng kiến thức lớn trong thời gian ngắn làm giảm hiệu quả học tập. Về biện pháp xử lý người thực hiện sai chương trình chưa được các Hiệu trưởng quan tâm đúng mức. Hình thức xử lý của họ mới chỉ là nhắc nhở, hoặc lấy đó làm căn cứ khi bình xét thi đua cuối học kỳ, cuối năm học… 2.3.1.4. Quản lý hoạt động của tổ chuyên môn Điều lệ trường trung học qui định tổ chuyên môn sinh hoạt 2 tuần/lần. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy về hình thức các trường vẫn duy trì nền nếp sinh hoạt đều đặn song còn mang tính chiếu lệ, nội dung sinh hoạt chưa sâu, chưa mang tính sư phạm đích thực, chủ yếu thiên về hoạt động hành chính. Bảng 2.15: Quản lý hoạt động của tổ chuyên môn S T T Quản lý sinh hoạt của tổ chuyên môn Nhận thức của cán bộ quản lý Mức độ thực hiện Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Làm tốt Làm chưa tốt Chưa làm 1 Chỉ đạo kế hoạch, nội dung sinh hoạt của tổ chuyên môn 60% 40% 0% 55,8% 44,2% 0% 2 Yêu cầu tổ trưởng chuyên môn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. 40% 60% 0% 42,1% 32,6% 25,3% 3 Yêu cầu Tổ trưởng chuyên môn báo cáo thường xuyên về nội dung và kết quả sinh hoạt 80% 20% 0% 79% 21% 0% Kết quả khảo sát được thể hiện ở bảng trên cho thấy, 60% cán bộ quản lý rất quan tâm chỉ đạo kế hoạch nội dung sinh hoạt của tổ chuyên môn nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong HĐDH của nhà trường và mức độ thực hiện của cán bộ quản lý được 55,8 % số GV đánh giá là tốt. Đa số cán bộ quản lý nghiêm khắc trong việc yêu cầu Tổ trưởng chuyên môn báo cáo thường xuyên về nội dung và kết quả sinh hoạt của tổ. Nhưng vẫn được khoảng 21% GV đánh giá ở mức trung bình. Biện pháp yêu cầu tổ chuyên môn tổ chức các hoạt động khác nhằm bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho GV được cho là cần thiết. Mỗi năm học, nhà trường thường tổ chức các cuộc thi cho học sinh như: em tìm hiểu kiến thức xã hội, em tìm hiểu kiến thức tự nhiên, Đoàn trường thì thành lập các câu lạc bộ : KHTN, KHXH, Tin Học, ngoại ngữ … Tuy nhiên các hoạt động đó không thường xuyên và chỉ phục vụ cho HS. Tóm lại, hoạt động của các tổ chuyên môn về thực tế còn nặng về công tác phổ biến những yêu cầu của nhà trường, những công việc mới của nhà trường cần triển khai thực hiện, nội dung sinh hoạt chưa phong phú, chưa đầu tư thỏa đáng về thời gian cũng như tâm huyết cho nội dung sinh hoạt chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, những phát kiến mới trong dạy học... 2.3.1.5. Quản lý việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học đối với giáo viên Căn cứ vào điều kiện thực tế của nhà trường, nhận thức đánh giá một cách khách quan về HĐDH của GV và hoạt động học tập của HS về công tác quản lý đổi mới PPDH của Hiệu trưởng. Đồng thời qua việc trao đổi, dự giờ, dự sinh hoạt chuyên môn xem xét các hoạt động phục vụ dạy và học như thư viện, thực hành thí nghiệm tại nhà trường tác giả nhận thấy: đa số ý kiến cho rằng việc đổi mới PPDH sẽ góp phần nâng cao chất lượng GD. Thế nhưng, trong thực tế nhiều GV ngại đầu tư vào soạn bài, sử dụng TBDH chưa thành thạo, những GV có tuổi nghề cao thì hạn chế về mặt tin học. Hơn thế nữa, việc đổi mới PPDH trong những năm gần đây chưa được Hiệu trưởng nhà trường quan tâm đúng mức, nhất là bồi dưỡng kỹ năng sư phạm chưa được tiến hành một cách thường xuyên gắn với công tác thi đua khen thưởng chưa kịp thời và đúng lúc. Theo quan niệm của một số GV có kinh nghiệm trong nghề một tiết học được coi là đổi mới khi thể hiện được 3 khâu: Không thể hiện sự đọc chép; Giao việc cho HS làm; Sử dụng đồ dùng dạy học. Như vậy trong việc đổi mới PPDH công việc đầu tiên của người GV cần phải đổi mới đó là khâu soạn bài. Khi tiến hành thực nghiệm tại tổ bộ môn lịch sử, tác giả đã dự một số giờ trên lớp, tuy đã có báo trước và các tiết đã có sự chuẩn bị trước, khi xem giáo án có trên 57,5% số GV có sử dụng hệ thống câu hỏi và hệ thống hoạt động của thầy và trò trong từng phần, mục. Nhưng kỹ năng soạn bài theo hướng phát huy tính độc lập, chủ động và sáng tạo của HS, kỹ năng soạn bài theo kiểu trò chơi sư phạm, kỹ năng soạn bài theo hướng dạy để HS tự học, còn rất mới hầu như chưa được sử dụng trong bài giảng. Việc dạy ở trên lớp của GV: Gần 50% các tiết dạy đều diễn ra theo cách cũ, thầy giảng, trò nghe ghi chép tái hiện. Thậm chí có những tiết dạy GV đọc những gì ghi tóm tắt trong SGK. Chưa tổ chức để các em thảo luận nhóm để phát hiện ra vấn đề , chưa rèn cho các em kỹ năng hợp tác với nhau… Xét về góc độ nhận thức với cán bộ quản lý nhà trường đều có nhận thức đúng đắn và cấp thiết về việc đổi mới PPDH, góp phần vào việc nâng cao chất lượng Giáo dục và Đào tạo. Thể hiện rõ nét nhất trong kế hoạch năm học khá chi tiết, kế hoạch họp Hội đồng hàng tháng cụ thể. Hiệu trưởng đã thể hiện rõ việc phân quyền cho Phó hiệu trưởng và TTCM điều hành hoạt động của tổ. Các TTCM đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện đổi mới PPDH, thể hiện qua các buổi sinh hoạt chuyên đề, thao giảng, dự giờ, rút kinh nghiệm rèn luyện các kỹ năng dạy học theo hướng đổi mới PPDH cho GV. Qua đó, về mặt nhận thức và thực hiện có thể đánh giá bước đầu cơ bản khá thuận lợi và có chuyển biến tích cực trong đội ngũ GV. Nhưng đổi mới PPDH đây là vấn đề mới và hết sức nhạy cảm, không phải ngày một, ngày hai có thể thực hiện được. Việc phân quyền, giao quyền cho Phó hiệu trưởng, TTCM của Hiệu trưởng đã có, thế nhưng thực tế trong các buổi sinh hoạt chuyên đề, hội thảo ngay chính TTCM đôi khi còn chưa hiểu hết. Chưa nói đến các buổi sinh hoạt chuyên môn còn nặng về hình thức, chưa đi vào chiều sâu, chưa trọng tâm vào những vấn đề thiết thực và cụ thể về đổi mới PPDH. Thường chỉ dừng ở chủ trương hoặc chung chung, nên dẫn đến nhiều hạn chế như: Chưa phát huy được tính sáng tạo, tích cực, chủ động, của HS, trong học tập HS chưa rèn được kỹ năng thực hành một cách vững chắc. GV chưa thực sự là người tổ chức, hướng dẫn HS học tập. HS chưa có PP học tập đúng đắn, thái độ động cơ học tập chưa rõ ràng. H

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNoi dung LV.DOC
Tài liệu liên quan