Luận văn Biểu tượng trong sáng tác của Vương Mông

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN . 1

LỜI CẢM ƠN . 2

MỤC LỤC . 3

MỞ ĐẦU. 5

1. Lí do chọn đề tài.5

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .6

3. Mục đích nghiên cứu .9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .9

5. Phương pháp nghiên cứu .9

6. Đóng góp của luận văn .10

7. Cấu trúc luận văn .10

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG. 12

1.1. Giới thuyết chung về biểu tượng .12

1.1.1. Khái niệm biểu tượng.12

1.1.2. Biểu tượng văn hoá .14

1.1.3. Biểu tượng nghệ thuật .15

1.2. Trung Hoa – biểu tượng truyền thống văn hóa .17

1.3. Vương Mông – biểu tượng sóng gió cuộc đời.19

CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA VÀ CHỨC NĂNG CỦA BIỂU TƯỢNG TRONG SÁNG

TÁC CỦA VƯƠNG MÔNG . 22

2.1. Ý nghĩa của biểu tượng .22

2.1.1. Biểu tượng chia li .22

2.1.2. Biểu tượng biến hóa .25

2.1.3. Biểu tượng hy vọng.36

2.1.4. Biểu tượng “hiện đại”.41

2.2. Chức năng của biểu tượng .43

2.2.1. Biểu tượng và kết cấu tâm lý.43

2.2.2. Biểu tượng và giọng điệu u mua .46

2.2.3. Biểu tượng và trò chơi tiếp nhận.48

CHƯƠNG 3: THỦ PHÁP XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG TRONG SÁNG TÁC

CỦA VƯƠNG MÔNG. 58

3.1. Biểu tượng và nhan đề tác phẩm.58

3.2. Biểu tượng và khả năng tạo nghĩa.634

3.3. Biểu tượng và thời gian ý thức .69

3.4. Biểu tượng và khả năng ảo hóa .77

KẾT LUẬN . 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 88

PHỤ LỤC . 100

pdf141 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 570 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biểu tượng trong sáng tác của Vương Mông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trạng thái nếu xét từ chính biểu tượng đó. Mở rộng trong toàn bộ tác phẩm, chúng tôi cũng nhận thấy điều đặc biệt: sự kết hợp các biểu tượng, biểu tượng phụ bổ sung ý nghĩa cho biểu tượng chính cũng đi theo chiều hướng: chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác và gặp nhau ở điểm chung: phát triển ý nghĩa nội dung tác phẩm. Trong sáng tác của Vương Mông, đối với truyện dài sẽ xuất hiện biểu tượng chính xuyên suốt, các biểu tượng nhỏ tập trung làm nổi bật biểu tượng chính. Sự cộng hưởng ý nghĩa các biểu tượng làm cho chủ đề được sáng tỏ, ý nghĩa tác phẩm được mở rộng. Biểu tượng phát triển ý nghĩa với bản thân như biểu tượng hồ điệp, nhóm biểu tượng mở rộng ý nghĩa trong toàn bộ tác phẩm như các biểu tượng trong Hồ điệp, Cáo xanh, Hoạt động biến nhân hình. Các truyện ngắn như Dải cánh diều, Mắt đêm, Tiếng mùa xuân, Sáu cây cầu trên đê mùa xuân tuy không tập trung nhiều biểu tượng để cộng hưởng 64 ý nghĩa nhưng chúng đều mang ý nghĩa mở, thể hiện thái độ lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống như Dải cánh diều với ước mơ bay cao, Mắt đêm với không gian bao quát tầm nhìn, âm thanh cuộc sống đổi mới trong Tiếng mùa xuân Lấy ví dụ về biểu tượng trung tâm hồ điệp. Biểu tượng này xuất hiện năm lần, ba lần trong phần Bản làng, một lần trong phần Lên đường và một lần ở phần Cáo biệt. Trong năm lần xuất hiện đó, lần thứ nhất hồ điệp xuất hiện trực tiếp nhắc đến tích Trang Chu: “Trang Sinh nằm mơ thấy mình hóa bướm nhẹ nhàng bay lượn. Đến khi tỉnh dậy, Trang Sinh cũng không biết bản thân mình là vật gì nữa. Lúc tỉnh là Trang Sinh, trong mơ là bướm, phải vậy chăng? Hay là lúc tỉnh là bướm, trong mơ là Trang Sinh? Ông ấy là Trang Sinh, trong mơ hóa thành Trang Sinh, hay ông ấy chính là bướm, chỉ trong mộng mới tự nhận mình là người, là Trang Sinh?” [79, tr.139] nhưng đây chỉ là diễn giải tích truyện. Lần thứ hai, nhân vật đã so sánh mình với cuộc đời đầy sóng gió. Hóa thân nhiều lần, Trương Tư Viễn tưởng mình như con bướm trong giấc mộng Trang Chu, mấy lần biến hóa: “Ông cũng là một con bướm nhưng không bay lượn [...] Một cán bộ Bát lộ quân luồn rừng xuyên núi hóa thành nhà lãnh đạo, nhà cầm quyền hiển hách quyền uy rồi lại hóa thành một bia bắn sống để cho quần chúng cách mạng xô đi đẩy lại, rồi hóa thành tên tù cô đơn, cuối cùng hóa thành con bướm hiu quạnh vì bị bỏ quên. Ông có thể chịu đựng nổi mấy lần biến hóa đó không?” [79, tr.140]. Lần thứ ba, Trương Tư Viễn muốn như cánh bướm vượt thoát khổ nạn: “ông chỉ mong sao mình biến thành bướm thật để từ ngọn núi tuyết phủ kia bay sang thung lũng nước chảy rào rào, từ rừng đầy quả dại bay sang những ruộng bậc thang” [79, tr.142] Lần thứ tư, trong chuyến xe về bản làng, những chuyện xô bồ của cuộc sống khiến ông nghĩ về cuộc sống hiện tại: “Chuyện này đâu phải chuyện Trang Sinh mơ thấy mình hóa thành bướm hoặc bướm mơ thấy mình hóa thành Trang Sinh, mà là chuyện con trâu mơ thấy mình hóa thành máy kéo, hoặc máy kéo mơ thấy mình biến thành trâu vậy.” [79, tr.186] Lần thứ năm, cánh bướm xuất hiện thể hiện ước mơ bay cao, đó không còn là ước vọng thoát khỏi cuộc đời vạn biến mà là niềm tin về đất mẹ Trung Hoa, “Một 65 cánh hơi nâng cao, máy bay đang bay lượn để đạt tới độ cao dự định. Máy bay bay cao hơn bất kì một con bướm nào [] bất kể bay cao đến đâu, máy bay đến từ đất thì nhất định phải trở về với đất. Bất kể người hay là bướm thì cũng đều là con đất đai rộng lớn” [79, tr.211] Năm lần xuất hiện nhưng biểu tượng hồ điệp không chỉ minh họa, làm rõ tích truyện Trang Chu, mỗi lần xuất hiện biểu tượng này lại mang ý nghĩa khác, tác giả nói về thời hiện đại trong niềm tin tưởng đất nước. Đặt trong mối quan hệ ý nghĩa, ta thấy những lần xuất hiện đều mang ý nghĩa tịnh tiến, đều có sự phát triển về ý nghĩa: giới thiệu – biến hóa – vượt thoát – đời thường – niềm tin. Vì vậy, lấy Hồ điệp làm tiêu đề tiểu thuyết, Vương Mông đã gợi ra bao ý nghĩa. Đặt các biểu tượng trong toàn bộ tác phẩm ta thấy, biểu tượng trung tâm là giấc mộng hồ điệp biểu thị sự biến hóa đời người. Hai biểu tượng phụ cánh hoa và bánh xe chỉ cái chết của Hải Vân xuất hiện đầu tác phẩm biểu thị sự chia ly. Cuối tác phẩm, hai biểu tượng mưa táo và cây cầu mở ra không gian rộng lớn biểu thị ước mơ, khát vọng của nhân vật. Trong tác phẩm, Vương Mông có hai phần riêng dành cho sự tượng trưng đầy tính ẩn dụ: Mưa táo và Cây cầu: “Có lẽ hướng về bình đẳng, chất phác, tình bạn và một xã hội giàu có như mưa táo rơi đầy đất, hướng về sự công bằng, chính trực chung cho cộng đồng và đời sống đầy đủ đã tiềm ẩn trong những trái tim nhặt táo bé nhỏ thích huyên náo đó chăng?” [79, tr.195] hay “Những gì chúng ta mong mỏi, thỏa thuận, nợ nần hoặc làm tổn thương thì dần dần chúng ta cũng đã thực hiện rồi. Dù sao chúng ta cũng học được chút ít gì đó. Bà con ạ, táo ngọt hồng tươi rơi xuống như mưa” [79, tr.196]. Cơn mưa táo là niềm hy vọng hướng tới tương lai, một giấc mơ ngày mai tươi sáng đi trên cây cầu đầy vinh quang, “cây cầu đó kiên cố và thông với ánh mặt trời” [79, tr.214]. Đó cũng là ước vọng của nhà văn trước những dông tố cuộc đời, một sự chiêm nghiệm đầy ý nghĩa. Trong Cáo xanh, biểu tượng cáo với thuộc tính hai mặt lồng ghép với biểu tượng con đường thể hiện khát vọng tìm kiếm ý nghĩa bản thể cuộc sống của nhân vật Lư Sảnh Cô. Biểu tượng trung tâm là cáo xanh, biểu tượng con đường chỉ là biểu tượng nhỏ xuất hiện cuối tác phẩm nhưng lại giàu sức gợi. 66 Theo nghĩa gốc, con đường là lối đi dẫn bước chân đến nơi mà họ muốn. Mở rộng ra, con đường chính là cuộc hành trình tìm đến đích cuối cùng của đời người, đến với hạnh phúc, niềm vui, chân lý, Trong tác phẩm Hữu thể và thời gian, Martin Heidegger xem cuộc đời con người chỉ là một phác hoạ, muốn hoàn thiện bản thân, chúng ta phải biết vượt qua hoàn cảnh để kiếm tìm bản ngã. Văn học truyền thống phương Đông thường mô tả các cuộc hành trình về với thiên nhiên như biểu tượng tìm kiếm ý nghĩa (hành trình Shimamura trong Xứ tuyết trở về thiên nhiên nguyên sơ; hình ảnh con đường trong các vở kịch của R. Tagore như Thầy tu khổ hạnh, Nhà bưu điện, Dòng thác; Cao Hành Kiện với Linh Sơn). Như vậy, có thể xem Lư Sảnh Cô đang trong hành trình tìm kiếm bản thân, tìm ý nghĩa cuộc đời và ý nghĩa đích thực cuộc sống. Dù tài năng được đón nhận và trở thành nhà văn nổi tiếng nhưng Lư Sảnh Cô lại chọn lối sống ẩn dật, thoát khỏi cuộc sống tầm thường bằng cách luyện khí công. Hình ảnh khe Hồ Ly, nơi Sảnh Cô tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình hiện ra với không gian đậm chất kì ảo: Từ Bao nguyệt lâu đi vòng ra sau núi có một con đường nhỏ ngoằn ngoèo lên cao, thế núi chênh vênh, vách núi xô nghiêng, sau đó chỉ còn khe cạn, dưới khe cạn là đá cuội, người ta đặt tên là khe Hồ Ly, tương truyền rằng xưa kia có rất nhiều cáo và những câu chuyện li kì về cáo. Đi theo khe núi đầy đá cuội ngược lên có con cáo già cao to và có phép thần thông. Trong lịch sử có nhiều người muốn lên để thấy Hồ Ly tinh một lần nhưng không phải lên nửa chừng rồi sợ thì cũng bỏ mạng nơi rừng sâu. Thanh Hồ nghe kể rất thích thú, cô men theo khe Hồ Ly vào rừng đêm khuya. Sau này, cô viết tác phẩm cuối của cuộc đời Nguyệt Hồ nơi núi thẳm, từ bỏ con đường sáng tác văn chương. Nhiều lần, cô nằm mơ thấy mình vái lạy dưới trăng, vài năm sau, cô luyện khí công, biết biến hình, cưỡi mây đạp gió. Thanh Hồ đã trở thành con cáo xanh với bao nỗi niềm cay đắng. Trong Hoạt động biến nhân hình, nhân vật Nghê Ngô Thành sống trong ngôi nhà được miêu tả như nhà tù. Biểu tượng nhà mở rộng ra là chế độ phong kiến khiến nhân vật cảm thấy bức bối trước làn sóng phương Tây du nhập: “Nghê Ngô Thành bước vào nhà cửa của mình mà như đi vào hầm chứa băng. Chẳng lẽ anh ta đang đi vào một thế giới chết chóc? Sau cơn điên cuồng giận dữ kia, trong sân không còn 67 một chút sinh khí nào nữa [] Những cái chén uống trà trên bàn đọng lại bao nhiêu cặn trà từ bao nhiêu hôm trước. Dưới đất cũng bao nhiêu ngày chưa hề quét. Trên giường có cả một lớp bụi. Cảm giác chết chóc tĩnh lặng khiến anh ta phát rủn người” [80, tr.190]. Nhân vật rơi vào vòng rối ý thức bản thân, sự giằng xé giữa hai làn tư tưởng Đông Tây khiến nhân vật rơi vào bi kịch không lối thoát. Vì vậy, biểu tượng ngôi nhà tuy không phải là biểu tượng trung tâm nhưng sự kết hợp với biểu tượng con rối đã mở rộng ý nghĩa: sự giao thoa gìn giữ nét văn hóa truyền thống hay tiếp thu thành tựu một cách máy móc. Điều đáng lưu ý là tiểu thuyết này cũng dành trọn những chương cuối cùng nêu kết thúc cho số phận các nhân vật. Nghê Ngô Thành sống trong những năm tháng khó khăn, bản thân ông muốn thoát khỏi chế độ phong kiến đang kìm kẹp gia đình nhưng không được, hạnh phúc tan vỡ. Sau này, ông tham gia Cách mạng và sống cuộc đời không hối tiếc. Cách mạng đến mang theo những đổi thay, tầng lớp tư sản như mẹ vợ và chị vợ lâm vào cảnh lao đao nhưng hơn hết còn Nghê Tảo, bạn của tác giả sẽ là những trí thức mới thay đổi xã hội. Như vậy, những biểu tượng trong sáng tác của Vương Mông phần lớn tồn tại trong thế phát triển ý nghĩa với bản thân nó hoặc cộng hưởng với các biểu tượng khác đặt trong tác phẩm. Hệ thống bốn biểu tượng chính mà chúng tôi đã phân chia: Biểu tượng chia ly => Biểu tượng biến hóa => Biểu tượng hy vọng => Biểu tượng “hiện đại” là sự phát triển ý nghĩa của biểu tượng. Trong đó, biểu tượng biến hóa (con rối, con cáo, hồ điệp) là nơi tập trung những thủ pháp nghệ thuật mới mẻ với khả năng triển khai ý nghĩa sâu sắc. Trong tác phẩm của Kawabata, phương thức tạo nghĩa các biểu tượng theo hướng tương phản, đối lập thể hiện ý nghĩa trong chiều hướng phai phôi. Với tác phẩm của Vương Mông, những biểu tượng mang trong mình ý nghĩa lồng ghép thường kết thúc theo chiều hướng tịnh tiến với không gian mở, kết thúc tác phẩm nhân vật hướng về tương lai dẫu quá khứ đầy biến động. Nếu cảm thức thẩm mỹ của Kawabata luôn hướng tới cái đẹp và buồn thì ở Vương Mông lại hướng tới cái buồn nhưng hy vọng. Cuộc đời Kawabata nhiều thăng trầm hòa quyện cùng nền văn hóa Phù Tang luôn đem đến cho tác phẩm sắc thái thương cảm. Ở Vương Mông, tinh thần Cách mạng cùng tư tưởng Lão Trang khiến 68 nhà văn luôn tin vào cuộc sống. Bản thân Vương Mông trong tác phẩm Triết học nhân sinh của tôi đã nói: “Cảnh ngộ luôn luôn biến đổi [...] Thực ra sự biến đổi đó là rất bình thường [...] Mọi biến đổi đều có cái giá của chúng [...] Sự biến đổi của sự vật thường nối tiếp nhau, nghịch cảnh là sự chuẩn bị cho thuận cảnh, thuận cảnh là tấm đệm cho nghịch cảnh, trong thuận cảnh có thể đã ẩn chứa nhân tố của nghịch cảnh, trong nghịch cảnh có thể đã tích lũy nhân tố cho thuận cảnh” [82, tr.242-243], “Người ta ai cũng có cơ hội của mình, cũng có trở ngại cho mình; có vô thường và cũng có hữu thường riêng của mình, có cơ may xuôi buồm thuận gió và cũng có vận ách của mình. Chúng ta hãy đối xử với những biến hóa trong cảnh ngộ của mình bằng thái độ thông minh hơn, lý tính hơn” [81, tr.263]. Nhân vật Trương Tư Viễn trải qua khó khăn và nhận ra: “Tất cả những thứ đó đến gõ cửa tâm linh của mỗi người, dù rằng vết thương đau đớn làm một số tâm linh nào đó đã rạn nứt như mặt trống vỡ, nhưng rồi vẫn phát ra một chút âm vang, cho người ta một chút hy vọng [...] Ông đã quen lạc quan và đầy hy vọng. Trong mùa xuân này, ông lại tràn trề dự cảm về một sự chuyển biến nào đó” [79, tr.153]. Bản thân Vương Mông cùng gia đình đã trải qua mười sáu năm cơ cực ở vùng biên cương trước khi nhà văn được gỡ bỏ tội danh phần tử phái hữu, trở nên nổi tiếng trên văn đàn. Những nhân vật của ông dù trong khó khăn vẫn ánh lên niềm lạc quan, hy vọng ở cuộc sống mới. Việc sử dụng phương thức tạo nghĩa trong biểu tượng của Vương Mông do sự cộng hưởng nền văn hoá Trung Hoa với tinh thần khoáng đạt, niềm vui lạc quan: “Văn hóa Trung Hoa làm mê người ta ở chỗ đó: thú vui điền viên trong đời sống và phong hoa tuyết nguyệt trong nghệ thuật văn học” [29, tr.53], “Người Trung Hoa tìm hạnh phúc lý tưởng không phải trong sự phát triển tài năng của mình như người Hy Lạp mà trong một cuộc đời bình dị, thôn dã hài hòa với mọi người [29, tr.59],“người Trung Hoa tuyên bố một cách rất minh bạch rằng nội dung chân thực của đời sống là tìm cái vui trong cuộc sinh hoạt bình dị, hòa hài với gia đình và xã hội” [29, tr.53] Như vậy, bản thân việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật này đã thể hiện nhân cách người con Trung Hoa trước muôn trùng sóng gió vẫn lạc quan, yêu đời, tràn đầy niềm tin vào cuộc đời mới. 69 Biểu tượng trong sáng tác của Vương Mông mang sắc thái thẩm mỹ riêng không trùng lắp với bất kì nhà văn nào khác. Sự tạo nghĩa biểu tượng luôn theo chiều hướng tịnh tiến, phát triển ý nghĩa không chỉ ở bản thân biểu tượng mà còn trong toàn bộ tác phẩm cũng như toàn bộ hệ thống sáng tác. Phương thức tạo nghĩa theo chiều hướng nối kết, phát triển góp phần không nhỏ trong việc thể hiện nội dung tư tưởng. Sự tồn tại cùng lúc những biểu tượng với thế phát triển ý nghĩa là nét thú vị trong sáng tác của nhà văn. 3.3. Biểu tượng và thời gian ý thức Lỗ Khu Nguyên trong mục “Quan niệm văn học của tôi” từng viết: “Xuất phát từ đặc tính của bản thân văn học, tôi cho rằng, giá trị của văn học là ở chỗ “can dự” vào đời sống tâm linh của con người. Theo tôi, văn học là sự kiếm tìm cái đẹp nơi sâu thẳm tâm hồn con người, văn học là biểu hiện tự do của sự sáng tạo tâm hồn con người” [96, tr.14]. Trong hầu hết sáng tác của mình, Vương Mông luôn sử dụng biểu tượng như đầu mối gợi kỉ niệm, mở đầu câu chuyện, gợi dẫn dòng hồi tưởng về quá khứ, sự giao thoa những dòng cảm xúc khiến câu chuyện lồng ghép trong những biểu tượng khác nhau. Điều đó giúp cho việc thể hiện ý nghĩa luôn bắt nguồn từ trạng thái này sang trạng thái khác và hình thành kết cấu tâm lý. Trong Hồ điệp, trên chuyến xe về bản làng xưa, Trương Tư Viễn thấy cánh hoa, dòng suy nghĩ hướng ông trở về quá khứ, nghĩ đến cái chết của Hải Vân. Trong truyện, cuộc đời Trương Tư Viễn được tái hiện với những mảnh đoạn thời gian khác nhau, từng ký ức hồi tưởng trong ông xâu chuỗi thành câu chuyện. Đây là kết cấu 14 phần không theo trình tự nội dung câu chuyện: Phần 1: Giới thiệu chung (tr.87-tr.97): Trương Tư Viễn trên xe trở về thành phố, ông nhớ lại cảnh chia tay với bà con dân bản, với Thu Văn. Phần 2: Hải Vân (tr.97-tr.116): Hồi tưởng lại lần đầu tiên gặp gỡ Hải Vân, cuộc sống hai người từ hạnh phúc đến đổ vỡ. Phần 3: Mỹ Lan (tr.116-tr.118): Mỹ Lan đến với Trương Tư Viễn như có sự sắp đặt từ trước, ông mơ hồ cảm nhận được sự bất thường của Mỹ Lan. Phần 4: Biến đổi (118-126): Trương Tư Viễn bị quy là phần tử phản Cách mạng, chịu bao tủi nhục, ê chề, bị mọi người xa lánh. 70 Phần 5: Đông Đông (tr.126-tr.136): Trương Tư Viễn nhớ lại hình ảnh bé Đông Đông ngắm mưa, những kỉ niệm khi ông đến gặp con sau khi ông và Hải Vân chia tay. Sau này lớn, Đông Đông có ý né tránh gặp bố, khi ông bị quy là phần tử phản cách mạng, Đông Đông tát bố ba cái. Hải Vân tự tử, Mỹ Lan rời bỏ ông. Phần 6: Phán xét (tr.136-tr.138): Trương Tư Viễn tự vấn lương tâm khi cho rằng mình có lỗi rất nhiều trong cái chết của Hải Vân. Phần 7: Bản làng (tr.139-tr.149): Trương Tư Viễn đến sống tại bản làng nơi Đông Đông làm việc, hai bố con dần dần hiểu nhau. Phần 8: Phục chức (tr.149-tr.165): Trương Tư Viễn được phục chức, được mời về thành phố, bạn bè lại quay về muốn thân thiết với ông, Mỹ Lan ngỏ ý muốn quay về nhưng ông kiên quyết chối từ. Phần 9: Thu Văn (tr.165-tr.172): Thu Văn cứu Trương Tư Viễn khi ông ngất xỉu, bị té trong cơn mưa, trực tiếp chăm sóc cho ông, đồng thời giúp hai bố con hòa giải, ông và Thu Văn càng ngày càng thân thiết với nhau thông qua những buổi trò chuyện. Phần 10: Lên đường (tr.172-tr.188): Trương Tư Viễn trở về thăm lại bản làng với bao cảm xúc, kỉ niệm với tư cách là bác Trương sau khi phải trải qua chặng đường dài gian khổ để tới được bản làng. Phần 11: Mưa táo (tr.188-tr.199): Trương Tư Viễn đến bản làng, nhớ lại cảnh xưa, người xưa, được bà con thôn xóm đón tiếp nồng hậu nhưng vẫn thân mật, gần gũi như ông gần chục năm hồi trước khiến ông cảm thấy hạnh phúc đến nao lòng. Cuộc sống bà con nay đã đổi khác, phát triển hơn, tiện nghi hơn. Ông mong muốn sẽ cống hiến sức mình để bà con có thể đón những cơn mưa táo – cơn mưa của hạnh phúc. Phần 12: Khoảng cách (tr.199-tr.202): Đông Đông từ chối theo Trương Tư Viễn về thành phố vì muốn tự lập và hứa sẽ thường xuyên vào thành phố thăm ông. Phần 13: Cáo biệt (tr.203-tr.211): Trương Tư Viễn ngỏ lời nhưng Thu Văn từ chối không về cùng ông, chị mong ông toàn tâm, toàn ý với công việc, động viên ông hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và nhà nước giao phó. Sau một tuần ở bản làng, thư kí đến đón ông, ông cáo biệt bà con để trở về thành phố. 71 Phần 14: Cây cầu (tr.211-tr.215): Trở về với cuộc sống hiện tại, Trương Tư Viễn nguyện cống hiến sức mình phục vụ cho đất nước. Một ngày làm việc mới đang chờ ông. Tác phẩm không phải là sự tiếp nối của thời gian vật lý mà là thời gian của tâm trạng, của dòng hồi tưởng. Trải qua những thăng trầm sóng gió, Trương Tư Viễn nhận thấy cây cầu trong sự tiếp nối từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, ở đó luôn có sự tồn tại giữa sống và chết. Chính việc đảo ngược không - thời gian cùng sự xuất hiện của biểu tượng mà người đọc hình dung câu chuyện trong sự đan xen tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn. Trong Chiếc lá phong, từ hình tượng chiếc lá phong mà anh hồi tưởng về quá khứ, sống giữa kỉ niệm đẹp với mối tình thời sinh viên với chị. Câu chuyện được hiện lên thông qua dòng ý thức nhân vật và lá phong là sợi dây gợi dẫn dòng suy nghĩ. Chị trở về khi anh có gia đình. Cuộc gặp gỡ giữa ba nhân vật khiến câu chuyện đậm tình người. Quá khứ trở về trong anh khi những chiếc lá phong đỏ rực bầu trời, kỉ niệm chảy tràn trong anh những kí ức xa xưa. Với anh, chiếc lá ấy là nơi lưu giữ một thời tuổi trẻ, anh không rõ lí do vì sao chị xa anh mãi mãi nhưng anh vẫn giữ cho mình kí ức không phai nhòa. Câu chuyện tình yêu với bao cảm xúc trữ tình, những hồi ức suy ngẫm đưa người đọc cùng cảm nhận mối tình dẫu thoảng qua nhưng còn đẹp mãi. Cùng với tác phẩm Say nắng của Bunin hay Người đàn bà có con chó nhỏ của Chekhov, Chiếc lá phong vẫn đọng lại nơi người đọc tình người trong sáng, tình yêu thuần hậu, giản dị và thanh tao. Trong tác phẩm, câu chuyện của “anh” và “chị” không phải đi theo đường thẳng mà có sự vận động, dung hợp giữa quá khứ và hiện tại tạo thành hai tuyến đường đối chiếu, so sánh với nhau. Như vậy, câu chuyện tình yêu là sự trở về quá khứ bằng những chuỗi kỷ niệm, là dòng chảy của suy nghĩ và tình cảm trong sự hồi tưởng thông qua hình tượng chiếc lá phong. Truyện Dải cánh diều miêu tả cuộc gặp gỡ của Giai Nguyên và Tố Tố. Câu chuyện được phát triển thông qua hoạt động tâm lý của Tố Tố khi gặp gỡ người yêu chứ không kể theo tuần tự chi tiết. Những mẩu đối thoại, độc thoại hay sự thay đổi không gian đều thông qua hoạt động ý thức của nhân vật. Tác phẩm phơi bày vết thương tinh thần và hiện thực đầy mâu thuẫn do “cách mạng văn hóa” gây nên, phê 72 phán hủ tục còn tồn tại trong xã hội hiện đại khiến cho đôi bạn trẻ không có chỗ để hẹn hò. Từ biểu tượng cánh diều, dòng ý thức của nhân vật được bộc lộ rõ nét, cánh diều như khát vọng của lớp người mới với ước mơ về ngôi nhà hạnh phúc của cả hai, ước mơ về con đường đại học, con đường ấy trải rộng, bay cao theo cánh diều. Thế giới tinh thần của Nghê Ngô Thành là những tháng ngày đau khổ, nhà văn dường như nhập vào nhân vật để kể lại những dằn vặt suy nghĩ của nhân vật: “Lại còn công việc, lại còn tiền lương, lại còn triết học, lại còn chính trị, lại còn kháng Nhật, lại còn sức khỏe, lại còn tình yêu mà anh ta luôn khao khát nhưng căn bản là không thể có. Lại còn tiền nợ và tiền chịu ở khắp nơi. Lại còn lối thoát, sự lựa chọn về nay từ sau, con đường sống từ nay về sau. Tất cả đều là một mớ hồ đồ, một màu đen kịt. Thế giới rộng mênh mông nhường ấy, mà chẳng có một con đường cho anh ta đi thông ra được, tất cả những tư tưởng cao thượng kia, anh ta có thực hiện được không? Tất cả những lối sống cẩu thả thấp kém kia, anh ta liệu có an tâm được không? Ôisống không bằng chết, nhưng anh ta có chết cũng chẳng dám!” [80, tr.399-400] Ở Chekhov, các biểu tượng xuất hiện trực tiếp gắn liền với việc miêu tả nhân vật, sự việc hay không gian chứ ít thông qua dòng ý thức của nhân vật. Điều đặc biệt hơn, biểu tượng trong sáng tác của Vương Mông do chính nhân vật nhắc đến và nói về ý nghĩa của chúng (suy nghĩ của Tố Tố về cánh diều, Trần Cảo về mắt đêm, Trương Tư Viễn về mộng hồ điệp, cây cầu, mưa táo, Lộc Trường Tư, Trịnh Mai Linh suy nghĩ về chiếc cầu, nhân vật anh nghĩ về chiếc lá, Thanh Hồ suy nghĩ về hình ảnh cáo mà đổi bút danh). Trong chương 7, Thanh Hồ đã tự nghĩ về việc thay đổi tên gọi: Thế nào là Hồ? Là hồ ly, là con cáo. Cáo thì phải mềm dẻo, trơn tru, có thể phình to lên bằng con voi, có thể thu bé lại bằng con chuột. Cáo là rất tinh khôn, có thể hút tinh hoa của nhật nguyệt, có thể thâu tóm cái đẹp cái lạ của núi sông, có thế làm cho người ta yêu thích, có thể khiến người ta phiền lòng bực bội. Cáo là ranh ma khôn ngoan, có thể chạy hàng dặm mà không có tiếng động, có thể lên trời xuống đất mà không để lại dấu vết gì. Cáo là kì diệu có thể thay hình đổi dạng, có thể hóa mình đủ cách. Cáo lại thuộc phái nữ, nó xinh đẹp như hoa, nhỏ nhắn như làn mi, uốn éo nũng nịu như cô 73 gái, thần bí như ma quỷ. Cáo là giống hoang dã, nó điên lên như cơn lốc, nó luồn lọt vào vực thẳm khe sâu, nó cơ biến cười cợt, nó xảo trá độc ác như ong vò vẽ, ba con có thể đốt chết một con bò. Và Thanh Hồ, không phải chỉ có sắc lông xanh, mà là muốn nói nó luôn tắm mình dưới trăng, đồng thời cũng đại biểu cho một màu sáng xanh nhàn nhạt, một cặp mắt sâu thẳm, một khúc ngâm xa vời. Thanh Cô hay Thanh Hồ? [81, tr171] Như vậy, nhà văn để nhân vật của mình liên tưởng, suy nghĩ về quá khứ, từ đó biểu tượng xuất hiện nối kết mạch truyện. Cả Kawabata và Vương Mông đều sử dụng biểu tượng như phương thức gợi nhắc về quá khứ, chủ đề câu chuyện luôn hướng về dòng chảy của thời gian nhưng nếu ở Kawabata, biểu tượng luôn gợi nhắc quá khứ phai phôi, niềm tin mất mát, đau thương bởi chia ly và những cái chết thì dòng suy nghĩ trong tác phẩm của Vương Mông hướng đến niềm lạc quan, tin yêu và hy vọng dẫu cho các biểu tượng đó gắn liền với tiềm thức nhân vật, những suy ngẫm về quá khứ đau thương. Thời gian, không gian trong tác phẩm hoán đổi cho nhau tạo nên sự da diện trong cuộc đời nhân vật khiến tác phẩm đi theo chiều sâu nội tâm, vì vậy mở ra đường dây liên tưởng rộng lớn cho các biểu tượng. Chẳng hạn, từ biểu tượng con bướm biến hóa trong giấc mơ mộng ảo của Trang Sinh mà nhà văn đưa người đọc đến thực tại với cuộc đời biến hóa, thăng trầm của Trương Tư Viễn, cuộc đời ấy đang vinh quang bỗng chốc đầy bùn lầy rồi lại tỏa sáng chỉ trong nháy mắt: “Ông là “bác Trương”, sao bỗng nhiên biến thành Thứ trưởng Trương được nhỉ? Thật là một chuyện thú vị” [79, tr.91] hay: “Cũng như lúc đầu ngay lập tức ông trở thành thui thủi một thân, bóng hình làm bạn, không ai được tiếp xúc, thì bây giờ ngay lập tức ông lại trở thành hy vọng, thành trung tâm khiến mọi người nhìn vào” [79, tr.160]. Đây là thời điểm mà Trương Tư Viễn đã được giải án oan, ông nhìn lại quá trình biến đổi đời mình, tựa như con bướm kia biến hóa khôn lường. Như vậy, từ một cảm giác có tính chất ngẫu nhiên, nhà văn làm sống dậy cả một khoảng không-thời gian rộng lớn. Phải chăng “Cuộc sống mà không cần ngoảnh lại cân nhắc thì chẳng qua chỉ là cuộc sống vội vàng lướt qua. Đã không cần ngoảnh lại cân nhắc thì còn có vị gì nữa” [79, tr.266]. 74 Nhân vật Mai Linh trong Sáu cây cầu trên đê mùa xuân đọc mấy câu thơ thì người đọc cảm thấy bà đang hồi tưởng về quá khứ, ước vọng về tương lai khi đi qua những đoạn đời khác nhau : “Tôi mơ thấy bầu trời bát ngát, Tôi mơ thấy rất nhiều ngôi sao. Tự nhắc nhở đó chỉ là mộng ảo, Tỉnh giấc rồi vẫn nuối tiếc khôn cùng. [...] Tôi mơ trên sân cỏ trở thành anh hùng, Bóng không ném trượt, trăm quả trúng cả trăm Tỉnh giấc rồi vẫn thấy người bay lâng lâng Dù tự nhắc đó chỉ là mộng ảo. [...] Em đã mơ rất nhiều, Nhưng chẳng lần nào mộng thấy điều muốn mơ” [79, tr.266-267] Việc sử dụng thủ pháp dòng ý thức tạo điều kiện cho độc giả mở rộng trường liên tưởng, sự đối ứng giữa quá khứ và hiện tại thể hiện rõ nét. Qua hệ thống biểu tượng, nhà văn có điều kiện để nhân vật trình bày suy nghĩ, những chiêm nghiệm về cuộc đời trong sự đối chiếu từ xưa tới nay. Khi được hỏi về sự ra đời của những cuốn tiểu thuyết mới, Vương Mông nói rằng những tác phẩm đó “không tuân theo kết cấu của bản thân cuộc sống, mà là tuân theo hình ảnh phản chiếu của cuộc sống

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2014_05_26_7407239595_4371_1872377.pdf
Tài liệu liên quan