Luận văn Cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài (qua hồi ký cát bụi chân ai và chiều chiều)

PHẦN MỞ ĐẦU . 1

1. Lý do chọn đề tài . 1

2. Lịch sử vấn đề . 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6

4. Mục đích nghiên cứu 6

5. Nhiệm vụ nghiên cứu . 7

6. Phương pháp nghiên cứu . 7

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài . 7

8. Cấu trúc luận văn . 8

PHẦN NỘI DUNG . 9

Chương 1: Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài 9

1.1. Đặc điểm hồi ký của Tô Hoài 9

1.1.1. Khái niệm hồi ký 9

1.1.2. Nhà văn Tô Hoài và hành trình viết hồi ký của tác giả . 11

1.1.3. Đặc điểm hồi ký của Tô Hoài . 14

1.2. Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài . 16

1.2.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật 16

1.2.2. Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài . 19

1.2.2.1. Cái nhìn chân thực mang đậm dấu ấn lịch sử . 19

1.2.2.2. Cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời thường 25

Chương 2: Không gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài 39

2.1. Khái niệm không gian nghệ thuật . 39

2.2. Không gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài . 44

2.2.1. Không gian hiện thực cụ thể gắn với những sự kiện đáng nhớ 44

2.2.2. Không gian sinh hoạt đời thường . 57

Chương 3: Thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài 79

3.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật . 79

3.2. Thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài . 83

3.2.1. Thời gian lịch sử rộng mở đa chiều . 83

3.2.2. Thời gian đời tư đồng hiện chồng chéo . 91

KẾT LUẬN . 100

THư MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 104

pdf113 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3170 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài (qua hồi ký cát bụi chân ai và chiều chiều), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiện ở điểm nhìn khách quan, tác giả không phân tích hay bình luận mà để cho người đọc tự cảm nhận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 hiện thực cuộc sống qua các sự kiện. Không gian sự kiện này khiến cho người đọc có cảm giác lo lắng bởi cái chết dường như hiện diện ngay trên đầu mỗi người. Sự u ám và nguy hiểm bao trùm lên không gian đang tràn ngập bom đạn và thuốc súng. Những sự kiện lịch sử xã hội có ý nghĩa được nhà văn chắt lọc và đặt trong một không gian rất rộng mở. Các sự kiện tuy không được sắp xếp theo trình tự thời gian mà theo dòng hồi tưởng của tác giả nhưng nó đã góp phần quan trọng phản ánh bức tranh hiện thực cuộc sống một thời kỳ đầy biến động. * Không gian hiện thực cụ thể gắn với sự kiện đời tư Trong hồi ký của Tô Hoài ngoài không gian sự kiện lịch sử còn có không gian sự kiện đời tư, đó là không gian gia đình, của cá nhân có những thay đổi ảnh hưởng tới cuộc sống, tâm lý của nhân vật. Chúng ta đã được biết không ít chân dung nhà văn qua cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt của Tô Hoài. Một lần nữa người đọc lại có dịp tái ngộ với họ thông qua không gian hiện thực gắn với sự kiện đời tư. Kháng chiến nổ ra gia đình các văn nghệ sĩ phải tản cư tới những nơi an toàn: “Kháng chiến, Nguyên Hồng và Kim Lân đưa gia đình tản cư lên ấp Cầu Đen trên Nhã Nam. Các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Tạ Thúc Bình, cả nhà bác Ngô Tất Tố cũng lên quây quần trên cái đồi thấp bấy giờ còn hoang vắng. Những vùng ở Xuân Áng (Phú Thọ) hay Quần Tín (Thanh Hóa) cũng tụ hội lại những làng văn nghệ sĩ kháng chiến. Nghe kể họa sĩ Trần Văn Cẩn được xã cấp cả ruộng, anh đi cày rất thạo.” [25. 422]. Sự kiện tản cư thời kháng chiến là chuyện không còn xa lạ đối với chúng ta – người dân của đất nước bị xâm lược. Tản cư để tránh sự càn quét của quân giặc. Gia đình các văn nghệ sĩ đều phải tạm thời xa nơi sinh hoạt quen thuộc của mình. Họ đến những vùng còn hoang vắng, nơi đó dần dần trở thành những làng văn nghệ sĩ kháng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 chiến. Đến họa sĩ Trần Văn Cẩn xưa chỉ thạo bút lông để vẽ thì nay đã “cày rất thạo”. Sau khi hòa bình, không ít nhà văn chuyển về Hà Nội. Và Nguyên Hồng về Hà Nội là một sự thay đổi trong cuộc sống gia đình cũng như bản thân nhà văn. “Về Hà Nội, Nguyên Hồng và vợ con thuê cái gác hai một nhà phố Miriben cũ bên cạnh viện mắt gần chợ Hôm… Chỉ thêm trẻ con chạy ra chạy vào lít nhít rối cả mắt. Chị ấy đã xin được làm nhân viên cửa hàng quốc doanh sách, đứng bán ở quầy góc nhà bách hóa tổng hợp bây giờ, phía cửa đường Hàng Bài ” [25. 422]. Không gian trở nên chật hẹp hơn ngày ở “dưới bãi Nghĩa Dũng”. Mọi thứ thời ấy đều khó khăn. Và sau đó đã có rất nhiều sự kiện ảnh hưởng tới Nguyên Hồng và cuộc sống của gia đình nhà văn. Biến cố đã xảy ra. Sau hội nghị bất thường thảo luận khẳng định cơ cấu của Hội Nhà văn, Nguyên Hồng lại chuẩn bị quay trở về Nhã Nam – nơi nhà văn đã từng ra đi. Hãy xem không gian gian phòng của Nguyên Hồng: “Gian phòng vẫn bề bộn màn mùng như mọi khi. Nhưng để ý thấy thì khác. Mọi thứ đã được gói, buộc lại như dạo trước tôi đã quen mắt thấy sáng sớm các thứ trong các nhà sắp sẵn để quẳng ra bờ rào tránh máy bay. Tôi gật gù, nhưng thật cũng chưa hiểu ra như thế nào… Rồi một hôm nghe Kim Lân nói Nguyên Hồng đã dọn về Nhã Nam. Không biết vợ chồng con cái gồng gánh như hôm tưng bừng trở về Hà Nội hay là thuê xe ba gác đẩy.” [25. 492]. Cuộc sống ở Hà Nội không níu giữ được Nguyên Hồng. Một con người đầy lòng tự trọng và “quyết đoán” [25. 492] khiến Nguyên Hồng “nhất định không ở nữa” [25. 493]. “Thế là bỏ hết, lại lên Nhã Nam, ấp Cầu Đen, ấp Đồi Cháy, lại ở đồi như những năm tản cư… Trên quả đồi lưa thưa tre pheo còn lại lơ thơ mấy nhà người làng, cái trường học cấp 1, mái lợp nứa, tường trình ụp xụp, quạnh quẽ. Lại vẫn ở cái nhà như từ hồi chạy Tây mới tản cư. Nhà tường đất, bờ rào cắm xương rồng ông, vũng nước giếng đất trong khe dưới chân đồi. Xa xa, trước mặt, bắt đầu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 nhấp nhô những cánh rừng thấp trên Yên Thế Thượng. ” [25. 493]. Chính sự kiện lịch sử xã hội đã tác động đến sự kiện gia đình, đến tâm lý và hành động của nhân vật. Khi bị xúc phạm, bị tổn thương ông không ngần ngại bày tỏ thái độ: “- Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đ. chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam.”. Trong hồi ký của mình, nhất là Cát bụi chân ai ở các điểm không gian hiện thực cụ thể, đặc biệt là không gian sự kiện gắn với cá nhân, chúng ta thấy Tô Hoài không bao giờ quên người bạn vong niên Nguyễn Tuân. Nhà văn có phong cách “ngông” đã xuất hiện không ít lần, mỗi lần xuất hiện là một lần người đọc ngạc nhiên. Đây là hình ảnh của nhà văn Nguyễn Tuân khi còn trẻ: “Chuyến tàu hỏa từ Pnôm Pênh ra đến Poipet vừa chập tối. Bấy giờ vào mùa thu 1930 (…). Cuối hàng ghế có hai người trẻ tuổi (…). Chuyến tàu hỏa ấy rầm rập suốt đêm xuống Vọng Các. Họ không chợp mắt được. Hãy còn hồi hộp vì may mắn và tự khen đã khôn ngoan, khéo léo che mắt được mật thám. Thế là đã bình yên ra khỏi xứ Cao Miên. Đến nửa buổi, tàu vào thành phố Vọng Các. Hai người ngơ ngác giữa nơi chưa biết bao giờ. Xung quanh, trong ga lớn, những đám người Xiêm, người Tàu, người Việt hỗn độn, tíu tít. Bốn cảnh sát Xiêm áo quần trắng toát, mũ viền kim tuyến và một đám lính vác súng trường quây đến. Một người nói tiếng Việt hỏi: - Chúng mày là thằng Tuân, thằng Thiệp? Đúng tên cúng cơm. Lính cảnh sát biết rồi, chỉ hỏi làm phép thế. Lúng túng, chưa biết trả lời sao, đã bị thừng trói giật cánh khuỷu cả hai lại. Báng súng thúc vào lưng, đẩy đi bộ qua các phố đông tấp nập.” [25. 500, 505]. Trong dòng hồi tưởng của mình, Tô Hoài đã xây dựng lên một hình ảnh chàng thanh niên Nguyễn Tuân “mặt non choẹt, chưa chắc đã được hai mươi tuổi” [25. 502], “Chán ghét cuộc sống ngột ngạt, bế tắc của người dân ở một nước thuộc địa, Nguyễn Tuân luôn mơ tưởng đến những phương trời xa.” [17. 599]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 Chính vì thế mà ông đã tìm mọi cách để ra nước ngoài, và chuyến đi giang hồ ngoài vòng pháp luật của chế độ thực dân ấy đã khiến ông bị bắt ở Thái Lan cuối cùng thì bị đưa về giam tại nhà lao Thanh Hóa năm 1930. Tô Hoài đã lựa chọn sự kiện rất dặc biệt để bộc lộ cá tính của nhà văn Nguyễn Tuân. Cá tính ấy tạo nên cái “tôi” mang màu sắc riêng từ cái tôi của chủ nghĩa “xê dịch”. Tô Hoài tôn trọng sự thật. Ông ghi lại những sự kiện chân thực khi: “Ở Thanh Hóa, khi thôi bị quản thúc, Nguyễn Tuân ra Hà Nội, viết để sinh nhai và cho ra nhân vật nào cũng là nhân vật tôi.” [25. 519]. Thoát khỏi sự quản thúc, không “giang hồ” như trước nhưng “Trong sách cũng tương tự ngoài đời, người ấy tên là Nguyễn hay là Bạch cũng thế, trà tửu hậu chán chê rồi rời bỏ nơi ăn chơi, nhưng cũng không về nhà, bấy giờ nhà bác Nguyễn đã dời Thanh Hóa ra ở Ngã Tư Sở trên đất Mọc Thượng Đình quê hương.” [25. 519]. Chúng ta thấy được sự mâu thuẫn trong con người Nguyễn Tuân qua chi tiết rất thật này. Khi trở về với quê hương Nguyễn đã rơi vào vòng luẩn quẩn để rồi chán chường. Điều này biểu hiện rất rõ trong sáng tác của ông trước cách mạng tháng Tám. Luẩn quẩn, buồn bã, nhưng cũng có lúc xót xa và hơn hết chúng ta vẫn thấy một nhân cách, một tâm hồn trung thực chưa hẳn đã khép kín trước cuộc đời. Trong hồi ký Cát bụi chân ai, những bức thư của Nguyễn Tuân gửi cho Tô Hoài trong chuyến đi mấy tỉnh ở Tây Bắc để lại cho người đọc ấn tượng khó phai với cảnh sắc thiên nhiên vùng sơn cước, đặc biệt là không gian gắn với những sự kiện cá nhân của Nguyễn Tuân trong cảnh sắc thật đặc biệt. “Thư trước viết từ Simacai một ngày phiên chợ có nắng. Thư này viết sau ba ngày đi bộ liền 70km, dưới mưa, hôm trước mưa lũ to tắc suối phải vòng lên bản Mèo tránh lũ. Hôm trước mưa, hôm sau mưa, hôm sau nữa lại mưa nữa. (…). Người mình vẫn đang hâm hấp sốt, mấy hôm đi trong mưa vẫn sốt tiếp. Cao mang đi hết, phải nhờ địa phương tiếp cao cho mới rút đường Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 được như vậy. Mệt, khổ, nhưng hình ảnh lượm về giao thông bưu điện cũng không đến nỗi nghèo lắm. Đường dây Lào Cai như thế là căn bản tôi như tóm được đây rồi.” [25. 573]. Mặc dù Nguyễn Tuân luôn bị căn bệnh hành hạ “bộ xương đã buốt sẵn vì tê thấp mùa này” [25. 572] nhưng ông vẫn hăng hái đi và khám phá. Tất cả những gì nhà văn “thu lượm” được đều trở thành chất liệu cho các tác phẩm sau này của ông. Trong nhà giam tại Hỏa Lò, cuộc phỏng vấn giữa “chúng tôi” và một tù binh Mỹ tên là Giôn, người bang Ôhiô diễn ra thật đặc biệt. Tô Hoài miêu tả rất kỹ thái độ cũng như trạng thái cảm xúc của Nguyễn Tuân: “Nguyễn Tuân cười khẩy (…)”, “Nguyễn Tuân nói nghiêm nghị (…)”, “Nguyễn Tuân cười nhạt (…)”, “Nguyễn Tuân gõ gõ đầu tẩu thuốc. Đấy là cách lấy lại bình tĩnh. Thế là bực mình rồi. Những tiếng bộp bộp nặng nề của cái gạt tàn thuốc trong đêm thanh vắng, làm những vết nhăn trên trán Nguyễn Tuân dãn ra. Nguyễn Tuân nói, thong thả (…)”, “Nguyễn Tuân đứng lên, hầm hầm trỏ tẩu thuốc vào mặt Giôn (…)”, “Nguyễn Tuân lắc đầu nhè nhẹ: “Giết người mà lại nói con người phải yêu thương nhau! Không hiểu!””, “Nguyễn Tuân lừ đừ đứng dậy, giơ tay: “Nhắc lại này: bao giờ mày được về thì nhớ học lại địa lý. Không có hai nước Hoa Kỳ, không có hai nước Việt Nam. Nhớ đấy”” [25. 630, 631, 632]. Với giọng điệu trần thuật tự nhiên nhưng cũng rất “tinh quái” Tô Hoài đã cho người đọc thấy một Nguyễn Tuân đầy đủ sắc thái tâm trạng, cảm xúc trong một không gian rất đặc biệt. Tô Hoài đã chân thực khi nhận xét: “Nguyễn Tuân trầm mặc, rất chính trị và một vẻ ta đây. (…). Nguyễn Tuân lý lẽ và cứng cỏi.” [25. 632]. Không phải ngẫu nhiên Tô Hoài lại đặt nhân vật của mình vào không gian như thế. Trong không gian này Nguyễn Tuân đã bộc lộ thái độ, quan điểm rõ ràng của một con người bên này chiến tuyến với kẻ xâm lược. Với ngôn ngữ miêu tả rất “tự nhiên như hơi thở của cuộc sống” [40. 137] cùng với sự kiện hết sức đặc biệt Tô Hoài đã xây dựng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 một chân dung Nguyễn Tuân hoàn chỉnh, không chỉ là con người bình thường mà cũng là con người “cũng đương chính trị” [25. 632]. Con người đã từng say sưa với những chuyến đi ấy có những lúc ông đã từ chối không đi Pari, phải chăng vì “hai cái chân đã rỗng cả ống của con người vốn khỏe đi ấy gây khó dễ cho sự đi, xóa mờ cả tâm tình song hồ phương trời rồi.” [25. 661]. Có thể sự ra đi của con người tài hoa, “ngông nghênh, ngạo nghễ” ấy đã được báo trước. Trước khi đi Cát Bà “Tôi đến chào khoe với Nguyễn Tuân một chuyến đi còm nhưng thú vị.” [25. 662]. Và những biểu hiện của Nguyễn Tuân: “Cái gậy song Sapa vàng cánh gián, tiếng chống xuống mặt gỗ lưa thưa rời rạc. Đoán được bước chân khó nhọc, nặng nề. Nguyễn Tuân bước vào, mặt bơ phờ tía tím, không phải mặt rượu đỏ hồng.” [25. 662] đã cho thấy vẻ mệt mỏi của tuổi già và những chuyến đi. Con người ta không ai tránh được quy luật của cuộc sống: “Buổi sáng có người đến bảo Đào Vũ và tôi: - Đêm qua, nghe đài báo ông Nguyễn Tuân mất rồi. Tôi nghĩ như vẫn buổi tôi ngồi một mình ở nhà ông, nhưng Nguyễn Tuân đã nằm yên từ buổi sáng hôm tôi ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi! Ô hô! Ô hô!” [25. 663, 664]. Bộc lộ tâm trạng đau buồn từ sự kiện cụ thể này người đọc có thể cảm nhận được nỗi buồn thấm thía của tác giả trước sự ra đi về cõi vĩnh hằng của Nguyễn Tuân. Một sự kiện khi viết về nhà thơ Nguyễn Bính không thể không nhắc đến là sự kiện mất con. Tô Hoài đã gắn sự kiện này trong một không gian khắc nghiệt để chúng ta thấu hiểu nỗi đau của người bố mất con: “Hiền (con gái của Nguyễn Bính) bụ bẫm, phúng phính rồi chẳng bao lâu Hiền còm nhom, ghẻ lở, mụn nhọn ghê người. Ngày ngày bố ẵm vác Hiền trên một bên vai, như mèo tha con. Đến đâu, từng đám ruồi nhặng xanh xám đuổi theo. Một tối kia, bố rượu say rồi bế Hiền thẩn thơ ra phố. Đến ngã sáu Bà Triệu – ô hay, làm sao mà bao nhiêu tâm sự nước mắt nụ cười của người viết truyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 này, trong những năm ấy, cứ quẩn quanh chỗ cái dốc Hàng Kèn oan nghiệt thế nhỉ? Chợt nghĩ thế nào, hai tay bố Hiền giơ Hiền ra, đưa Hiền cho một người đàn ông đương đi tới.” [25. 432]. Không gian định mệnh – không gian ngã sáu Hàng Kèn, nơi đã diễn ra bao nhiêu vui buồn của tác giả và những người bạn của mình. Nơi chất chứa bao sự kiện lịch sử cũng như những sự kiện có liên quan đến cá nhân nhà văn. Và bây giờ không gian ấy gắn thêm một sự kiện nữa – một sự kiện đau lòng: Nguyễn Bính mất con. Tô Hoài đứng ở điểm nhìn khách quan để ghi lại sự thật này. Tác giả miêu tả xúc cảm, tâm trạng xót xa của Nguyễn Bính: “Nguyễn Bính thất thểu suốt đêm. Sáng ra, nhợt nhạt thẫn thờ bước giữa trống không.” [25. 432]. Hình ảnh thất thểu của Nguyễn Bính khiến người đọc vừa cảm nhận được nỗi buồn của người bố mất con, vừa cảm nhận được tâm trạng cảm thông chia sẻ của Tô Hoài trước nỗi đau mất con của bạn. Không gian sự kiện lịch sử xã hội hay không gian sự kiện có liên quan đến mỗi gia đình, cá nhân đều có sự hiện diện của tác giả. Tô Hoài luôn đặt mình ở điểm nhìn khách quan, đứng ngoài để miêu tả, ghi chép. Chính vì thế mà mỗi trang viết của nhà văn đều mang lại độ tin cậy cần thiết. Hồi ký là lối văn nói về chính cái tôi, nói về bản thân tác giả hoặc những gì mình chứng kiến cho nên trong không gian hiện thực gắn liền cá nhân nhân vật “tôi” xuất hiện với rất nhiều sự kiện. Đó là không gian của ngôi trường trong chuyến đi Hà Giang của tác giả cùng Nguyễn Tuân, Hoàng Trung Thông, Trọng Hứa với tâm trạng “Cái vui được đến một nơi chưa hề đến”: “ Tôi sang trường chơi với các thày giáo cô giáo – hồi ấy công tác diệt dốt và học chữ Mèo đương sôi nổi. Dưới huyện cán bộ Kinh công tác vùng cao tối nào cũng phải đến học chữ Mèo. Trên núi Vằn Chải, thày Hùng quê bên Thái Nguyên, cô Mai người Tày Bắc Quang với nhiều thày người Mông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 trong huyện, các thày Chứ, thày Páo, thày Chúng. Và cô giáo sinh Ly Chờ, cô gái xinh xinh bé bỏng quê Sà Phìn” [23. 580]. Sự kiện này là một trong rất nhiều các sự kiện khác liên quan đến nhà văn. Từ tâm trạng: “Cái vui được đến một nơi chưa hề đến” tác giả cho người đọc thấy rõ một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước – công tác diệt dốt ở vùng cao. Ở ngôi trường này, không chỉ có người bản địa mà còn có các thầy từ mọi vùng quê trong sự đồng lòng xây dựng phong trào ở vùng núi xa xôi của Tổ quốc. Trong hồi ký của mình, không gian cụ thể luôn gắn liền với những sự kiện có liên quan đến từng con người. Sau khi xảy ra việc Nhân Văn, Tô Hoài “đáp tàu xuống Thái Bình” [24. 31], “Tự nguyện hay không, tôi thấy tôi phải đi mới giải quyết được bế tắc cho mình.” [24. 31]. Tô Hoài đi cải cách ruộng đất ở các làng quê của Quảng Xương, Nông Cống, Hải Dương, rồi bây giờ là Thái Bình. Những chuyến đi đó khiến nhà văn thấm thía hơn và có cái nhìn chân thực hơn về con người và cuộc sống. Đi và được đi, đó cũng là niềm vui của người cầm bút. Nhưng cũng có lúc nhà văn dừng lại để chiêm nghiệm cuộc sống xung quanh. Đó là những năm tháng Tô Hoài tham gia làm công tác ở khu phố - nơi cư trú của gia đình tác giả. Nhà văn tham gia công tác ở khu phố với tất cả tấm lòng và sự nhiệt huyết. Ở đó có đủ loại công việc phức tạp, có đủ tầng lớp xã hội, đủ loại hạng người. Tham gia công tác khu phố Tô Hoài mới cảm nhận hết được nhiều điều phức tạp và rối rắm trong cuộc sống thường nhật của người dân. Mọi công việc, từ nhỏ nhất Tô Hoài đều tham gia không từ nan: “Trưởng ban đại biểu khối phố cũng như trưởng thôn ở xóm – một hình thức tự quản, nhưng công việc thì lại chẳng khác chủ tịch xã. Có lịch giao ban với tiểu khu, không được có con dấu nhưng cứ chứng nhận, xác minh, giới thiệu đủ thứ: đăng ký kết hôn; xin miễn phí cho người nghèo nằm nhà thương; mua bán nhà; đưa giấy gọi nghĩa vụ quân sự; mở lớp xóa nạn mù chữ, lớp chống tái mù; phụ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 trách vệ sinh, đánh bả chuột, phun thuốc muỗi; lập danh sách rồi lĩnh và phát tem phiếu lương thực cuối năm. Ôi chao, một đống việc phải mó tay vào. Có hôm đương họp, người chạy vào báo: phố bên kia cho người lấy phân trộm, xe thồ cứt thối khắp xóm. Thế là lại phải chạy sang.” [24. 200]. Vất vả là thế nhưng công việc ấy đem lại cho tác giả niềm vui, hơn hết là có thể hiểu được cuộc sống sinh hoạt của người dân thị thành vào những năm khó khăn, những năm kháng chiến. Như vậy, trong hồi ký của Tô Hoài không gian sự kiện có những nét đặc trưng riêng. Trong tiểu thuyết Miền Tây không gian sự kiện và không gian tâm lý hòa quyện không tách rời tạo nên tâm trạng phức tạp của nhân vật, hướng tới tâm trạng của nhân vật nhiều hơn. Nhân vật bà Giàng Súa trong tác phẩm này được tác giả tạo nên với tính cách và đời sống tinh thần rất riêng. Mỗi sự kiện xảy ra đều tác động đến tâm lý của bà Giàng Súa, khi lo lắng, suy nghĩ, khi buồn, khi vui. Mỗi khi nghĩ đến Tết, lòng bà lại náo nức bởi từ lâu mẹ con bà đã không biết đến Tết: “Từ lâu lắm, lũ con bà Giàng Súa nương náu trong rừng không biết Tết, chỉ mang máng cái Tết, vì vậy bao giờ nghĩ đến cũng thấy náo nức vô cùng” [26. 20]. Có những lúc bà Giàng Súa lại “nước mắt đầm đìa ” [26. 38] khi nghĩ đến cảnh sống tăm tối khổ cực của mình. Và từ khi chính quyền được thành lập, cuộc sống của bà thay đổi, tâm lý của nhân vật cũng thay đổi theo. Bà Giàng Súa sung sướng ngỡ ngàng bởi “Những điều mới lạ thật mới lạ. Bà Giàng Súa tin có điềm lành đến thì chắc bỏ được cái khổ. Những điều tốt lành đã đến, làm cho lòng người khô cạn bỗng dưng chợt vui như đầu năm thấy điềm con chim én về làm tổ trong mái nhà” [26. 46]. Như vậy trong tiểu thuyết Miền Tây sự kiện đều có những tác động không nhỏ tới tâm lý của nhân vật. Mỗi không gian sự kiện tạo nên những cung bậc tâm trạng khác nhau cho nhân vật. Không gian trong hồi ký của Tô Hoài là những không gian hiện thực gắn liền sự kiện lịch sử, đời tư để Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 người đọc nhận diện lịch sử và tái hiện chân dung nhân vật một cách chân thực và khách quan. Đến với hồi ký Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng hay Tuổi thơ im lặng của Duy Khán chúng ta càng thấy nghệ thuật khác biệt trong hồi ký Tô Hoài. Với Nguyên Hồng hồi ký là một chuỗi các sự kiện của gia đình, của chính mình. Ở đó nhà văn bộc lộ mọi cung bậc của nguồn cảm xúc: niềm vui, nỗi buồn, bất hạnh, khổ đau và niềm hạnh phúc. Cái “tôi” trong tác phẩm này là cái “tôi” tâm trạng, cảm xúc hướng nội. Chúng ta không thể quên được hình ảnh “nước mắt tôi đã ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ”, “cổ họng đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng” [6. 215] của cậu bé Hồng khi nghe cô kể về tình hình của mẹ, rằng mẹ tôi đã có em bé “(…)mẹ tôi ngồi cho con bú ở một bên rổ bóng đèn. Mẹ tôi ăn vận rách rưới, mặt mày xanh bủng, người gầy rạc đi, (…)” [6. 215]. Và nhất là niềm hạnh phúc khôn tả của một cậu bé cô đơn, tủi nhục sau bao ngày đằng đẵng xa cách bỗng lại được lăn vào lòng mẹ “Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. … Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng…” [6. 216, 217] để lại cảm xúc khó phai mờ trong lòng độc giả. Với Duy Khán, hồi ký Tuổi thơ im lặng là những kỷ niệm từ lúc tác giả được sinh ra cho đến năm mười lăm tuổi. Đó là tình cảm yêu thương, nỗi nhớ da diết cảnh vật làng quê, người thân của tác giả. Từ những con vật gần gũi, thân quen với cuộc sống như chó, mèo, cái cò, cái vạc, cái nông … hay người thân như chị Ngoãn, cô Phan, bà kép Hỉ, chú Ất … đến hình ảnh làng quê khi Cách mạng tháng Tám thành công: “Cờ đỏ bờ đê, đỏ cả cây đa đình, đỏ cả ngọn tre” [29. 87], những trận Tây càn: “Đạn veo véo qua đầu. Tất cả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 làng chạy lên núi, nấp khe suối. Làng đã bắt đầu cháy” [29. 92]. Tất cả các sự kiện, sự việc được tác giả nói tới với tấm lòng yêu mến quê hương bằng giọng điệu tự hào. Các nhân vật, sự kiện… được thể hiện theo lối “chấm phá” chỉ một vài chi tiết, nhưng gây ấn tượng thật mạnh – đọc một lần là không thể nào quên. Không gian sự kiện trong Cát bụi chân ai và Chiều chiều mang một đặc điểm khác. Sự kiện được tác giả hồi tưởng và tái hiện với thái độ khách quan và cách kể tỉnh táo: “Không lên giọng, không nhấn mạnh. Thậm chí không muốn bất cứ sự can thiệp nào của một ý chí chủ quan, nhằm xác định một “chủ đề tư tưởng” nên” truyện của Tô Hoài cứ tự nhiên mà thủ thỉ cái tiếng nói hồn nhiên của bản thân sự sống.” [32. 28], và “không cần thêm vào đấy một lời bình, một thái độ” [32. 384]. Do đó mỗi sự kiện trong hồi ký Tô Hoài là một bức tranh hiện thực và từng nhân vật bộc lộ khách quan trung thực đến hiếm thấy. Như vậy trong hồi ký của Tô Hoài không gian sự kiện mang một ý nghĩa đặc biệt. Không gian sự kiện giúp người đọc thấy được nhân vật với đầy đủ mọi phương diện, đặc biệt là tiến tới tiếp cận con người ở phương diện đời thường. Những biểu hiện bề ngoài trong mỗi sự kiện của nhân vật trong hồi ký chủ yếu là để làm nổi bật tính cách, tâm tư, tư tưởng, hành động của nhân vật đó. Tóm lại, trong hồi ký Tô Hoài, với cái nhìn chân thực mang dậm dấu ấn lịch sử, nó không những đem đến cho người đọc thấu hiểu những giai đoạn cách mạng cam go mà không gian sự kiện đời tư còn cho mỗi chúng ta hiểu rõ hơn tính cách, cuộc sống sinh hoạt của những nhà văn có tên tuổi. 2.2.2. Không gian sinh hoạt đời thƣờng Xuất phát từ đặc điểm của hồi ký và từ cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời thường của Tô Hoài, trong hai tập hồi ký Cát bụi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 chân ai và Chiều chiều không gian sinh hoạt rất đậm nét, thể hiện đặc sắc phong cách nghệ thuật của Tô Hoài. Không gian sinh hoạt đời thường là không gian đã được nhà văn tạo dựng từ các tập hồi ký trước, đặc biệt là hồi ký Cỏ dại. Từ cuốn hồi ký này không gian sinh hoạt đời thường luôn hiện diện và trở thành một yếu tố nghệ thuật không thể thiếu tạo nên phong cách nghệ thuật tác giả. Không gian sinh hoạt là nơi để nhân vật thực hiện các hoạt động sống. Nơi đó có thể là phòng ở, phòng làm việc, quán xá, đường phố, chuyến xe, làng quê v.v. Không gian sinh hoạt là không gian mà ở đó nhân vật bộc lộ mình một cách tự nhiên nhân bản nhất. Như chúng ta đều biết “Tô Hoài rất nhạy cảm với những cảnh sinh hoạt, những tập tục quen thuộc của từng vùng quê, từng gia đình, từng con người” [40. 36] nên trong hồi ký tác giả ghi lại rất nhiều những cảnh sinh hoạt của các bạn văn nghệ sĩ, những người nông dân … và của chính mình. Những cảnh sinh hoạt ấy tạo nên không gian rất gần gũi và giúp cho người đọc hiểu thêm về cuộc sống cũng như tính cách các nhân vật được tác giả nói tới. Trong tiểu thuyết Miền Tây, Tô Hoài miêu tả cuộc sống của con người vùng Tây Bắc qua hai không gian đối lập nhau: không gian ngột ngạt tăm tối của chế độ cũ và không gian tươi sáng của chế độ mới. Qua không gian xã hội ấy chúng ta nhận thấy hai cảnh đời trái ngược nhau của người dân Tây Bắc: khổ đau trong xã hội cũ và tươi vui, hạnh phúc trong xã hội mới. Nhưng với một cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời thường, ở hai tập hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều Tô Hoài đã xây dựng không gian mang dấu ấn riêng. Xuất phát từ sự gần gũi và thấu hiểu cá tính của mỗi bạn văn, Tô Hoài đã tạo dựng không gian sinh hoạt để đi sâu bộc lộ những mảnh đời, những tính cách riêng thật phong phú và đa dạng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 Không gian gia đình – căn phòng là một không gian tiêu biểu của không gian sinh hoạt. Ở đây mọi công việc, mọi diễn biến sinh hoạt của cá nhân được hiện diện rõ nét. Đây là không gian gia đình – căn phòng của nhà văn Nguyên Hồng được Tô Hoài nhắc tới nhiều lần trong Cát bụi chân ai: “Về Hà Nội, Nguyên Hồng và vợ con thuê cái gác hai một nhà ở phố Miriben cũ bên cạnh viện Mắt gần chợ Hôm. Nhớ những lần Nguyên Hồng rủ đến chơi nhà thường vào buổi chiều thứ bảy. Dựng xe đạp cái sân chung nhớp nháp nhà dưới rồi lên gác. Nhà một buồng lủng củng ba lô, tay nải. Chẳng khác trước kia ở dưới bãi Nghĩa Dũng. Chỉ thêm trẻ con chạy ra chạy vào lít nhít rối cả mắt. (…). - Ngồi vào đây lấy chỗ cho mẹ nó kê cái hỏa lò. Chả rán phải chén nóng tại chỗ mới hay. Nguyên Hồng lui cui dẹp quanh cho tôi ngồi tựa lưng vào tường trông ra chằng chịt dây điện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoc267.pdf