Luận văn Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương

MỤC LỤC

Trang

LỜI CẢM ƠN .1

MỤC LỤC.2

DẪN NHẬP.4

1. Lí do chọn đề tài .4

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .5

3. Đóng góp của luận văn .10

4. Phạm vi nghiên cứu.10

5. Phương pháp nghiên cứu .11

6. Kết cấu luận văn.11

CHƯƠNG 1: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRƯƠNG NAM

HƯƠNG. .13

1.1. Cảm hứng nghệ thuật – vùng thẩm mĩ riêng của nhà thơ .13

1.1.1 Cảm hứng nghệ thuật .13

1.1.2 Cảm hứng nghệ thuật – vùng thẩm mĩ riêng của nhà thơ .16

1.2. Cảm hứng nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương.22

1.2.1 Cảm hứng hoài hương.22

1.2.2 Cảm hứng thế sự.42

CHƯƠNG 2: HÌNH ẢNH TRONG THƠ TRƯƠNG NAM HƯƠNG.62

2.1. Hình ảnh thơ .62

2.2. Hình ảnh trong thơ Trương Nam Hương.68

2.2.1 Hình ảnh người mẹ.68

2.2.2 Hình ảnh tuổi thơ.81

2.2.2.1 Hình ảnh tuổi thơ gắn bó với đồng quê cùng những trò chơi 82

2.2.2.2 Hình ảnh tuổi thơ nghèo khó, thanh sạch.86

2.2.2.3 Hình ảnh tuổi thơ được đẫm mình trong ca dao, dân ca .91

CHƯƠNG 3: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRƯƠNG NAM HƯƠNG

.963.1. Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm thơ.96

3.2. Ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương .101

3.2.1 Dấu ấn của nhà thơ và chiếc bẫy chữ trong khu vườn ngôn từ.101

3.2.2 Ngôn từ thơ mang âm hưởng dân gian.113

3.2.3 Ngôn từ lạ hóa trong thơ Trương Nam Hương .119

KẾT LUẬN .129

TÀI LIỆU THAM KHẢO.134

TIỂU SỬ.140

pdf143 trang | Chia sẻ: phuongchi2019 | Lượt xem: 982 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ò trắng cất cánh tận trời xanh Song cửa sổ đọng tuyết Tây Lĩnh hàng ngàn năm Trước cửa muôn thuyền Đông Ngô đến đỗ. Thơ cất lên tiếng nói bằng nhạc điệu và hình ảnh, mà hình ảnh là mãnh liệt nhất. Thậm chí Buyphông quan niệm: Mỗi ý là một hình ảnh. Trong thơ, vì cảm xúc là vô hình, nên nó phải nhờ những điểm tựa hữu hình để tồn tại.Vì thế, hình ảnh xuất hiện rất nhiều để diễn đạt ý và cảm xúc. Ngôn từ phải giàu hình ảnh thì mới có thể tái hiện được cuộc sống tươi nguyên, sinh động, nghĩa là tạo dựng cho hình tượng một không gian, thời gian, nhịp điệu, sắc màu, sự kiện và quan hệ y như thật. Trong văn học, nơi mà nhà văn có thể thể hiện tâm tư, tài nghệ của họ chính là hình tượng nghệ thuật. Nhưng hình tượng thì nhất thiết phải qua cái hình để mà tồn tại. Có thể nhận thấy con đường đi của nội dung tác phẩm là đi từ chất liệu có thật trong thực tiễn, nhà thơ suy tư, xúc cảm, chuyển hóa thành hình ảnh riêng của mình, trong óc mình, trong tâm hồn mình, thành một hình ảnh có chọn lọc, có sắc màu chủ quan của nhà thơ. Các hình ảnh nghệ thuật này tác động vào trí tưởng tượng của người đọc thơ để họ lại liên tưởng, tái tạo nên một hình ảnh thơ theo sự rung cảm, sự thu nhận của chính họ. Hình ảnh nghệ thuật trong thơ ca luôn có xu hướng mang ý nghĩa vượt ra ngoài chính nó để biểu hiện những ý nghĩ chủ quan của con người, qua đó khơi nguồn tưởng tượng, khả năng nhận biết chiều sâu cuộc sống. Đúng như những luận điểm chủ yếu của I.A.Richards nêu trong cuốn Các nguyên tắc (1924): “Mặt cảm giác của hình ảnh bao giờ cũng có rất nhiều ý nghĩa. Cái mang lại sức mạnh cho hình ảnh không chỉ là tính sinh động của nó như của một hình ảnh, mà còn là khả năng có một mối liên hệ với cảm thụ cảm giác.[100,334] Như vậy có thể hiểu, hình ảnh trong thơ luôn có sự vận động, có tính miêu tả. Sự hoạt động này của hình ảnh gắn liền với khả năng của chính nó, đó là phần còn lại, là thị giác bên trong và sự tái tạo của một cảm giác. Hình ảnh không thể chỉ là chủ yếu trông thấy được. Hình ảnh trong thơ là hình ảnh có chiều sâu, có gốc rễ và có sự mở rộng. Hình ảnh có nét gần gũi hiển nhiên với ẩn dụ đến nỗi thực ra hình ảnh chỉ là một ẩn dụ phát triển một cách chi tiết. Chính vì thế màẩn dụ, so sánh và hình ảnh thường nằm trong mối quan hệ với nhau.Trên mảnh đất thơ hình ảnh có điều kiện xuất hiện rộng khắp, hình ảnh có khi là từ ngữ miêu tả, là biện pháp so sánh ẩn dụ, là những biểu tượng văn họcvới tư cách thể hiện những giá trị thông tin thẩm mĩ. Ngôn ngữ thơ vốn cô động, súc tích. Nhà thơ trong quá trình sáng tạo cần thiết lựa chọn những hình ảnh thơ cũng cô động, súc tích. Theo nhà nghiên cứu Lê Đình Kị thì sức sống của hình ảnh nghệ thuật “không tách rời với chất lượng của ngôn ngữ. Hơn đâu hết, ngôn ngữ thơ ca phải thật chính xác và gợi cảm Làm sao nói lên được điều mình muốn nói một cách đúng nhất, mạnh nhất, và tự nhiên nhất. Trong muôn vàn hình ảnh, phải chọn hình ảnh đắc nhất, trong mấy mươi từ có thể chọn, chỉ có một từ là đúng nhất, còn lại là gần đúng”[48,293]. Phải làm sao bằng dung lượng từ ngữ ít nhất mà miêu tả được cái hay nhất những cảnh, sự, tình, ý. Vì thế có những bài thơ chỉ đọng lại trong lòng người đọc một câu, một hình ảnh, thậm chí chỉ một từ gợi nhớ mà thôi. Khi được đưa vào trong thơ, những hình ảnh thực thường nhằm để nói đến cái khác ngoài nó. Bởi vậy, thế giới nghệ thuật bắt nguồn từ cái thực nhưng lại mang tính ước lệ cao với những mối quan hệ được dồn nén giữa ảo - thực, có lí – phi lí, làm cho hình ảnh thơ mang tính đa nghĩa, hàm súc, lời ít mà ý tứ khôn cùng. Thật không ngoa khi cho rằng hình ảnh là những viên ngọc quý trong văn chương. Bởi nhà thơ có tài là người biết truyền được cái rung động của mình bằng sự huyền diệu của màu và của tiếng. Muốn đạt được mục đích ấy, không gì bằng hình ảnh, vì hình ảnh khiến câu thơ trở nên linh động vô cùng. Hình ảnh chính là một trong những yếu tố góp phần tạo dựng cho cái tôi trữ tình một không gian - thời gian thể hiện, một nhịp điệu để vận động, một mối quan hệ đối với thế giới Hình ảnh còn có khả năng làm sống dậy những cái phi vật thể, trừu tượng, khó nắm bắt: Anh đi đâu đấy anh về đâu, Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm (Nguyễn Bính), liên kết với những cái vốn không liên hệ: Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên (Chế Lan Viên). Hình ảnh có khả năng giúp tái tạo và khái quát hiện thực trong dòng cảm xúc, diễn đạt bộ mặt tinh thần và chiều sâu tâm lí cái tôi trữ tình trên cơ sở kết hợp trí tưởng tượng, liên tưởng, suy tưởng, khái quát hóa, cụ thể hóa, đi sâu vào dòng ý thức nhân vật với các yếu tố tiềm thức, vô thức, tư duy. Hình ảnh do đó không chỉ là những hiện tượng đời sống chân thực mà còn là sự khách thể hóa những rung cảm nội tại để cái tôi nhìn thấy chính mình. Hơn thế nữa, hình ảnh còn là sự xác nhận một cảm quan của cái tôi về thế giới. Thơ hiện đại khao khát vẽ nên chân dung đích thực của tâm hồn mỗi cá nhân. Mỗi nhà thơ đều trên đường cố gắng thiết lập cho mình một số hình ảnh mang cá tính riêng, như một mô hình của thế giới tinh thần chính mình: lá diêu bông: bí ẩn của hạnh phúc, của cái đẹp (Hoàng Cầm); bàn tay, trái tim: sự sống và tình yêu (Xuân Quỳnh); Sự xuất hiện của một số hình ảnh về loài vật trong thơ hiện nay có thể xem là một biểu hiện của một cảm quan đặc biệt. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, hình ảnh loài vật có nhiều ý nghĩa. Đó là sự đối chiếu, xem xét lại khả năng nhân tính của con người, trở lại cái bản năng thô sơ vừa mang tính dữ, vừa có cái thiện của loài người, là sự đối lập giữa một thiên nhiên hoang sơ, hồn nhiên với nền văn minh công nghiệp qua Con bướm trắng ngủ quên trong sọt cỏ, rồi bay lên lạ lẫm ngơ ngác trước phố phường và kiệt sức lao xuống đường nhựa, với bữa tiệc ô trọc có đàn kiến bò qua bàn và bàn tay người như từng chùm chân gián cùng đáy bình thủy táng những linh hồn rắn Nguyễn Quyến thì rất hay so sánh mình với loài vật: Tôi như con thạch sùng từng len trong mái ngói. Tắc lưỡi hoài khi đêm cạn đêm vơi; Tôi- con ốc sên bò mê mải; Tôi như con rắn nước; Tôi ngơ ngác như chim và cung quăng như cá như là sự quay trở về với con người thiên nhiên cùng cái hoang sơ thanh khiết cũng như tất cả cái bụi bặm trong con người. Trương Nam Hương thì vẫn sử dụng hệ thống hình ảnh với những mô típ dân gian để góp phần khẳng định phong cách đằm thắm, duyên dáng của mình với: bèo dạt mây trôi, nón quay thao, hát lời quan họ, áo qua cầu gió bay, miếng trầu, chiếc khăn hoa lí, . Hình ảnh trong thơ góp phần diễn tả trạng thái và tinh thần mang những sắc độ của giác quan. Như cái cách mà Bôdơle từng viết trước đây: “Có những mùi hương..dịu dàng như tiếng kèn và xanh thắm như nội cỏ”. Sự kết hợp bằng cách chuyển đổi ấn tượng về âm thanh, màu sắc, mùi vịlà kiểu tư duy hiện nay gặp khá phổ biến. A.Warren cũng đề cập đến vấn đề này khi nói đến khả năng đặc trưng của hình ảnh là “chuyển từ lĩnh vực tình cảm này sang lĩnh vực tình cảm khác, ví dụ từ lĩnh vực âm thanh sang lĩnh vực màu sắc”[100,333] : Đêm ngọt ngào mà lại chát em ơi (Hữu Thỉnh); Trẻ nhỏ tiếng màu xanh, Xe điện tiếng màu vàng, Nhịp guốc đi đỏ màu mận, Còi ô tô đen nhánh màu than (Việt Phương); Hoa phượng vĩ chói lọi tiếng kèn đồng mùa hạ (Thanh Thảo); Mưa mỏng thế sao lòng tôi sóng sánh (Trần Mạnh Hảo)Như thế, bằng trí tưởng tượng, người ta có thể gắn cho một sự vật, một hiện tượng những thuộc tính vốn không thuộc loại của nó. Những yếu tố không cùng loại là các yếu tố được con người cảm nhận bằng giác quan khác nhau. Chính trí tưởng tượng đã cho phép giác quan này có thể tiếp nhận đối tượng của giác quan kia, và ngược lại, tạo nên sự cộng hưởng về cảm giác, làm biến đổi chất lượng, mức độ của cảm xúc. Sự đa dạng, phong phú của thế giới tinh thần cái tôi trữ tình cùng với khả năng phân tích đào sâu những ấn tượng cảm giác của cá nhân đã tạo nên một thế giới hình ảnh vô cùng, vô tận trong thơ. Việc nhận thức trừu tượng là cái chung của rất nhiều người, song khi nó đến với người ta bằng con đường tình cảm, thì nó sẽ gắn với ấn tượng và xúc động sâu xa của chính bản thân mỗi người. Cho nên, từ sự ấn tượng, cảm xúc mà hình ảnh sẽ được tích lũy, ấp ủ và dần dần định hình. Ý nghĩ, rung động, cảm xúc của con người về tên gọi có thể giống nhau, nhưng những tư tưởng sống động, nảy sinh từ những ấn tượng, rung động trực tiếp, thiết thân thì thiên hình vạn trạng. Một âm thanh trở nên có sắc màu: Tiếng ve màu đỏ, cháy trong vòm cây (Thanh Thảo). Màu sắc có cử động: Áo em trắng đi từ xa vắng lại. Thời gian đi xám mặt đỉnh đồng. (Nguyễn Duy). Mùi vị trở nên có hồn: Cái mùi hương như thức lại, như chờ (Vũ Quần Phương) Đặc biệt, sự chuyển đổi, kết hợp các thuộc tính vừa cụ thể, vừa trừu tượng là sự chuyển đổi mới mẻ: Chiếc lá rụng xuống hoàng hôn xẹt lửa Nghe mùa thu xa lắc ngấm trong lòng (Trương Nam Hương) Hay: Chiều xanh như nỗi nhớ nhà (Nguyễn Duy) Như vậy, có thể nói hình ảnh là máu thịt của tư duy sáng tạo nghệ thuật, hàm chứa khả năng thẩm mĩ. Nhà thơ cảm xúc, nhất là suy nghĩ bằng hình ảnh, hình tượng. Bởi, nghệ thuật không chỉ thể hiện tình cảm của con người. Nghệ thuật thể hiện tình cảm và còn thể hiện cả tư tưởng nhà thơ, không phải bằng trừu tượng, mà bằng những hình ảnh rất sinh động trong cuộc sống. Đây có thể xem là tính riêng biệt của nghệ thuật, tính riêng biệt của thơ. Thế nhưng, không vì thế mà khu biệt, tách bạch hình ảnh trong thơ. Cần nhìn nhận rằng, có sợi dây liên hệ mật thiết giữa hình ảnh, tình cảm, tư tưởng nhà thơ. Trong Văn tâm điêu long, nhà lí luận Lưu Hiệp đã chỉ ra mối liên hệ giữa cái hình, cái tâm và cái đẹp. Ông viết: “Đủ biết có cái hình xuất hiện thì cái đẹp nảy sinh, thanh âm phát ra thì cái văn lộ rõ vậy. Ôi! Những vật vô tri vô giác kia mà còn đẹp rực rỡ như vậy, con người có tâm, lẽ nào chẳng có văn sao?”[33,49] Vấn đề về chất lượng, khả năng to lớn của hình ảnh thơ cũng được R.Wellek và A. Warren đề cập đến trong cuốn Lý luận văn học do Nguyễn Mạnh Cường dịch. Họ nhận định rằng “thi ca là một cách biểu hiện có hình hài, hình ảnh”; “hình ảnh nghệ thuật là sự tự khám phá của nhà thơ”. A.Warren khẳng định thêm: “Ngang hàng với vận luật, một hình ảnh nghệ thuật là một trong các thành tố của cấu trúc của tác phẩm thi canó là một bộ phận của môi trường cú pháp, hay tu từ, và cần được xem xét không phải như một cái gì đó tách rời với các môi trường khác, mà như một trong các thành tố trong một tổ chức thống nhất toàn vẹn của một tác phẩm nghệ thuật”. [100,381] Như thế, có thể nói hình ảnh trong thơ là đơn vị cơ bản của bài thơ, vừa là hình ảnh cụ thể, lại là một chủ thể tổng hợp của cấu trúc bài thơ. Đi từ những hình ảnh riêng lẻ, hình tượng trong thơ được tạo nên là kết quả của cả quá trình suy tư, sáng tạo của nhà thơ. Nó là kết quả của một quá trình nhà thơ lăn lộn trong đời sống, trong tâm tư cùng với sự nhiệt tình, tìm tòi những hình thức, những cách phản ánh sao cho hiệu quả nhất. Sự tìm tòi này được thể hiện ra bằng các phương tiện ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật thơ ca và kỹ năng riêng của từng nhà thơ. 2.2. Hình ảnh trong thơ Trương Nam Hương 2.2.1 Hình ảnh người mẹ: Tình mẹ là biểu tượng thiêng liêng cao đẹp nhất và truyền thống thờ mẹ kính cha đã in sâu vào tâm hồn của mỗi người dân Việt, gắn liền với văn hóa dân tộc. Ca dao xưa sánh công cha cao như núi, để thể hiện sự tôn kính - Cha là cột trụ trong gia đình; nghĩa Mẹ như nước trong nguồn bất tận- bởi sự tận tụy hy sinh, yêu thương đùm bọc con cái không bờ bến. Người Việt mình thường có cách gọi quê Cha, đất Tổ và quê Mẹ, đất Mẹ, tiếng Mẹ đẻ .. là nhằm để tôn vinh công ơn sinh thành, dưỡng dục của Cha Mẹ. Câu chuyện trong thần thoại Hy Lạp về thần Ăngtê khi đặt chân trên đất Mẹ thì sức lực cường tráng, nhưng khi bị Hecquyn nhấc bổng lên khỏi mặt đất thì mất hết sức lực như một mối dây gợi nhắc đến mỗi người con từ thuở hồng hoang, khai sinh lập địa về tình cảm, sức mạnh diệu kì của người mẹ. Thế mới biết cõi đời này dù trải bao thăng trầm, biến đổi ra sao thì lòng tin yêu, sự biết ơn và trân trọng đấng sinh thành là điều luôn luôn bất diệt. Thơ Trương Nam Hương hình ảnh người mẹ có một vị trí trang trọng, luôn đồng hành cùng anh. Người đọc lần giở những trang thơ, sẽ thấy trong đó có một trái tim thầm lặng, giữ cho bước đường thơ của anh ấm áp tình mẫu tử, truyền ngọn lửa yêu thương gia đình, cội nguồn - mặc dù người mẹ không còn hiện hữu trên cõi nhân gian này. Trong văn học từ xưa đến nay những dòng thơ viết về người mẹ luôn gây được những rung cảm lớn trong người đọc dù cho bản thân đề tài không phải mới mẻ. Bởi vị trí của người mẹ quan trọng không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam, hiện diện đủ đầy trong đời sống tâm hồn mỗi người con: Con có cha như nhà có nóc Con có mẹ như bẹ ấp măng Người mẹ đã gánh một nửa đất đai trong cõi trời đất này. Mẹ đã trở thành trung tâm của mọi suy nghĩ, hành động, của những đứa con. Mỗi nhà thơ khi viết về mẹ đều mang đến những cảm xúc mới mẻ, lắng sâu. Tùy từng sở trường, sở đoản, mà các nhà thơ lựa chọn cho mình cách nhìn, cách thể hiện riêng. Bởi vậy cùng viết về hình ảnh người mẹ nhưng có sự khác nhau ở mỗi nhà thơ. Thế nhưng có một điểm chung nhất: Mẹ là biểu tượng tình thương không nhạt nhòa màu thời gian, không biến động như cuộc đời dâu bể. Nên hầu như tất cả đều bắt đầu từ mẹ, người nghĩ đến đầu tiên là mẹ và người phải chia tay đầu tiên là mẹ. Y Phương tràn ngập hình ảnh mẹ khi đặt bút viết những dòng đầu tiên: Bạn ơi Chuyện tôi kể Bắt đầu từ mẹ (Y Phương- Chín tháng) Trương Nam Hương cũng phát khởi những dòng thơ đầu tiên: Câu thơ viết đầu tiên cho mẹ đấy (H- Thiên thần) Nhà thơ viết nhiều về mẹ, đó là những bài thơ đánh động niềm cảm xúc thiêng liêng mà gần gũi nhất trong mỗi con người.Hình ảnh người mẹ trở đi trở lại trong thơ Trương Nam Hương như nỗi ám ảnh khôn nguôi. Đặc biệt, mẹ gắn liền như điều hiển nhiên với hình tượng quê hương; như dòng suối chảy từ cội nguồn đến đời con tươi mát, ngọt ngào. Mẹ còn là điệu hát quan họ quê nhà, là cốt cách làng quê.. Cứ ẩn hiện dáng đời trong câu hát Lòng mẹ ta nhân hậu vô vàn Vẻ thanh thoát nét hào hoa của trúc Cũng nói lên cốt cách của làng (Nhớ mẹ và làng quan họ) Thương mẹ một đời cay đắng Sao lời mẹ vẫn thảo thơm? (Trong lời mẹ hát) Kí ức về mẹ gắn liền với những gì thiêng liêng yêu quý nhất, nhưng cũng xót xa, tủi buồn nhất trong cuộc đời nhà thơ.Mẹ mất ở tuổi hưởng dương“Mẹ đã chọn ngày trăng linh diệu nhất/ Bốn mươi năm mau một chuyến đi về”, bản thân nhà thơ đang tuổi thiếu niên, phải dỗ dành “Dỗ anh tin vẫn mẹ trong nhà..”nên ta hiểu vì sao nỗi bơ vơ cứ ám ảnh đời anh và một góc nào đó ở trong thơ luôn hiện diện cái dáng người mồ côi, khao khát tình mẹ. Nỗi mất mát ấy dường như đau hơn, lớn dần lên theo năm tháng: Ta về thương hoa sữa tuổi mười lăm Ngắt lá cuộn sâu kèn tun hút thổi Níu mùa đông tiễn mẹ đến vô cùng (Mùa xanh) Tuổi bốn mươi mẹ nằm Tháp cốt Vẫn lo em mưa nắng dại khờ (Tuổi nhớ) Bị vướng trở trong áng mây mồ côi, nên trong tình cảm của nhà thơ tình yêu thương, nỗi nhớ mẹ không lúc nào nguôi. Những tác phẩm viết về mẹ ở hầu khắp các tập thơ, người đọc nhận chân một bà mẹ của Trương Nam Hương bên cạnh những phẩm chất chung muôn đời, còn mang những nét riêng không dễ lẫn qua lòng thương yêu, hiếu thảo của nhà thơ. Trong thơ xưa nay, đề tài người mẹ luôn có sức ủ ấm lạ kì. Mẹ như là tấm chăn chung cho những người con. Nhà thơ Thu Bồn viết về mẹ với những hình ảnh vừa thú vị vừa chân thật: Mẹ thả neo vào hồn con bằng chiếc vú Mà sóng đau thương cuộc đời Không đánh bật mẹ ra (Thu Bồn) Còn với Nguyễn Khắc Bắc, thời gian tròn mười năm trong lửa đỏ chiến tranh:“Có giây phút nào mẹ được ngồi không” giờ đây dẫu rằng đất nước đã hòa bình, nhưng đời của những người mẹ vẫn luôn gian nan. Những câu thơ tràn đầy thương cảm của Phùng Khắc Bắc dành cho mẹ như những giọt nước mắt cứ chảy vào trong xót xa và cay đắng: Ngày xưa chỗ ướt mẹ nằm Sau mười năm Vẫn chỗ mưa mẹ đứng (Phùng Khắc Bắc) Hy sinh vô bờ bến, sống cao thượng, bao dung là lẽ sống của mẹ. Thương con mà “Người nhận đời cô đơn” (Văn Lê). Tấm lòng của mẹ trở thành niềm tin, lòng tự hào, sức mạnh của những đứa con trong cuộc sống. Bằng những nét chạm khắc tinh tế, Trương Nam Hương đã làm nổi bật cái hồn cốt, thần thái của mẹ: Đó là bà mẹ quê nghèo, chỉ có thể bù đắp cho con với tất cả lòng tận tụy, chắt chiu, cưu mang của mình: Mẹ xuôi ngược đạn bom rào tứ phía Gánh chạy tôi về quê ngoại với tay không Khi biết mẹ không thể già hơn nữa Mẹ chắt chiu sự sống để cho mình (Ngoảnh lại tháng năm) Đi dần vào thế giới thơ của Trương Nam Hương, người đọc nhận thấy vẻ thảng thốt, lo sợ, níu kéo của nhà thơ khi từng giọt thời gian vương trên tóc người mẹ dần phai màu: Tóc người lẫn với mưa nguồn chớp bể (Với sông Hồng) Nhớ lặng thầm thôi không dám gọi Sợ làm tóc mẹ giật mình rơi (Nhớ mùa đông Hà Nội) Thời gian chạy qua tóc mẹ Một màu trắng đến nôn nao (Trong lời mẹ hát) Để qua đó càng thương, càng thông cảm hơn những nhọc nhằn của người mẹ hy sinh vì con cái, gia đình: Người vắt đời mình khô kiệt tháng năm Từng bán máu nuôi tôi những ngày túng bấn (Khúc hát người xa xứ) Mẹ khấn trời đừng bão giông Khấn đằng tây, khấn đằng đông- vậy mà Lúa vừa mới trổ đòng ra Bất ngờ lụt trắng đồng ta, mất mùa (Tạ lỗi cánh đồng) Cũng là viết về sự hi sinh thầm lặng của đời mẹ, ta gặp những vần thơ vô cùng xúc động của Nguyễn Duy: “Rối ren tay bí tay bầu/ Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa” (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa) Phải từng thấy được dây bí, dây bầu, dây mướp với vô số sợi tua vươn ra trăm hướng bám víu vào chiếc giàn để giữ cho thân mình đủ sức mang được những trái bầu, trái bí mới cảm nhận được sự vất vả của mẹ qua lối ví von tài tình của Nguyễn Duy. Nguyễn Trọng Tạo cũng nói về người mẹ của mình ở quê: “Mẹ ta dòng dõi nhà quê/ Trầu cau từ thuở chưa về làm dâu/ Áo sồi nâu, mấn bùn nâu/ Trắng trong dải yếm bắc cầu nên duyên” (Mẹ tôi). Tuy nhiên ở câu thơ của Nguyễn Duy còn nói thêm cả nỗi vất vả, bận bịu, tíu tít thu vén của mẹ qua hình ảnh ẩn dụ gần gũi, thân quen “rối ren tay bí tay bầu”. Với Trương Nam Hương mỗi khi viết về quê hương, gia đình mình, anh luôn đứng được ở vị thế của người trong cuộc, không say mê tô hồng, không tàn nhẫn bôi đen. Lời thơ của anh dung dị, đằm thắm, có một sức chứa lớn ở nội tâm. Nó khác một cách hẳn hoi, khác với những người làm thơ mà thời nay gọi là những dòng thơ đương đại. Trương Nam Hương không hoa mỹ,nhất là về tình người. Vì thế, chất thơ của anh mang cả dấu ấn tình người rõ nét: Mẹ một đời thầm lặng sống bao dung Dắt lúa lội qua cánh đồng thoi thóp Mẹ từng giấu vào đêm nghìn giọt khóc Quả bàng khô chờ rụng lúc không người (Với sông Hồng) Chỉ một hình ảnh bình thường Quả bàng khô chờ rụng lúc không người thôi mà sao dáng mẹ, tình mẹ và nỗi niềm của mẹ cứ thao thức lòng người. Thế mới biết, Trương Nam Hương đã lấy căn gốc tình người làm xuất phát điểm cho những nguồn cảm hứng hay mỗi đề tài thơ của mình. Kỉ niệm về mẹ luôn được anh dành giữ, trân trọng. Từ tấm hình mẹ thời con gái với ánh mắt trẻ trung, trong sáng đến đôi guốc mộc mẹ mangCó lần anh kể: “Tôi mất mẹ từ hồi còn là một cậu bé. Mẹ tôi ngày đó đau yếu liên miên. Ký ức về mẹ của tôi là những ngày tháng theo bà vào ra hết bệnh viện này đến bệnh viện khác”. Mẹ mất rồi, nhưng trong chiếc bóp nhỏ của anh vẫn giữ một tấm hình rất cũ đã ố vàng, trầy xước. Và cho đến tận bây giờ, anh mới làm xong một bài thơ dành cho người thiếu nữ trong tấm hình ấy: Người trong ảnh trẻ hơn ta nhiều tuổi Ngỡ thời gian chưa dốc trận bão lùa Nâng tấm ảnh đã nhòa như sương khói Ta hôn về cô gái – mẹ ta xưa! (Tấm ảnh) Trong tâm tưởng nhà thơ luôn có hình bóng mẹ. Anh luôn có nhu cầu được trò chuyện với mẹ, bộc lộ những nỗi niềm, giãy bày những tâm sự. Tình yêu của Cha cũng bao la tha thiết, nhưng cha không bộc lộ tình cảm như người Mẹ vuốt ve, âu yếm. Bởi vậy trong đời sống vui buồn các con thường thì thầm bày tỏ với mẹ. Với anh, mẹ là người duy nhất thấu hiểu những nghĩ suy, trăn trở trong lòng: Càng nhớ mẹ những ngày giáp tết Khói mùa xưa đọng mắt cay sè Con ra phố một mình đón rét Kiếm một niềm an ủi xa quê! (Nhớ mẹ, chiều cuối năm) Mẹ còn là người bạn đường của những nỗi niềm tâm sự, là đối tượng để tâm tình, giãy bày, chia sẻ những tâm tư, tình cảm: Giờ con lăng lắc thân cầu thực (Năm tháng xa quê) Con giờ có cơm ăn, manh áo lành để mặc Nước mắt cứ chảy ròng thương mẹ thuở gieo neo (Ngày giỗ mẹ) Mẹ chính là mối dây gắn kết nhà thơ với quê hương, là tấm gương soi vào thấy quê hương, vịn vào đó anh lần bước về với cội gốc: “Tạ từ nguồn mẹ ta đi/ Lớn lên khôn dại cũng quỳ trước sông”; tìm về với mẹ để lắng nghe những khuyên giải chân tình nhất: Mẹ khuyên: Nếu gió chiều nào Hãy chechiều ấy kín vào nghe con! (Những câu phương ngôn) Dáng đời mẹ ẩn hiện trong nếp nghĩ, nếp cảm của Trương Nam Hương. Người khuất bóng nhân gian nhưng còn mãi trong hồn anh.Hình ảnh mẹ có vị trí cao về sự ngưỡng vọng, tầm ảnh hưởng; sâu về lòng thương, nỗi nhớ; xa về sự khắc khoải, ẩn ức trong lòng người con sớm mất mẹ Mẹ nhẹ bước vào thơ. Hình ảnh mẹ dường như trở thành thước đo, hình mẫu trong tâm trí anh một cách tự nhiên, vô thức khi anh đứng trước một người con gái nào. Từ người chị, người em gái mang dáng dấp của người mẹ chịu thương chịu khó cho đến người con gái anh yêu: Chẳng phải tiễn em đâu- e rằng giây phút đó Nhìn gương mặt chị buồn, giống mẹ, khó lòng đi! (Chị tuổi bốn mươi ) Nghe em -tưởng tượng ngày xưa mẹ Sóng nước ngung nguây vỗ mạn thuyền (Câu hát ấy) Thậm chí, chỉ nhìn một hình ảnh nào vô tình gợi nhắc, là lòng anh se thắt nhớ đến bóng dáng mẹ: Chợt một sớm nhìn lên mây trắng Dáng mây mang dáng khổ, mẹ ngồi Hay: Có ánh mắt mẹ nhìn lặng lẽ Cuối chân trời cơn bão chờ tan (Nhớ mẹ, chiều cuối năm) Trăng hay dáng mẹ thầm bên cửa (Ảo giác) Thơ viết rất nhiều về mẹ, mỗi lần Trương Nam Hương đều có cách nói riêng, lần nào cũng rung động người đọc sâu xa, trước hết bởi cảm xúc mạnh mẽ của trái tim người viết, sau nữa bởi sự gần gũi và giản dị được thể hiện trong từng chi tiết nhỏ: Mùa xuân theo mẹ lên chùa Oản, xôi cũng nhận- chuỗi, bùa cũng đeo Mẹ quỳ, tôi nép quỳ theo Lạy từ ngọn cỏ, lạy veo ..tới trời (Tuổi thơ) Nén hương đốt thơm suốt rằm tháng chạp Mẹ lui cui góc cây gạo khấn trời Con đom đóm lập lòe như ngáo ộp Tôi ôm chầm chân mẹ khóc khan hơi (Nghoảnh lại tháng năm) Viết về mẹ, Trương Nam Hương không có ý định tạo nên những vần thơ có cách nói lạ hóa, điểm tô. Nhà thơ nhìn mẹ bằng kí ức, bằng tâm thức tuổi thơ. Anh kể lại những hình ảnh, những sự việc hết sức bình thường nhưng cũng chính vì thế mà vô cùng gần gũi, đời thường. Hình ảnh thơ Trương Nam Hương do đó, không mang những kích cỡ lớn, không có những cảnh hoành tráng, toàn cảnh, mà thường là những hình ảnh cụ thể, nhỏ nhắn và dung dị gắn liền với những nỗi niềm, những tâm tình của nhà thơ.Những hình ảnh tuy nhỏ nhưng chỉ có được từ sự chắt chiu, gắn bó trong tình cảm nhà thơ mới cảm nhận được và đưa vào trong thơ. Tế Hanh với hình ảnh mẹ tảo tần bên Chiếc rổ may: “Lặng lẽ bàn tay lặng lẽ đưa, Đắp từng miếng vá ấm con thơ”. Những hình ảnh nho nhỏ ấy chỉ có được từ sự yêu thương, gìn giữ trong tình cảm nhà thơ: Lơ thơ chỉ rối con con Những cái kim hư, hột nút mòn Tằn tiện để dành trong lọ nhỏ Gắn liền, đi đôi với hình ảnh người mẹ trong thơ Trương Nam Hương là ngọn lửa, bếp lửa, khói bếp.. May mẹ dậy trước ta, mẹ ngồi nhen bếp lửa Khói bếp xanh đến giờ vẫn nhớ.. (Nhớ xuân 16 tuổi) Mái tranh nghèo bếp mẹ khói liêu xiêu (Viết tặng tuổi thơ mình) Thắc thỏm mỗi mùa hoa gạo đỏ Mẹ chờ bếp nguội những tro than.. (Năm tháng xa quê) Ngọn lửa- hơi ấm ấy như một biểu tượng thắp sáng niềm tin, là đường dây tình cảm xuyên suốt soi ấm tình mẹ gửi trao cho những đứa con. Mẹ lặng lẽ đứng lại phía sau dõi mắt tin yêu theo con, với ngọn đèn hải đăng thắp sáng đường về Với mẹ, đó là những ngày tháng êm đềm trụ lại lâu trong đời anh. Cái thôi thúc trong lòng tác giả chính là hình bóng mẹ thân yêu. Người mẹ của Hữu Thỉnh cũng vậy, mẹ là nơi chất chứa ngọt ngào, tin cậy nhất: Mẹ vẫn đỏ miếng trầu Ấm một vùng tin cậy phía sau (Sức bền của đất, Hữu Thỉnh) Có lẽ hình ảnh ám ảnh, day dứt người đọc thơ Trương Nam Hương chính là đôi mắt chờ mong. Đôi mắt mẹ không lời, nhưng nói bằng vô cùng; đôi mắt âm thầm ngóng đợi các con ở phương xa trở về với mẹ cho nguôi phần thương nhớ: Mẹ hoàng hôn chống gậy ra thềm Tiếng chim khách kêu hoài..không khách Mẹ nán chờ con mài. Và đêm.. (Nhớ mẹ, chiều cuối năm) Mẹ lần theo tiếng con chim khách Nắng giọt đầu hiên đã muộn mằn Ngoài kia quả bưởi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcam_hung_hinh_anh_va_ngon_tu_nghe_thuat_trong_tho_truong_nam_huong_3465_1925633.pdf
Tài liệu liên quan