Luận văn Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CẤP NƯỚC SẠCH ĐÔ THỊ 7

1.1. Một số vấn đề chung về nước sạch và hoạt động cấp nước sạch đô thị 7

1.2. Quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị 15

1.3. Kinh nghiệm nước ngoài và các địa phương trong nước về quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị 33

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CẤP NƯỚC SẠCH ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HOÁ 41

2.1. Khái quát đặc điểm hình thành hệ thống cấp nước sạch đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá 41

2.2. Thực trạng quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị ở Thanh Hoá 46

2.3. Đánh giá chung 69

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CẤP NƯỚC SẠCH ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HOÁ 82

3.1. Phương hướng 82

3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá 84

KẾT LUẬN 105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109

PHỤ LỤC 114

 

 

doc118 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2337 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h của liên sở Tài chính-Xây dựng sau khi liên sở thẩm định phương án giá nước do công ty lập. Giá nước sạch qua các giai đoạn chưa được tính đúng, tính đủ các yếu tố của chi phí sản xuất; đặc biệt là chi phí khấu hao tài sản cố định, liên ngành thường chọn khung thời gian tối đa để có mức trích khấu hao tối thiểu vào giá nước. Chính vì lẽ đó, công ty thường bù trừ bằng doanh thu các công việc khác mà chủ yếu là xây lắp. Cụ thể, năm 2002 tổng doanh thu 19.185 triệu đồng, trong đó doanh thu khác 11.182 triệu đồng chiếm 58%; năm 2007 tổng doanh thu 62.839 triệu đồng, trong đó doanh thu khác 28.979 triệu đồng chiếm 46% [20, tr.2]. UBND tỉnh là đại diện chủ sở hữu, nghĩa là tỉnh thực hiện quyền sở hữu tài sản tại công ty, tỉnh giao cho công ty quản lý và sử dụng. Tuy nhiên, hiện không có một hợp đồng nào giữa tỉnh và công ty để phân định quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên. Thứ hai, những dự án đầu tư cấp nước, đặc biệt là dự án tại các huyện được ngân sách cấp vốn. Khi dự án đầu tư xong, các trạm cấp nước chuyển sang vận hành khai thác, doanh thu chỉ đủ để bù đắp chi phí vận hành nên không có nguồn khấu hao cơ bản để phục hồi và tái tạo tài sản cố định. Trong 14 dự án tại các huyện 7 dự án chưa hoàn thành; dự án huyện Quan Sơn hoàn thành năm 2000, công suất 600 m3/ngày, vốn đầu tư 1.600 triệu đồng, đây là hệ thống tự chảy và là dự án tình thế giải quyết nguồn nước sinh hoạt cho thị trấn Quan Sơn, huyện dự kiến trình tỉnh bổ sung vốn để nâng cấp; dự án huyện Triệu Sơn hoàn thành năm 1994, công suất 500 m3/ngày, vốn đầu tư 870 triệu đồng, hiện tại đang chờ vốn ngân sách để nâng cấp; dự án huyện Yên Định hoàn thành năm 1994, công suất 600 m3/ngày, vốn đầu tư 1.400 triệu đồng, công nghệ lạc hậu, hệ thống phân phối chất lượng kém, hiện tại huyện đang lập dự án đầu tư trạm cấp nước mới. Còn lại 4 dự án, hoạt động kinh doanh năm 2007 thể hiện: Trạm cấp nước thị trấn Vạn Hà vốn đầu tư 7.200 triệu đồng, doanh thu 391 triệu đồng; trạm cấp nước thị trấn Thạch Thành vốn đầu tư 1.800 triệu đồng, doanh thu 50 triệu đồng; trạm cấp nước thị trấn Hà Trung vốn đầu tư 9.000 triệu đồng, doanh thu 280 triệu đồng; trạm cấp nước thị trấn Tĩnh Gia vốn đầu tư 6.100 triệu đồng, doanh thu 194 triệu đồng [19, tr.4] Như vậy, doanh thu chỉ đạt 2-5% vốn đầu tư, trong khi đó mức trích khấu hao ngành nước bình quân trên 5%. Rõ ràng, doanh thu không đủ bù đắp khấu hao cơ bản nên hệ thống xuống cấp không có khả năng phục hồi, phải trông chờ ngân sách tỉnh cấp phát thể hiện tính bao cấp rõ nét. - Cơ chế quản lý hoạt động cấp nước tại Thanh Hoá cũng còn nhiều khác biệt. Trước đây, Công ty cấp nước Thanh Hoá được giao nhiệm vụ cấp nước chủ yếu đối với thành phố Thanh Hoá, thị xã Sầm Sơn; thì nay giao thêm thị xã Bỉm Sơn và thị trấn một số huyện giáp gianh thành phố Thanh Hoá như Hoằng Hoá, Quảng Xương, Đông Sơn. Theo quy định hiện hành, cấp nước thị trấn cũng như cấp nước ở các đô thị lớn thuộc quyền quản lý của Bộ Xây dựng. Tuy nhiên, thực tế về quản lý hoạt động cấp nước ở các thị trấn chưa rõ ràng, có trạm thuộc Công ty cấp nước Thanh Hoá, có trạm thuộc huyện quản lý, có trạm thuộc Công ty cấp nước nông thôn quản lý. Đúng như đánh giá của ngân hàng thế giới, không có một tổ chức riêng biệt nào chịu trách nhiệm về việc đề ra chính sách cấp nước và quản lý thực hiện chính sách này cho thị trấn như một phân khúc của thị trường, với lý do thị trấn quá nhỏ để quản lý theo mô hình công ty và quá lớn để quản lý theo mô hình cộng đồng [34, tr.5]. Chính phủ đã ban hành nghị định 117/CP về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch, năm 2008 các Bộ Xây dựng, Tài chính ban hành văn bản hướng dẫn nghị định, đã phân định rất rõ vai trò, trách nhiệm của các bên tham gia hoạt động cấp nước sạch đô thị, kể cả UBND các cấp và các doanh nghiệp cấp nước. - Cơ chế chính sách không đồng bộ, chưa bao quát và khó thực thi như, tỉnh vẫn chưa thực hiện cấp bù khi quyết định giá nước thấp hơn phương án đã được tính đúng, tính đủ theo nguyên tắc xác định giá nước trong nghị định 117/CP vì nguyên tắc trong thông tư 104/2004 không có nội dung này; hoặc khung giá nước cũng cần phải điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tế , hay lợi nhuận định mức ấn định 3% là quá thấp và cứng nhắc... Nghị định 117/CP ra đời sau và tính pháp lý cao hơn nên nguyên tắc trong thông tư 104/2004/TTLT cần được bãi bỏ. Mặc dù cơ chế chính sách hiện hành, đặc biệt là sự ra đời của nghị định 117/CP đã hình thành một khung pháp lý khá đầy đủ cho lĩnh vực cấp nước. Tuy nhiên, mô hình tổ chức thay đổi cùng với yêu cầu sắp xếp đổi mới ngành nước đòi hỏi một khung pháp lý thật phù hợp với thực tế là tối cần thiết nhưng không dễ. Hai năm trước Công ty cấp nước Thanh Hoá được tỉnh và Chính phủ chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn nhà nước; thì nay lại thấy cần phải chuyển đổi thành công ty cổ phần nhà nước năm giữ trên 50% số cổ phần mới hợp lý. Chính vì lẽ đó, có quyền đặt câu hỏi về mô hình tổ chức cấp nước của tỉnh Thanh Hoá, về tính khả thi của nghị định 117/CP đối với một số vấn đề, trong đó có chính sách giá nước và đánh giá tài sản công trình cấp nước đã đầu tư; chỉ đạo việc chuyển giao các công trình cấp nước tập trung tại các thị trấn huyện. Do vậy, cần phải rà soát lại để sửa đổi cơ chế chính sách một cách phù hợp thực tiễn hơn nữa, tạo tiền đề cho sự pháp triển bền vững của các doanh nghiệp cấp nước trong cơ chế thị trường. 2.2.4. Về quản lý giá nước, thất thu, thất thoát nước 2.2.4.1. Quản lý giá nước sạch đô thị Giá nước là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo sự phát triển bền vững của các công ty cấp nước. Thực hiện nghị quyết TW3 khoá IX, Chỉ thị 04/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chuyển đổi mô hình doanh nghiệp cấp nước từ hoạt động công ích sang hoạt động kinh doanh; Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng ban hành thông tư số 104/2004/TTLT ngày 18/11/2004 hướng dẫn nguyên tắc, phương pháp xác định và thẩm quyền quyết định giá tiêu thụ nước sạch. Thông tư nêu nguyên tắc, giá nước phải được tính đúng, tính đủ các chi phí của giá thành toàn bộ và lợi nhuận định mức hợp lý... Mục đích là để các doanh nghiệp cấp nước hoạt động kinh doanh bình đẳng với các doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác. Giá tiêu thụ nước sạch được tính theo nguyên tắc trên có tác dụng tích cực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao chất lượng nước, chất lượng dịch vụ khách hàng, phấn đấu giảm chi phí, giảm thất thoát, thất thu đồng thời khuyến khích khách hàng sử dụng nước tiết kiệm. Theo đó, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 38/2005/QĐ ngày 30/6/2005 về khung giá tiêu thụ nước sạch sinh hoạt cho các đối tượng sinh hoạt tại các đô thị, với đô thị đặc biệt và loại 1 giá tối thiểu 2.500 đồng/m3, giá tối đa 8.000 đồng/m3; các đô thị còn lại trong khung 1.800-7.000 đồng/m3 [3, tr.2]. Đây là mốc quan trọng để chuyển đổi hoạt động của công ty cấp nước sang kinh doanh, tạo cho doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Nhưng quá trình thực hiện chính sách mới tại Thanh Hoá bộc lộ một số khó khăn, bất cập như: - Giá nước sạch chưa tính đúng, tính đủ các yếu tố của chi phí sản xuất theo thông tư 104/2004/TTLT. Doanh thu về nước sạch không đủ bù đắp chi phí nếu tính đúng tính đủ. Trong xây dựng phương án, giá đầu vào thường áp giá tại thời điểm; khi phương án được phê duyệt và áp dụng thì giá các yếu tố đầu vào thường cao hơn giá trong phương án được duyệt. - Trích khấu hao tài sản cố định không đúng, không đủ theo hướng dẫn. Tại thông tư 104/2004/TTLT về chi phí khấu hao quy định, những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách hoặc nguồn tự bổ sung trích theo khung khấu hao theo quy định của Bộ Tài chính; đối với tài sản được hình thành từ nguồn vốn vay trích khấu hao trên cơ sở thời hạn vay vốn đầu tư. Tuy vậy, tại công ty thường áp dụng trích khấu hao theo khung; bởi nguyên tắc trích khấu hao nêu trên không đồng nhất vì, cùng một tài sản nếu dùng nguồn vốn tự bổ sung theo khung là 15 năm còn nếu vay ngân hàng thương mại là 5 năm, như vậy cùng một tài sản nhưng chi phí khấu hao trích vào giá thành chênh lệch 3 lần. Mặt khác, Thanh Hoá chỉ khai thác thực tế 62% công suất, nên áp dụng tính khấu hao theo thời hạn vay sẽ làm giá nước quá cao. - Trong phương án, kết cấu giá thành nước trước đây không tính đến các khoản trả lãi vay từ nguồn vốn ADB đã hoàn thành đưa vào sử dụng 6/2001, (đến tháng 11/2005 mới tính lãi vay). Đây là vấn đề mà địa phương chưa nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ của bên vay đối với các tổ chức cho vay; trong hơn 4 năm không tạo nguồn gây khó khăn khi công ty đến kỳ trả nợ. Mặt khác, việc không cấu trúc lãi vay vào giá thành kịp thời là sai chế độ tài chính và chuẩn mực kế toán. Hoặc về nhân công, theo định mức của Bộ Xây dựng công nhân trực tiếp của Xí nghiệp sản xuất nước là 88 người, nhưng liên ngành chỉ chấp nhận 74 người như hiện có, mặc dù công nhân hiện có phải làm thêm giờ rất nhiều để bù khoản thiếu người theo định mức. - Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định giá nước sinh hoạt cụ thể cho từng đối tượng sử dụng nước. Thực tế việc quyết định giá nước do liên sở Tài chính-Xây dựng trình lên; vì "ngại" đụng chạm đến dân, liên sở lý luận rằng tính đúng, tính đủ mọi chi phí như thông tư quy định là cả một quá trình và phải phù hợp với khả năng chi trả của khách hàng mà người dân đô thị Thanh Hoá còn nghèo... Song liên sở cũng không quy định lộ trình của quá trình là bao lâu; trong khi đó các loại giá đầu vào tăng thêm như: năm 2006 giá điện thay đổi theo quyết định 276/QĐ của Thủ tướng; tiền lương và bảo hiểm xã hội thay đổi theo nghị định số 94/NĐ của Chính phủ; các loại vật tư, chi phí khác của các yếu tố đầu vào cũng không ngừng tăng hàng quý, thậm chí hàng tháng. Ngược lại, giá nước sạch từ năm 2005 đến nay chưa điều chỉnh; năm 2008 công ty lập phương án điều chỉnh tăng giá nước, liên sở đã thẩm định nhưng tỉnh chưa phê duyệt, vì Chính phủ chỉ đạo năm 2008 toàn quốc không được tăng giá nước để góp phần kìm chế lạm phát quốc gia. Theo phương án, giá thành bình quân 5.619,6 đồng/m3, chênh lệch tăng so với phương án năm 2005 là 1.449,6 đồng/m3, nếu tính cả năm với sản lượng nước sản xuất 12.330.000 m3 công ty bị lỗ xấp xỉ 18 tỷ đồng. Đây là điều bất bình đẳng và ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng bảo toàn, phát triển vốn đối với Công ty cấp nước Thanh Hoá và khó có khả năng thu hút các nhà đầu tư khi công ty cổ phần hoá. - Về chi phí thoát nước: hiện tại Thanh Hoá đang áp dụng phí thoát nước môi trường là 5%, nằm ngoài giá nước sạch cho tất cả các đối tượng sử dụng nước. Tại địa bàn Công ty cấp nước Thanh Hoá quản lý, chi phí này UBND tỉnh giao công ty thu đồng thời với thu nước sạch, sau đó nộp về Sở Tài nguyên Môi trường, công ty được hưởng phí thu. Việc thu đồng thời với giá nước gây tâm lý cho người sử dụng là giá nước sạch cao cũng là một bất cập cho công ty Cấp nước. - Về giá nước sinh hoạt luỹ tiến tăng dần theo bậc thang: Tại Thanh Hoá năm 2007 giá thành 01 m3 nước là 3.941 đồng. Theo quyết định của UBND tỉnh áp dụng giá nước (so với giá thành) như sau: (1) đối với hộ dân cư, sử dụng từ 1-10 m3 giá 3.100 đồng (78%), từ 10-20 m3 giá 3.700 đồng (94%), từ 20-30 m3 giá 4.400 đồng (112%), trên 30 m3 giá 5.200 đồng (132%); (2) đối với cơ quan hành chính, lực lượng vũ trang, lợi ích công cộng giá 6.200 đồng (157%); (3) nước phục vụ sản xuất vật chất giá 6.500 đồng (165%); (4) nước kinh doanh dịch vụ giá 7.000 đồng (178%). Như vậy, mặc dù giá nằm trong "khung" của Bộ Tài chính nhưng giá 3.100 đồng (chiếm phần lớn) thể hiện sự bao cấp quá nặng nề và giá 6.500 đồng phục vụ sản xuất, hoặc giá 7.000 đồng kinh doanh dịch vụ so với giá 3.100 đồng là quá cao và không hợp lý [23, tr.9]. - Lãnh đạo tỉnh và các ngành cũng như người dân chưa xem nước sạch đô thị là hàng hoá, giá mang tính áp đặt theo kiểu hành chính. Chưa xác định ngành cấp nước là một lĩnh vực cần phải tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Doanh nghiệp cấp nước đã hoàn toàn chuyển sang hoạt động kinh doanh, nó phải có trách nhiệm tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính, không có sự bao cấp từ ngân sách nhà nước. Người tiêu dùng có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả theo khối lượng sử dụng với giá cả hợp lý như các hàng hoá tiêu dùng khác. 2.2.4.2. Thất thu, thất thoát nước sạch đô thị Thất thoát, thất thu nước do kỹ thuật hoặc do quản lý. Thất thoát nước kỹ thuật (thất thoát vật lý), thực chất là sự rò rỉ dưới hai dạng thấy được và không thấy được qua đường ống, mối nối, thành bể, những thất thoát liên quan đến cấu tạo công trình cấp nước và do bản thân công trình cấp nước gây ra. Thất thoát nước do quản lý (thất thu), thực chất là những thất thoát do con người tạo nên và phụ thuộc chủ yếu vào hành động chủ quan của con người, như đấu nối ống trái phép, sử dụng nước không đăng ký, đo đếm sai sót... Chỉ số thất thoát nước do quản lý có thể rất cao khi tồn tại chế độ bao cấp về nước vì nó tạo nên ý thức lãng phí, không tiết kiệm, thiếu tinh thần trách nhiệm của rất nhiều người, kể cả đối tượng sử dụng nước, công nhân vận hành và nhà quản lý. Tại Thanh Hoá tỷ lệ thất thoát, thất thu qua các thời kỳ của Công ty Cấp nước Thanh Hoá có xu hướng ngày càng giảm. Bảng 2.1: Tổng hợp sản lượng nước sản xuất và nước hàng hoá STT Danh mục Năm1992 Năm 2002 Năm 2007 I 1 2 3 II 1 2 3 III 1 2 3 Sản lượng nước sản xuất (m3) Nhà máy nước Thanh Hoá/ Hàm Rồng Nhà máy nước Bỉm Sơn Trạm cấp nước Bút Sơn Sản lượng nước hàng hoá (m3) Nhà máy nước Thanh Hoá/ Hàm Rồng Nhà máy nước Bỉm Sơn Trạm cấp nước Bút Sơn Tỷ lệ thất thoát, thất thu (%) Nhà máy nước Thanh Hoá/Hàm Rồng Nhà máy nước Bỉm Sơn Trạm cấp nước Bút Sơn 5.000.000 5.000.000 2.866.000 2.866.000 42,6 42,6 6.944.582 6.944.582 4.485.456 4.485.456 35,4 35,4 11.549.400 10.640.000 822.470 86.930 8.120.000 7.339.260 707.740 73.000 29,7 31,0 14,0 16,0 Nguồn: [21, tr.5]. - Năm 1992 sản lượng nước sản xuất 5.000.000 m3, sản lượng nước hàng hoá 2.866.000 m3, sản lượng nước thất thoát 2.134.000 m3 chiếm tỷ lệ 42,6%. - Năm 2002 sản lượng nước sản xuất 6.944.582 m3, sản lượng nước hàng hoá 4.485.456 m3, sản lượng nước thất thoát 2.459.126 m3 chiếm tỷ lệ 35,4%. - Năm 2007 sản lượng nước sản xuất 11.549.400 m3, sản lượng nước hàng hoá 8.120.000 m3, sản lượng nước thất thoát 3.429.400 m3 chiếm tỷ lệ 29,7%; trong đó Nhà máy nước Thanh Hoá/Hàm Rồng 31%, Nhà máy nước Bỉm Sơn 14%, Trạm cấp nước Bút Sơn 16% [21, tr.4]. Như vậy, từ tỷ lệ thất thoát, thất thu 42,6% năm 1992 xuống 29.7% năm 2007 là một sự cố gắng đáng kể của Thanh Hoá nói chung và Công ty cấp nước Thanh Hoá nói riêng; tỷ lệ thất thoát, thất thu thấp hơn mức trung bình của cả nước (34%) và tỷ lệ này đảm bảo quy định của Liên bộ (không vượt quá 30%). Tuy nhiên, những tuyến ống cũ của Nhà máy nước Mật Sơn được xác định có tỷ lệ thất thoát nhiều nhất, mà điển hình như tuyến chạy dọc quốc lộ 1A từ Công an Thành phố đến ngã Ba Voi; tuyến này đường ống gang F 300 dài 2,5 km nối kết bằng xi măng chạy song song với rãnh thoát, đường nhựa phủ trên, do vậy khi ống vỡ nước chảy xuống rãnh thoát rất khó phát hiện; hoặc tuyến ống gang F 500 dài 1,6 km nối kết bằng xi măng từ phố Hoàng Văn Thụ đến đường Phan Chu Trinh, đất thịt phủ trên và chôn nông, rò rỉ nhiều dễ phát hiện nhưng khó xử lý vì nhiều đoạn nhà dân xây lên trên... Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 38/2007/QĐ. Theo đó, từ nay đến năm 2010 sẽ tiến hành cổ phần hoá hết công ty cấp nước, không chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Muốn cổ phần hoá kinh doanh phải hiệu quả, để thu hút vốn đầu tư thông qua mua cổ phần. Cùng với tăng cường đầu tư mới nâng cao năng suất, phải đi đôi với hạn chế thất thoát, thất thu vì đây là một biện pháp rất hiệu quả để nâng cao năng lực cấp nước tại các công ty mà không mất thêm vốn đầu tư. 2.2.5. Hiện trạng hoạt động sản xuất kinh doanh nước sạch của doanh nghiệp Tỷ lệ dân số đô thị Thanh Hoá năm 2006 khoản 360.323 người chiếm 9,8% tổng dân số được cấp nước bởi Công ty cấp nước Thanh Hoá và các trạm cấp nước thị trấn huyện [25, tr.18]. Tại 14 huyện có dự án cấp nước với số dân đô thị là 98.407 người , 14 trạm cấp nước tổng công suất thiết kế 14.660 m3/ngày, vốn đầu tư 100.470 triệu đồng. Năm 2007 chỉ có 4 huyện với số dân đô thị là 27.500 người được cung cấp bởi 4 trạm cấp nước, công suất thiết kế 4 trạm 3.460 m3/ngày; thực tế chỉ có 20.850 người dùng nước, mức độ bao phủ cấp nước đạt 76%; lượng nước tiêu thụ trong năm là 366.135 m3, chỉ đạt bình quân 48 lít/ người/ ngày; công suất thực tế 1.003 m3/ ngày chỉ bằng 29% công suất thiết kế (1.003 m3/ 3.460 m3). Hoạt động kinh doanh năm 2007 của 4 trạm thể hiện: doanh thu 915 triệu đồng [19, tr.2], bằng 3,8% vốn đầu tư (915 triệu đồng/24.100 triệu đồng), chứng tỏ hoạt động hiệu quả kém; doanh thu không đủ bù đắp khấu hao cơ bản. Như vậy, thực chất hoạt động cấp nước sạch đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ năm 2007 trở về trước cơ bản được thực hiện bởi Công ty cấp nước Thanh Hoá. Do vậy kết quả cấp nước đô thị toàn tỉnh, có thể được đánh giá bằng các chỉ tiêu chủ yếu của công ty qua các thời kỳ hoạt động. Tính đến thời điểm 31/12/2007, tổng công suất theo thiết kế tại các nhà máy công ty quản lý là 50.750 m3/ngày, nếu phát huy hết công suất đủ cấp nước sinh hoạt cho 249.300 người dân đô thị, với mức cấp 143 lít/người/ngày. Tuy nhiên, mạng lưới đường ống cũ của nhà máy nước Mật Sơn gây thất thoát thất thu nhiều nhất. Đặc biệt, do địa bàn quản lý quá rộng, người dân đô thị dùng nước tiết kiệm, nên thực tế công ty chỉ sử dụng khoảng 62,3% công suất, đủ cung cấp nước cho 249.300 người với mức cấp 89 lít/người/ngày, mức cấp vào loại trung bình so với cả nước [21, tr.3]. 2.2.5.1. Vốn và tài sản của công ty Vốn chủ sở hữu của công ty hiện nay là 152.427 triệu đồng, trong đó vốn nhà nước 152.343 triệu đồng chiếm gần 100%, còn lại là quỹ khen thưởng. Tổng tài sản của công ty 245.233 triệu đồng, trong đó tài sản ngắn hạn 40.702 triệu đồng, tài sản dài hạn 204.531 triệu đồng. Trong tài sản dài hạn, giá trị của tài sản cố định 187.091 triệu đồng (chủ yếu được hình thành từ dự án Cấp nước và vệ sinh Thanh Hoá-Sầm Sơn); chi phí xây dựng cơ bản dở dang 9.235 triệu đồng, đây là giá trị đầu tư chưa hoàn thành, trong đó cải tạo nâng công suất Nhà máy nước Hàm Rồng gần 9 tỷ đồng sẽ ghi tăng giá trị tài sản cố định năm 2008; còn lại là tài sản dài hạn khác [20, tr.3]. Tổng tài sản trên được hình thành từ các nguồn: nguồn vốn chủ sở hữu 152.427 triệu đồng, nguồn vay (nợ phải trả) 92.806 triệu đồng. Trong nguồn vay có, vay ngắn hạn 23.463 triệu đồng, nợ dài hạn 69.343 triệu đồng (vay dài hạn 68.836 triệu đồng, dự phòng mất việc làm 407 triệu đồng). Vay dài hạn 68.836 triệu đồng bao gồm, vay ngân hàng 11.209 triệu đồng lãi suất 12% năm; vay lại của Bộ Tài chính 57.727 triệu đồng, thời hạn 20 năm, lãi suất đã điều chỉnh 5% năm [20, tr.4]. Theo nghị định 117/CP của Chính phủ, các công trình cấp nước tập trung tại các thị trấn huyện được đầu tư từ nguồn vốn nhà nước thì chuyển giao cho Công ty cấp nước thuộc tỉnh quản lý. Như vậy, việc Chính phủ giao cho Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, hướng dẫn, chỉ đạo quyết toán, đánh giá lại tài sản đối với công trình cấp nước đã đầu tư, nhất là dự án cấp nước thị trấn huyện, làm cơ sở trình Thủ tướng Chính phủ phương án xác định giá trị tài sản được tính khấu hao đưa vào giá thành, xử lý chênh lệch giá trị tài sản khi đánh giá lại theo tinh thần điều 64 của nghị định 117/CP là rất cần thiết, để Công ty cấp nước Thanh Hoá cổ phần hoá năm 2008. 2.2.5.2. Trình độ công nghệ, tình hình hoạt động - Việc thực hiện các dự án đầu tư qua các thời kỳ, từ đầu tư xây dựng mới cũng như cải tạo, mở rộng, nâng cấp của công ty, đã xuất hiện dây chuyền công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại được nhập khẩu tuyển chọn tương đối kỹ càng, hệ thống đường ống bằng gang rẻo, khớp nối mềm, roăng cao su đảm bảo. Chính vì lẽ đó công suất cấp nước tăng nhanh, nhất là nhà máy nước Hàm Rồng giai đoạn 1 công suất 10.000 m3/ngày, năm 2008 nâng công suất lên 20.000 m3/ngày, chi phí đầu tư nâng công suất khoảng 13 tỷ đồng. Tuy nhiên, xét tổng thể, hệ thống cấp nước của công ty hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Phần mạng và một phần phần nguồn nhà máy nước Hàm Rồng quá lớn, đủ đáp ứng phần nguồn công suất 50.000 m3/ngày; trong khi đó, mạng lưới đường ống cũ của Nhà máy nước Mật Sơn thuộc dự án này chưa được thay thế hết, nó chứng tỏ sự đổi mới không thật đồng bộ ngay từ khi lập dự án đầu tư Cấp nước và vệ sinh Thanh Hoá-Sầm Sơn. Hoạt động sản xuất kinh doanh nước sạch trong tình trạng đan xen giữa thiết bị công nghệ mới và cũ, dẫn đến tình trạng đầu tư chưa thật cân đối giữa các khâu còn lớn, đặc biệt giữa phần nguồn và phần mạng của nhà máy; hệ thống phân phối bằng đường ống cũ khó kiểm soát thất thu, thất thoá nước, gây nhiều rò rỉ, khó phát hiện để xử lý. - Tình hình hoạt động cấp nước sạch đô thị nhìn chung đáp ứng được yêu cầu; ngoài địa bàn cấp nước cho thành phố Thanh Hoá, thị xã du lịch Sầm Sơn, thị xã Bỉm Sơn thị trấn Bút Sơn huyện Hoằng Hoá với dân số đô thị 227.595 người [25, tr.19]; cuối năm 2007 công ty mở rộng mạng lưới ra một số xã của thành phố như như xã Đông Hương, Đông Hải, Đông Cương và xã Quảng Thịnh huyện Quảng Xương, nâng số người sử dụng nước lên 249.300 người. - Hiệu suất khai thác nước đạt mức trên trung bình bằng 62,3% so với công suất thiết kế. Nguyên nhân chủ yếu là do lượng khách hàng chưa nhiều và xu hướng người dân sử dụng nước tiết kiệm, các xã của thành phố nhiều gia đình chỉ sử dụng nước sạch cho ăn uống, còn sinh hoạt khác dùng nước giếng. Theo Quyết định số 24 ngày 01/02/2002 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Thanh Hoá thì tiêu chuẩn cấp nước thành phố Thanh Hoá 120-130 lít/người/ngày [45, tr.6]. - Mức độ bao phủ dịch vụ cao đạt gần 100%, nhưng lượng nước thực tế sử dụng còn thấp 89 lít/người/ngày nên công ty chưa đảm bảo cấp nước liên tục 24/24 giờ; do vậy dân cư sống xa nguồn, áp lực nước yếu, mục đích để công ty tiết kiệm chi phí và giảm thất thoát nước. - Tỷ lệ thất thoát, thất thu nước có xu hướng giảm dần, từ 42,6% năm 1992 xuống còn 29,7% năm 2007 [22, tr.4], thấp hơn mức trung bình của cả nước (36%). 2.2.5.3. Kết quả sản xuất kinh doanh từ năm 2002 - 2007 Bảng 2.2: Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Đơn vị tính: triệu đồng Danh mục 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1. Doanh thu thực hiện 1.1. Doanh thu cấp nước 1.2. Tỷ lệ (1.1/ 1) 2. Lợi nhuận trước thuế 2.1. Lợi nhuận cấp nước 2.2. Tỷ lệ (2.1/2) 3. Nộp ngân sách 3.1. Thuế giá trị gia tăng 3.2. Thuế thu nhập 3.3. Các khoản nộp khác 4. Tỷ suất 4.1.Doanh thu/vốn nhà nước 4.2 Doanh thu/ tổng tài sản 4.3.Lợi nhuận/vốn nhà nước 4.4.Lợi nhuận/tổng tài sản 4.5. Thu nhập/người/tháng 19.176 8.003 41,7% 917 401 43,7% 2.640 949 280 1.411 176,3% 75,1% 8,42% 3,6% 1,16 29.965 12.323 41,2% 1.272 560 44,0% 2.166 1.279 316 571 137,9% 25,9% 5,85% 1,1% 1,37 33.535 15.634 46,6% 1.380 614 44,5% 2.743 2.269 400 74 25,8% 15,0% 1,06% 0,62% 1,47 40.684 20.084 49,4% 1.398 629 45,0% 3.308 2.753 450 105 26,9% 17,4% 0,93% 0,60% 1,58 60.835 30.621 50,3% 2.086 960 46,0% 6.323 4.554 550 1.219 40,2% 24,7% 1,38% 0,85% 1,88 62.359 33.860 54,3% 2.198 1.020 46,4% 7.097 4.868 561 1.568 41,1% 25,5% 1,44% 0,89% 2,21 Nguồn: [20, tr.6]. - Doanh thu tăng dần qua các năm, từ 19.176 triệu đồng năm 2002, đến năm 2007 đạt 62.359 triệu đồng; doanh thu cấp nước năm 2002 từ 8.003 triệu đồng bằng 41,7%, đến năm 2007 đạt 33.860 triệu đồng, bằng 54,3%. - Lợi nhuận trước thuế ngày càng cao, năm 2002 đạt 917 triệu đồng, năm 2007 đạt 2.198 triệu đồng. - Tỷ suất doanh thu trên vốn nhà nước năm 2002 đạt 176,3%, năm 2007 đạt 41,1%; tỷ suất doanh thu trên tổng tài sản năm 2002 đạt 75,1%, năm 2007 đạt 25,5%. - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước năm 2002 đạt 8,42%, năm 2007 đạt 1,44%. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản năm 2002 đạt 3,6%, năm 2007 đạt 0,89%. - Thu nhập của người lao động năm 2002 là 1,16 triệu đồng/người/tháng, năm 2007 đạt 2,21 triệu đồng/người/tháng. Từ thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cấp nước Thanh Hoá từ năm 2002-2007 cho thấy, Công ty hiện nay chưa phát triển được dịch vụ cấp nước mở rộng ra các địa bàn, kể cả một số xã còn lại thuộc địa bàn thành phố gần nhà máy nước như xã Quảng Thắng, xã Quảng Thành, xã Quảng Hưng và các xã của các huyện giáp gianh rất gần nhà máy cấp nước của công ty để tận dụng công suất dư thừa, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều đó càng chứng tỏ hoạt động vẫn mang tính bao cấp; nhà nước cấp vốn đầu tư, giao kế hoạch sản xuất về số lượng, giá cả, định mức chi phí, phương án giá nước tỉnh duyệt chủ yếu căn cứ vào chi phí thực tế. Công ty chưa chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không thật sự tự chủ về tài chính, không mở rộng được địa bàn phục vụ để khai thác tiềm lực hiện hữu. Mặc dù, theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán, Công ty cấp nước Thanh Hoá kinh doanh có lãi, song tỷ suất lợi nhuận trên vốn vốn nhà nước còn quá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docbia 2.doc
Tài liệu liên quan