Luận văn Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu ở Công ty Giầy Thăng Long

MỤC LỤC

Lời cảm ơn 1

Lời mở đầu 8

Phần I. Đặc điểm, vị trí của công nghiệp da - giầy và những nhân tố

ảnh hưởng đến xuất khẩu của Công ty giầy Thăng Long 10

1.1. Đặc điểm của công nghiệp da - giầy 10

1.2. Vị tí của sản xuất da - giầy trong chiến lược hướng về xuất khẩu 13

1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Công ty 15

 1.3.1. Thị trường sản phẩm giầy dép 15

1.3.2. Công cụ và chính sách vĩ mô của Nhà nước 17

 1.3.2.1. Thuế xuất khẩu 17

1.3.2.2. Hạn ngạch xuất khẩu 17

1.3.2.3. Trợ cấp xuất khẩu 18

1.3.2.4. Tỷ giá hối đoái 18

 1.3.3. Chính sách của nước nhập khẩu giầy dép 19

1.3.3.1. Thuế nhập khẩu 19

1.3.3.2. Hàng rào phi thuế quan 19

Phần II . Thực trạng xuất khẩu của Công ty giầy Thăng Long 21

2.1. Giới thiệu về Công ty giầy Thăng Long 21

2.1.1. Quá trình phát triển 21

2.1.1.1. Sự ra đời 21

2.1.1.2. Chức năng nhiệm vụ qua các giai đoạn phát triển 21

2.1.2. Cơ cấu tổ chức 22

2.1.3. Máy móc thiết bị và công nghệ 24

2.1.4. Lao động 25

2.1.5. Kết quả hoạt động kinh doanh 26

2.2. Thực trạng xuất khẩu của Công ty giầy Thăng Long 28

2.2.1. Kết quả xuất khẩu 28

2.2.2.1. Theo số lượng và kim ngạch xuất khẩu 29

2.2.1.2. Theo mặt hàng xuất khẩu 31

2.2.1.3. Theo thị trường xuất khẩu 32

2.2.1.4. Theo phương thức xuất khẩu 33

2.2.2. Những công việc Công ty đã thực hiện để thúc đẩy xuất khẩu 35

2.2.2.1. Tích cực tìm kiếm và phát triển thị trường xuất khẩu 35

2.2.2.2. Thực hiện nghiêm túc quy trình xuất khẩu 36

2.2.2.3. Từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, thiết kế mẫu mã

phù hợp với yêu cầu của thị trường 38

2.2.2.4. Tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ 39

2.2.2.5. Từng bước nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công

nhân viên 40

2.2.2.6. Tích cực tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu thay thế

 nguyên liệu nhập khẩu để đảm bảo chủ động trong sản xuất kinh doanh 41

2.2.2.7. Huy động các nguồn vốn để đầu tư mở rộng sản xuất

 kinh doanh 42

2.3. Những yếu kém chủ yếu trong xuất khẩu của Công ty 43

2.3.1. Những yếu kém 43

2.3.2. Các nguyên nhân chủ yếu 46

Phần III. Định hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công

ty giầy Thăng Long 50

3.1. Mục tiêu và định hướng xuất khẩu của Công ty 50

3.1.1. Định hướng xuất khẩu 50

3.1.2. Mục tiêu xuất khẩu 51

3.2. Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty giầy Thăng Long 52

3.2.1. Chú trọng công tác xây dựng chiến lược thị trường 52

3.2.1.1. Nội dung cơ bản của chiến lược thị trường 52

3.2.1.2. Tổ chức xây dựng chiến lược thị trường của Công ty 54

3.2.2. Hoàn thiện chính sách sản phẩm của Công ty 56

3.2.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm 59

3.2.3.1. Nâng cao chất lượng nguyên vật liệu đầu vào 59

3.2.3.2. Đầu tư đổi mới công nghệ 60

3.2.3.3. Quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế 60

3.2.3.4. Sử dụng các công cụ thống kê để kiểm soát chất lượng 61

3.2.4. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến, hỗ trợ xuất khẩu 64

3.2.4.1. Tăng cường các hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm 65

3.2.4.2. Các hoạt động khác 67

3.2.5. Sắp xếp và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên

3.2.5.1. Sắp xếp, bố trí lực lượng lao động hợp lý 68

3.2.5.2. Thực hiện việc đào tạo và đào tạo lại cho người lao động 69

3.2.5.3. Nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn lao động 70

3.3. Một số kiến nghị với Nhà nước 71

3.3.1. Hỗ trợ, cung cấp thông tin về thị trường xuất khẩu 71

3.3.2. Hỗ trợ về vốn 71

3.3.3. Có mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với các loại nguyên vật liệu

nhập khẩu 72

Kết luận 73

Danh mục tài liệu tham khảo 75

 

 

 

doc75 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu ở Công ty Giầy Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
heo phương thức trực tiếp so với tổng giá trị xuất khẩu của Công ty năm 2000 là 26%; năm 2001 là 28% và năm 2002 là 29%. Mặc dù hiện nay tỷ trọng giá trị xuất khẩu theo phương thức này chưa lớn, những đó cũng là thực trạng chung của ngành da-giầy Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác. Tỷ trọng giá trị xuất theo phương thức thức trực tiếp có xu hướng tăng dần qua các năm, điều này đã thể hiện sự nỗ lực, cố gắng của Công ty trong việc chuyển hướng hoạt động xuất khẩu của mình sang một hình thức mới với hiệu quả cao hơn 2.2.2/ Những công việc Công ty đã thực hiện để thúc đẩy xuất khẩu 2.2.2.1/ Tích cực tìm kiếm và phát triển thị trường xuất khẩu Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, thị trường xuất khẩu của Công ty Giầy Thăng Long bị thu hẹp nhanh chóng, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm sản xuất ra không có thị trường tiêu thụ, Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động của mình. Đứng trước tình hình đó, tập thể cán bộ công nhân viên Công ty đã nỗ lực chuyển hướng hoạt động sang phương thức làm ăn mới bằng cách thiết lập mối quan hệ với các đối tác đến từ các nước phát triển, chủ yếu là các nước Tây Âu. Ban đầu hoạt động xuất khẩu của Công ty còn phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài như các công ty của Hàn Quốc, Đài Loanvề thị trường. Sau một thời gian Công ty đã vươn lên tự tìm kiếm khách hàng, từng bước thiết lập các mối quan hệ làm ăn với các đối tác trực tiếp, ít phụ thuộc vào các đối tác trung gian. Các hình thức cụ thể mà Công ty sử dụng đó là tham gia các hội trợ triển lãm, thông qua đó tìm kiếm các cơ hội làm ăn, kí kết hợp đồng với các đối tác; gửi hàng mẫu tới các đối tác làm ăn, mà chủ yếu là các đối tác truyền thống thông qua hình thức chuyển phát nhanh; sử dụng thư chào hàng như một hình thức quảng cáo với chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao, thông qua hình thức này rất nhiều khách hàng sẽ biết đến sản phẩm của Công tyCó thể nói bằng những hoạt động cụ thể của mình, trong những năm qua thị trường xuất khẩu của Công ty Giầy Thăng Long đã không ngừng được mở rộng. Cho đến nay sản phẩm của Công ty đã được tiêu thụ ở 14 nước trên thế giới, trong đó có cả những thị trường được coi là khó tính như: Anh, Pháp, ItaliaTrong những năm gần đây, Công ty đặc biệt chú trọng khai thác thị trường EU, nơi mà Công ty đang có lợi thế hơn các đối thủ cạnh tranh đến từ các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc Bên cạnh đó, Công ty cũng đang tích cực tìm kiếm các đối tác làm ăn mới, tìm cách xâm nhập vào những thị trường tiềm năng như: Mỹ, Nhật và nối lại quan hệ làm ăn với các bạn hàng truyền thống ở khu vực Đông Âu và Liên Xô (cũ), nhằm mở rộng và phát triển thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu với hiệu quả cao Nhìn chung, các hoạt động tìm kiếm và phát triển thị trường xuất khẩu đã mang lại một số kết quả nhất định trong hoạt động xuất khẩu của Công ty. Tuy nhiên một số hoạt động của Công ty vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả mang lại không cao. Vì vậy trong thời gian tới Công ty cần có những biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng các hoạt động này nhằm thúc đẩy xuất khẩu. 2.2.2.2/ Thực hiện nghiên túc quy trình xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu là một quy trình phức tạp bao gồm nhiều công đoạn khác nhau. ở Công ty Giầy Thăng Long, hoạt động xuất khẩu được tiến hành theo trình tự: Thứ nhất, nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Nội dung nghiên cứu tập trung vào các vấn đề sau: + Nghiên cứu môi trường kinh doanh: mục đích là chỉ ra những cơ hội kinh doanh trên thị trường, xem xét đánh giá các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu của Công ty. + Nghiên cứu nhu cầu thị trường, nhằm xác định các loại nhu cầu về hàng hoá, sự biến động về nhu cầu, nhu cầu hiện tại, nhu cầu trong tương lai, những loại nhu cầu nào có khả năng thanh toán + Nghiên cứu về giá cả hàng hoá để xác định mức giá trung bình trên thị trường, giá cả của các đối thủ cạnh tranh, xem xét sự biến động của giá cả trên thị trườngtừ đó Công ty đưa ra chính sách giá cả hợp lý. + Nghiên cứu về cạnh tranh: xem xét mức độ cạnh tranh trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh chủ yếu, phương thức cạnh tranh trên thị trường Thứ hai, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu: sau khi đã xác định được quy mô của thị trường xuất khẩu, số lượng các đơn hàng, chủng loại sản phẩmCông ty tiến hành các hoạt động chuẩn bị sản xuất như: thiết kế mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm ( đối với những loại sản phẩm tự sản xuất ) hay nghiên cứu mẫu mã do khách hàng đưa đến ( đối với những sản phẩm xuất khẩu theo phương thức gia công), mua nguyên vật liệu, đầu tư máy móc thiết bị, xây dựng các định mức, lập kế hoạch điều hành sản xuất Thứ ba, giao dịch, kí kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Mọi hoạt động thanh toán, ký kết hợp đồng với khách hàng được thực hiện thông qua phòng xuất nhập khẩu của công ty. Việc thanh toán được tiến hành thông qua hình thức thanh toán bằng phương thức tín dụng L/C. Việc tổ chức sản xuất hàng loạt cho mỗi đơn đặt hàng sẽ được tiến hành sau khi công ty và khách hàng đã kí kết hợp đồng và khách hàng đã mở L/C. Khi đơn đặt hàng đã hoàn thành, công ty thông báo cho khách hàng biết, khi bộ phận thanh toán của công ty nhận được giấy báo có của Ngân hàng thì công ty mới xuất hàng. Công ty giao dịch với khách hàng thông qua ngân hàng nơi công ty mở tài khoản. Sơ đồ 3: Quy trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu Ký hợp đồng xuất khẩu Kiểm tra L/C Xin giáy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng Uỷ thác thuê tầu Kiểm nghiệm hàng hóa Giải quyết khiếu nại Làm thủ tục thanh toán Mua bảo hiểm Giao hàng lên tầu Làm thủ tục hải quan Có thể nói những kết quả mà Công ty đạt được trên lĩnh vực xuất khẩu những năm gần đây một phần là do Công ty đã thực hiện nghiêm túc quy trình xuất khẩu từ khâu nghiên cứu thị trường xuất khẩu đến khâu tạo nguồn hàng xuất khẩu và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên trong mỗi khâu của quy trình xuất khẩu, Công ty vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém, đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp cụ thể để khắc phục nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trong thời gian tới. 2.2.2.3/ Từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, thiết kế mẫu mã phù hợp với yêu cầu của thị trường Trong hoạt động xuất khẩu, chất lượng và kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm được coi là những yếu tố rât quan trọng để xâm nhập và đứng vững trên thị trường, đặc biệt là thị trường các nước phát triển, nơi mà yêu cầu về chất lượng và kiểu dáng, mẫu mã được đặt lên hàng đầu. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, trong những năm gần đây Công ty Giầy Thăng Long đã có nhiều cố gắng trong việc cải tiến chất lượng sản phẩm, chú trọng khâu thiết kế mẫu mã, kiểu dáng sao cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Điều này được thể hiện qua những biện pháp cụ thể mà Công ty đã và đang thực hiện như tăng cường công tác sàng lọc, lựa chọn nguyên phụ liệu phục vụ cho quá trình sản xuất, cung cấp nguyên phụ liệu đúng quy cách, chủng loại và chất lượng; quản lý chặt chẽ các định mức trong sản xuất, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát, từ đó kịp thời phát hiện những trục trong quá trình sản xuất và đưa ra những biện pháp để khắc phục; chú trọng công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm; có chế độ khen thưởng những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời cũng có những hình thức xử lý nghiêm khắc đối với những đơn vị, cá nhân làm ra những sản phẩm không đảm bảo chất lượng Trong công tác thiết kế mẫu mã sản phẩm, Công ty đã bớt dần sự lệ thuộc vào các đối tác, mà chủ động tìm hiểu yêu cầu của thị trường từ đó đưa vào sản xuất những sản phẩm với kiểu dáng, mẫu mã đẹp, hợp thời trang. Đồng thời, Công ty cũng đã có kế hoạch cử cán bộ đi đào tạo để nâng cao trình độ và khả năng thiết kế mẫu mã sản phẩm. Bằng những việc làm cụ thể của mình, trong những năm gần đây chất lượng sản phẩm của Công ty đã được nâng lên rõ rệt; kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của thị trường; Công ty đã từng bước tạo dựng được uy tín trong hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế. Đây chính là những tiền đề quan trọng tạo đà cho những bước phát triển của Công ty trong thời gian tới. Tuy nhiên, để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường, trong thời gian tới Công ty cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, chú trọng hơn nữa công tác thiết kế kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm. 2.2.2.4/ Tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ. Khi mới thành lập Công ty Giầy Thăng Long sử dụng dây chuyền công nghệ sản xuất của Liên Xô đã có từ những năm 80 với hầu hết máy móc thiết bị cũ kĩ, lạc hậu, dẫn đến năng suất thấp, chất lượng kém. Để nâng cao năng lực sản xuất và đổi mới dây chuyền công nghệ, Công ty đã hợp tác với các công ty nước ngoài, cụ thể như: + Năm 1992-1993 Công ty hợp tác với Công ty P.D.G của Thái Lan + Năm 1994 Công ty hợp tác với Công ty ChiarMings của Đài Loan + Năm 1995 Công ty hợp tác với Công ty ASE của Hàn Quốc + Năm 1996 Công ty hợp tác với Công ty YENKEN của Đài Loan Chính những sự hợp tác trên đã giúp Công ty chủ động trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu sản phẩm, từng bước đáp ứng được yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng và chủng loại sản phẩm, góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty. Bên cạnh đó, để mở rộng thị trường và đa dạng hoá sản phẩm nhằm thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của thị hiếu người tiêu dùng, tháng 8/1996 Công ty đã đầu tư gần 10 tỷ đồng để mở rộng thêm nhiều dây chuyền thiết bị đồng bộ phục vụ cho việc sản xuất mặt hàng mới đó là giầy thể thao. Có thể nói đây là một quyết định rất đúng đắn của Công ty, bởi hiện nay mặt hàng giầy thể thao đang rất được ưu chuộng và có nhu cầu lớn trên thị trường thế giới, trong khi đó Công ty lại tận dụng được năng lực về nhà xưởng, đội ngũ lao độngvà giảm bớt được tính mùa vụ trong sản xuất và xuất khẩu giầy. Tháng 9/1997 công ty đã đầu tư thêm một dây chuyền lắp ráp giầy vải nhằm tận dụng năng lực của bộ phận may mũ giầy và bộ phận dán keo, đồng thời cũng tận diện tích của nhà xưởng 2. Hiện nay Công ty cũng đang có kế hoạch đầu tư mở rộng sản xuất, đổi công nghệ để có thể đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao trên thị trường, đồng thời có thể đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Chính việc đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ mà Công ty đã và đang tiến thực hiện, đã giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm lao động, nâng cao năng lực sản xuất và góp phần đẩy mạnh xuất khẩu. 2.2.2.5/ Từng bước nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên Qua thống kê về lao động của Công ty Giầy Thăng Long cho thấy: tổng số lao động là 3200; trong đó lao động nữ chiếm gần 80%; lao động trực tiếp sản xuất chiếm đại đa số, còn lao động gián tiếp và lao động làm công tác quản lý chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Trong những năm gần đây, đội ngũ lao động kể cả cán bộ làm công tác quản lý và công nhân dần dần được trẻ hoá, tuổi đời trung bình là 30. Trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu của lao động trong sản xuất giầy là lao động chuyên môn hoá, lao động đã qua đào tạo để có thể sử dụng được máy móc, thiết bị trong quá trình sản xuất. Để đẩy mạnh xuất khẩu, Công ty rất chú trọng đến việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên bằng những biện pháp cụ thể và thiết thực như tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên đi học thêm ở các trường đại học ( đối với đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và đội ngũ kế cận ), các trường trung cấp, dạy nghề ( đối với đội ngũ công nhân) hay tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn do ngành tổ chức, để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh; tổ chức các cuộc thi tay nghề, thi thợ giỏi; phát động phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và có những hình thức khen thưởng, động viên kịp thời. Bên cạnh đó Công ty cũng rất chú trọng khẩu tuyển chọn lao động, đối với đội công nhân sản xuất trực tiếp Công ty có kế hoạch tuyển học sinh tốt nghiệp PHTH sau đó cho họ đi đào tạo ở các trường dạy nghề trước khi bố trí họ vào làm chính thức; đối với lao động gián tiếp và lao động quản lý, trong khâu tuyển chọn Công ty chú trọng đến việc kiểm tra trình độ chuyên môn nghiệp và khả năng giao tiếp, qua đó sàng lọc để chọn ra những người phù hợp với công việc. Với những nỗ lực đó, hiện nay Công ty đã có một đội ngũ lao động khá hùng hậu với tỷ lệ công nhân lành nghề lên tới gần 80%, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý có trình độ đại học khá cao ( 80 người ). Đây là nhân tố rất quan trọng góp phần vào những kết quả mà Công ty đã đạt được trong những năm qua trên lĩnh vực xuất khẩu và nó cũng tạo đà cho sự phát triển của Công ty trong năm tới. 2.2.2.6/ Tích cực tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu thay thế nguyên liệu nhập khẩu để đảm bảo chủ động trong sản xuất kinh doanh Giầy là sản phẩm được tạo lên bởi nhiều nguyên vật liệu khác nhau, trong đó có thể kể đến một số loại chính đó là: Da, vải các loại; hoá chất các loại; keo dán; cao su; chỉ. Cũng như hầu hết các doanh nghiệp sản xuất giầy của nước ta, hiện nay Công ty Giầy Thăng Long phải nhập từ 60 đến 70% nguyên vật liệu để phục vụ cho quá trình sản xuất. Có thể nói đây là một trở ngại rất lớn đối với Công ty trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên bằng nỗ lực của mình Công ty đã tổ chức được một mạng lưới thu mua nguyên vật liệu rộng rãi, đảm bảo chất lượng và cung ứng kịp thời cho sản xuất. Đối với các loại nguyên vật liệu không có sẵn trên thị trường, Công ty tổ chức mua và dự trữ để khi cần là có ngay nguyên liệu cung cấp cho sản xuất. Bên cạnh đó, Công ty cũng rất chú trọng tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu trong nước để thay thế nguyên vật liệu nhập khẩu. Năm 1995 Công ty đã thành công trong việc nghiên cứu sử dụng một số loại nguyên vật liệu trong nước, điều này đã làm giảm đáng kể lượng nguyên vật liệu nhập khẩu, giúp Công ty chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh, đồng thời hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế, từ đó thúc đẩy xuất khẩu phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. 2.2.2.7/ Huy động các nguồn vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh Mặc dù là một doanh nghiệp nhà nước nhưng vốn được hình thành từ ngân sách nhà nước của Công ty Giầy Thăng Long chiếm tỉ lệ không cao ( hàng năm chỉ chiếm khoảng trên 40% tổng vốn sản xuất kinh doanh ). Trước yêu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, Công ty đã tích cực huy động vốn từ các nguồn khác nhau, trong đó vốn vay từ các ngân hàng chiếm tỷ lệ lớn và một phần được huy động từ các nguồn khác như tín dụng ưu đãi xuất khẩu, các nguồn tài trợ và thậm chí là cả vốn huy động từ đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty. Vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh chiếm tỷ lệ cao nhất trong năm 2000 là 15% tương đương với khoảng 12 tỷ đồng ( chủ yếu là đầu tư vào máy móc và cải tạo nhà xưởng phục vụ sản xuất ), năm 2001 là 11,5% và năm 2002 tỷ lệ này là 13%. Trong những năm qua, bên cạnh việc tích cực huy động các nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của Công ty cũng được nâng lên rõ rệt. 2.3/ Những yếu kém chủ yếu trong xuất khẩu của công ty 2.3.1/ Những yếu kém Mặc dù trong những năm qua Công ty Giầy Thăng Long đã có rất nhiều cố gắng để đẩy mạnh xuất khẩu và đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên trong hoạt động xuất khẩu của mình, Công ty vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, cụ thể là: Thứ nhất: Quy mô thị trường xuất khẩu còn nhỏ bé. Hiện nay thị trường xuất khẩu của chủ yếu Công ty vẫn là các nước EU, với quy mô còn nhỏ bé. Điều này được thể hiện qua số lượng thị trường mà Công ty xâm nhập được ở khu vực này là 8 trên tổng số 15 nước; kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này năm 2002 đạt 6,81 triệu USD so với giá trị nhập khẩu giầy dép của khu vực này là khoảng 14 tỷ USD, thì rõ ràng thị phần mà Công ty có được là quá nhỏ bé trên một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng. Nếu so sánh với các công ty sản xuất và xuất khẩu giầy lớn trong nước thì quy mô thị trường xuất khẩu của Công ty vẫn còn thua xa; con số 6,81 triệu USD giá trị xuất khẩu của Công ty trong năm vừa qua so với 1,828 tỷ USD giá trị xuất khẩu của toàn ngành da-giầy cho thấy Công ty Giầy Thăng Long có một vị trí còn khá khiêm tốn trong ngành da-giầy Việt Nam. Chính sách tập trung vào thị trường trọng điểm EU của công ty tuy có những ưu điểm song bên cạnh đó còn có những hạn chế nhất định. Quá tập trung vào một thị trường thì khi thị trường đó biến động, công ty sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn và gặp nhiều rủi ro. Trong thời điểm hiện nay, Việt Nam đang được EU cho hưởng quy chế ưu đãi chung “ GSP”, nhờ đó hàng hoá Việt Nam vào được thị trường này một cách dễ dàng, các sản phẩm da giầy không bị đánh thuế nhập khẩu nên giá cả có thể cạnh tranh được với hàng hoá từ Trung Quốc. Nhưng đến năm 2006, EU sẽ bãi bỏ chế độ GSP đối Việt Nam và một số nước khác và nếu như EU có chính sách mới ngăn cản hàng của Việt Nam vào EU thì hoạt động của Công ty sẽ bị bế tắc. Hơn nữa thị trường EU có quá nhiều đối thủ cạnh tranh mà xét về tiềm lực kinh tế thì họ lại hơn hẳn. Trong khi đó, các thị trường mới đầy tiềm năng như Mỹ, Nhật thì không được công ty quan tâm khai thác. Thị trường Mỹ với dân số trên 260 triệu người có nhu cầu rất lớn về giầy dép, hàng năm Mỹ nhập khoảng 1.4 tỷ đôi giầy dép từ các nước với tổng kim ngạch khoảng 13 tỷ USD. Một điều thuận lợi nữa khi xuất khẩu giầy dép sang thị trường Mỹ mà công ty đã bỏ qua đó là Việt Nam và Mỹ đã kí hiệp định thương mại, theo đó hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ sẽ gặp rất nhiều thuận lợi, kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng lên nhiều. Thị trường Nhật rất gần với ta và có dân số đông, nhu cầu sử dụng lớn, mức sống cao, song Công ty lại chưa đề ra mục tiêu xâm nhập. Điều này rõ ràng thể hiện sự yếu kém của Công ty trong hoạt động xuất khẩu, đòi hỏi trong thời gian tới Công ty phải có phương hướng khắc phục để từ đó đẩy mạnh xuất khẩu. Thứ hai: Sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế chưa cao. Điều này được thể hiện trước tiên qua chất lượng sản phẩm của Công ty. Mặc dù trong những năm gần đây Công ty đã có nhiều cố gắng để nâng cao chất lượng sản phẩm, tuy nhiên chất lượng của sản phẩm vẫn ở mức trung bình, tỷ lệ phế phẩm trong quá trình sản xuất còn cao: năm 2001 tỷ lệ phế phẩm chiếm tới 2,3% tổng số sản phẩm sản xuất ra ( tương ứng với 106.000 đôi trên tổng số gần 4.610.000 đôi được sản xuất ra ), năm 2002 tỷ lệ phế phẩm chiếm 2,1% ( tương ứng với khoảng 117.600 đôi trên tổng số 5.600.000 đôi được sản xuất ra ). Chính điều này đã gây thiệt hại lớn cho Công ty, nhiều lô hàng không đảm bảo chất lượng bị trả lại, chí phí cho việc sửa chữa sản phẩm hỏng là rất lớn, dẫn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh bị giảm sút, uy tín của Công ty trên thị trường quốc tế bị ảnh hưởng. Giầy dép bên cạnh công dụng là bảo vệ và giữ ấm đôi chân, nó còn là sản phẩm có tính thời trang, tôn vinh vẻ đẹp của con người, vì vậy kiểu dáng mẫu mã là yếu tố đóng vai trò rất quan trọng trong quyết định tiêu dùng của khách hàng, đồng thời nó cũng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của thị hiếu người tiêu dùng. Nhu cầu về sản phẩm giầy dép cũng rất đa dạng, từ các loại giầy dép phục vụ cho nhu cầu đi lại đến các loại giầy thể thao, giầy dép chuyên dụng, giầy bảo hộ lao động Tuy nhiên hiện nay chủng loại sản phẩm của Công ty còn nghèo nàn, kiểu dáng, mẫu mã còn đơn giản, chưa theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng của thị hiếu người tiêu dùng. Chính điều này đã làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, gây trở ngại lớn cho hoạt động xuất khẩu của Công ty. Bên cạnh đó, giá cả sản phẩm của Công ty vẫn còn cao, do năng suất lao động thấp, chi phí cho nguyên vật liệu nhập khẩu cao từ đó dẫn đến chi phí sản xuất và giá thành đơn vị sản phẩm cao. Điều nay cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm, gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của Công ty. Thứ ba: Hiệu quả hoạt động xuất khẩu còn thấp. Điều này được thể hiện qua tỷ lệ gia công trong tổng giá trị xuất khẩu còn cao, hàng năm chiếm trên 70%. Dù phương thức gia công xuất khẩu có 3 mức độ khác nhau, trong đó hiện nay Công ty Giầy Thăng Long chủ yếu xuất khẩu theo hình thức nhập nguyên liệu chính của bên đặt gia công và tự lo nguyên liệu phụ, nhưng hiệu quả kinh tế mang lại vẫn rất thấp do giá nguyên vật liệu nhập khẩu cao, đồng thời việc phụ thuộc vào bên đặt gia công về kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm và các loại nguyên vật liệu chính nên khi định giá sản phẩm Công ty sẽ chịu nhiều thua thiệt. Rõ ràng khi hoạt động xuất khẩu của Công ty vẫn còn bị phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài thì hiệu quả kinh tế mang lại là rất thấp. Bên cạnh đó, trong phương thức gia công xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm của Công ty còn thấp. Hiện nay Công ty đang phải nhập khoảng từ 60 đến 70% nguyên vật liệu đầu vào, trong khi đó nguyên vật liệu lại chiếm trên 70% trong cơ cấu giá thành sản phẩm, dẫn đến giá thành sản phẩm sản xuất rất cao, Công ty lại không thể bán sản phẩm với giá cao do sức ép từ các đối thủ cạnh tranh, do đó lợi nhuận mang lại rất thấp, điều này cũng đồng nghĩa với hiệu quả hoạt động xuất khẩu thấp. Thứ tư: Chưa chủ động trong xuất khẩu. Hiện nay, do tỷ lệ gia công cao nên trong hoạt động xuất khẩu Công ty vẫn còn phụ thuộc về mẫu mã sản phẩm, các loại nguyên vật liệu chính và thậm chí là toàn bộ nguyên vật liệu từ phía đặt gia công. Bên cạnh đó hoạt động xuất khẩu của Công ty vẫn chủ yếu dựa vào các đơn đặt hàng, Công ty chưa tự chủ về thị trường tiêu thụ sản phẩm, do đó số lượng và giá trị xuất khẩu các loại sản phẩm do Công ty tự thiết kế và tìm kiếm thị trường tiêu thụ còn nhỏ bé. Ngoài ra, do vẫn còn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên vật liệu nhập ngoại ( chiếm từ 60 đến 70% ), nên nhiều khi hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ, gây ra những thiệt hại lớn cho Công ty. 2.3.2/ Các nguyên nhân chủ yếu Những yếu kém của Công ty trong hoạt động xuất khẩu là do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất: Việc xây dựng chiến lược thị trường còn mang tính chủ quan, cảm tính, thiếu vắng sự phân tích, đánh giá môi trường kinh doanh, thiếu căn cứ khoa học. Do đó trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động xuất khẩu, Công ty còn thiếu nhạy bén trong việc nắm bắt các cơ hội kinh, doanh chưa có khả năng ứng phó nhanh nhạy với những biến động trên thị trường, trong khi thị hiếu của người tiêu dùng lại thay đổi nhanh chóng, điều nay đã gây khó khăn lớn cho việc duy trì và mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Mặt khác, sự yếu kém trong công tác xây dựng chiến lược thị trường cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bị động trong việc hoạch định chương trình sản xuất kinh doanh vì không có được những căn cứ chính xác về nhu cầu của thị trường, điều này cũng gây khó khăn cho việc khai thác các nguồn tiềm tàng của doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Thứ hai: Hệ thống máy móc, thiết bị của Công ty mặc dù đã được đầu tư, mua sắm nhiều, những vẫn còn thiếu đồng bộ. Có những bộ phận hệ thống máy móc thiết bị hiện đại chiếm tỷ lệ rất cao như bộ phận May đạt tới 87 đến 98% hay bộ phận Cán đạt 95%, trong khi có những bộ phận tỷ lệ thiết bị, máy móc cũ, lạc hậu chiếm tỷ lệ cao như bộ Cắt và Gò chiếm tới 50%. Bên cạnh đó trong dây chuyền sản xuất có nhiều loại máy móc thiết bị của nhiều nước như: Đài Loan, Trung Quốc, Liên Xô ( cũ ), Tiệp Khắctrong đó có một bộ phận máy móc, thiết bị của Liên Xô và một số nước Đông Âu rất lạc hậu, đã khấu hao hết nhưng hiện nay vẫn đang được sử dụng. Chính điều này đã dẫn đến năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, chủng loại sản phẩm còn nghèo nàn, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm còn đơn giản và chưa theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng của thị hiếu người tiêu dùng, dẫn đến sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường còn thấp, đặc biệt là thị trường quốc tế, đây cũng là nguyên nhân của việc Công ty chưa có nhiều mối quan hệ làm ăn lâu dài và ổn định với các đối tác nước ngoài, tạo trở ngại cho việc mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu của Công ty. Thứ ba: Công ty chưa hoàn toàn chủ động trong khâu cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu thay thế nguồn nhập khẩu, nhưng hiện nay Công ty vẫn đang phải nhập từ 60 đến 70% lượng nguyên vật liệu để phục vụ cho sản xuất. Trong khi nguồn nguyên vật liệu không phải bao giờ cũng có sẵn, bên cạnh đó giá cả lại cao, chất lượng nhiều khi không đảm bảo và thiếu đồng bộ về chủng loại. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bị động trong sản xuất, nhiều khi còn làm cho sản xuất bị đình trệ, dẫn đến chậm trễ trong việc thực hiện các đơn hàng, làm giảm uy tín của Công ty trong hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế, đồng thời cũng làm mất cơ hội trong kinh doanh. Thứ tư: Trình độ lao động còn nhiều hạn chế, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác xuất khẩu. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng yếu kém trong hoạt động xuất khẩu của Công ty Giầy Thăng Long bởi vì trình độ của độ ngũ lao động có ảnh hưởng rấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4618.doc
Tài liệu liên quan