Luận văn Nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng của sự phân công vai trò giữa người cha và người mẹ trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở độ tuổi vị thành niên

Vấn đề “Giới” là một vấn đề được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, thông qua các nghiên cứu về gia đình và phụ nữ.

Trong tác phẩm “Nguồn gốc gia đình và chế độ tư hữu Nhà Nước.” Ăng-gen đã đề cập đến sự hình thành và phát triển của gia đình. Bên cạnh đó ông còn xem xét vấn đề bình đẳng Nam - Nữ trong mối quan hệ gia đình và xã hội trong quá trình biến đổi của xã hội.

Ở Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu về Giới đi sâu vào các khía cạch khác nhau của vấn đề này.

Trong cuốn sách “Phụ nữ Việt Nam trong gia đình và ngoài xã hội.” NXB Lao Động do Lê Minh chủ biên, các tác giả đã đi sâu phân tích sự bất bình đẳng giới trong các công việc gia đình khiến cho người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi.

 

doc87 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1985 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng của sự phân công vai trò giữa người cha và người mẹ trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở độ tuổi vị thành niên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực giáo dục đạo đức cho trẻ vị thành niên vẫn là một xu hướng có tính phổ biến trong các gia đình hiện nay. Cùng là sự phân công vai trò giáo dục nhưng giữa xã hội truyền thống và xã hội hiện nay có sự khác nhau về nội dung. Trong xã hội truyền thống, con trai được học chữ và học những quy tắc đạo đức Khổng Tử còn con gái chỉ được học nữ công gia chánh và những quy tắc ứng xử của một người phụ nữ trong gia đình. Vì vậy mà trong gia đình, người cha thường đảm nhận việc giáo dục đạo đức cho con trai còn người mẹ đảm nhận việc truyền thụ cho con gái những nội dung mà xã hội yêu cầu ở một người phụ nữ. Khác với những khuôn mẫu của thời phong kiến, ngày nay, người phụ nữ - người mẹ lại đảm nhận trách nhiệm giáo dục đạo đức cho con cái là chính mặc dù trong quan niệm của mình, người đàn ông vẫn cho rằng họ mới là người có trách nhiệm cao hơn trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên. Trong những phần sau, các số liệu điều tra và các thông tin thu thập được về thời gian giáo dục đạo đức cho con cái trong ngày, về người có trách nhiệm giáo dục đạo đức cao hơn cho con cái trong gia đình sẽ cho chúng ta thấy rõ sự mâu thuẫn giữa nhận thức, quan niệm và hành động giáo dục đạo đức thực tế của người cha và sự phân công vai trò giáo dục đạo đức cho con cái trong độ tuổi vị thành niên giữa người cha và người mẹ. * Biểu đồ 4 tương quan giới - ai có trách nhiệm cao hơn. Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy: tỉ lệ nam giới quan niệm rằng cha là người có trách nhiệm cao hơn trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở độ tuổi vị thành niên cao hơn tỷ lệ nữ giới ( 62,9% nam giới so với 37,1% nữ giới) còn tỉ lệ nữ giới cho rằng mẹ là người có trách nhiệm cao trong giáo dục đạo đức cho con cái lại cao hơn tỉ lệ nam giới (38,9% nam giới trong khi đó nữ giới chiếm 61,1% trong số những người trả lời mẹ có trách nhiệm giáo dục cao hơn). Như vậy, cả hai giới đều nhận trách nhiệm cao hơn về mình trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở độ tuổi vị thành niên. Chúng ta có thể nhìn vào biểu đồ tương quan giới về lý do tại sao người cha hay người mẹ lại cho rằng mình có trách nhiệm cao hơn trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ ở tuổi vị thành niên. * Biểu đồ 5 - tại sao lại có trách nhiệm giáo dục cao hơn (%) a. Mẹ có nhiều thời gian hơn cha d. Cách giáo dục của cha khác mẹ b. Thiên chức của người phụ nữ e. Cha có quyền cao nhất c. Cha là trụ cột f. cha có hiểu biết kinh nghiệm g. Cha mẹ có trách nhiệm như nhau Ta có thể thấy các lý do trên thể hiện rất rõ quan niệm về sự chênh lệch trong năng lực, phẩm chất, địa vị và vai trò của nam giới và nữ giới trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở độ tuổi vị thành niên . Tất cả những lý do trên được tổng hợp một cách chính xác và trung thực từ những phương án cụ thể mà người trả lời đưa ra trước câu hỏi “ Tại sao cha (mẹ) lại có trách nhiệm cao hơn trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở độ tuổi vị thành niên ?”. Trong những phương án đưa ra để giải thích tại sao cha là người có trách nhiệm cao, ta thấy tỉ lệ nam giới đều cao hơn so với nữ giới. Ví dụ như 78,3% nam giới cho rằng cha biết cách giáo dục hơn mẹ trong khi chỉ có 21,7% nữ giới công nhận điều này. Hay tỉ lệ nữ giới cho rằng vì cha là trụ cột trong gia đình nên cha là người có trách nhiệm giáo dục đạo đức cho con cái cao hơn mẹ chỉ chiếm 25,0% trong khi nam giới chiếm tỉ lệ rất cao, lên tới 75%. Đối với hai phương án: cha là người có quyền lực cao nhất trong gia đình và cha là người có hiểu biết xã hội, có kinh nghiệm sống nhiều hơn mẹ thì tỉ lệ phần trăm tương quan giữa nam và nữ cũng có sự chênh lệch như trên (tỉ lệ % của nam giới gấp đôi so với tỉ lệ phần trăm của nữ giới : 66,7% so với 33,3% và 63,6% so với 36,4%.) Điều đặc biệt ở đây là ý nghĩa của các phương án được đưa ra. Ta có thể thấy tất cả các phương án đưa ra giải thích tại sao cha lại là người có trách nhiệm giáo dục cao hơn mẹ đều có tỉ lệ % nam giới cao hơn nữ giới. Các phương án này đều nói lên sự vượt trội, hơn hẳn về năng lực, phẩm chất của người đàn ông so với người phụ nữ và đặc biệt là sự khẳng định quyền lực và địa vị cao nhất của người đàn ông trong gia đình. Như vậy, trong quan niệm của người đàn ông thì sự bình đẳng giới gần như không tồn tại bởi lẽ họ cho rằng người phụ nữ luôn thua kém họ về mọi mặt, từ năng lực, phẩm chất cá nhân đến vị thế xã hội. Chính vì sự vượt trội này mà họ cho rằng mình phải đảm nhận trách nhiệm cao hơn trong mọi công việc trong đó có cả việc giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên. Nếu chỉ dựa vào những câu trả lời và dãy số liệu trên thì dường như ta có thể đi đến kết luận rằng trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở độ tuổi vị thành niên, người nam giới là người nắm giữ trách nhiệm chính còn người phụ nữ chỉ đóng vai trò tham gia. Tuy nhiên, đây chỉ là bề nổi của tảng băng, nó không phản ánh đúng thực trạng của vấn đề. Muốn đánh giá đúng thực trạng của sự phân công vai trò giới trong giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên người ta còn phải căn cứ vào rất nhiều yếu tố khác như: thời gian giáo dục, nội dung giáo dục đạo đức . . . Ngược lại với những người đàn ông, những người phụ nữ khi nhận trách nhiệm giáo dục cao hơn về phía mình lại đưa ra những lý do giải thích gắn liền với nghĩa vụ và phận sự của mình. Có 54,4% nữ giới cho rằng người mẹ có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn người cha nên người mẹ có trách nhiệm giáo dục đạo đức cho con cái cao hơn người cha. Tuơng tự như vậy 62,5% là tỉ lệ nữ giới trả lời mẹ có trách nhiệm cao hơn cha vì thiên chức của người phụ nữ là chăm sóc, nuôi dạy con cái, người phụ nữ vốn rất dịu dàng và gần gũi với con cái nên đó là trách nhiệm của người mẹ. Có 83,3% nữ giới cho rằng con cái có ngoan ngoãn hay hư hỏng là do cách giáo dục, dạy dỗ của người mẹ nên người mẹ phải có trách nhiệm cao hơn người cha trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên. Có thể nói, sự bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại một phần cũng là do người phụ nữ. Họ chưa có nhận thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong gia đình và ngoài xã hội cũng như chưa có những kiến thức về giới . Bằng chứng là họ luôn nhận về mình phần lớn trách nhiệm trong công việc gia đình từ việc nội trợ, giặt giũ, don dẹp nhà cửa, chăm sóc chồng con, lo toan tài chính gia đình . . . đến cả việc giáo dục con cái họ cũng coi như đó là thiên chức của một người phụ nữ - người mẹ. Trong đó có những công việc đòi hỏi cả hai giới phải cùng gánh vác trách nhiệm thì mới có thể đạt kết quả tốt được. Nói như vậy nhưng ta lại phải xét đến những nguyên nhân sâu xa khác đó là những nguyên nhân từ phía xã hội. Có rất nhiều thế hệ của những người phụ nữ và nam giới đã được sinh ra nhưng hệ thống giá trị chuẩn mực cũ, hệ tư tưởng Nho giáo phong kiến mà mô hình gia đình kiểu mẫu là gia đình gia trưởng từ bao nhiêu đời nay vẫn còn tồn tại và đã ăn sâu vào nhận thức của mỗi con người. Bởi thế mà những người đàn ông thì luôn tự gắn cho mình những quyền lợi cao nhất, những năng lực, phẩm chất vượt trội, hơn hẳn so với những người phụ nữ. Họ luôn quan niệm rằng đã là người đàn ông thì phải gánh vác những công việc ngoài xã hội và có trách nhiệm cao trong những việc lớn của gia đình bao gồm cả việc giáo dục đạo đức cho con cái. Còn người phụ nữ luôn bị xã hội gán cho những địa vị thấp kém. Họ phải lùi sâu vào trong nhà, đảm nhận những công việc “rất nhỏ bé ” là làm vợ, làm mẹ, dọn dẹp nhà cửa, nội trợ, chi tiêu, chăm sóc chồng con . . . Đó là những công việc phải mất rất nhiều thời gian và sức lực, chưa kể đến sự đóng góp đáng kể cho xã hội một cách gián tiếp nhưng lại không được nhắc tới và không được đánh giá đúng với công sức và gía trị của nó. Sự phân công lao động diễn ra giữa người đàn ông và người phụ nữ tạo thành một kiểu gia đình hợp lực nhưng người nam giới bao giờ cũng ở vào vị trí thuận lợi hơn nữ giới trong trật tự các mối quan hệ về giới trong gia đình. Chính vì vậy mà người phụ nữ cho rằng trách nhiệm của mình là chăm sóc, dạy dỗ con cái. Bên cạnh đó, cả hai giới đều cho rằng những đặc điểm năng lực, phẩm chất cá nhân của mình phù hợp với việc giáo dục đạo đức cho con cái hơn nhưng đó là một quan niệm không đúng đắn và hơi có phần thiên lệch giới. Bởi vì nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng một đứa trẻ muốn phát triển hoàn thiện cả về năng lực và phẩm chất đạo đức cần phải có sự tham gia của cả hai giới, của cả cha lẫn mẹ, trong việc giáo dục. Như vậy cả cha và mẹ đều phải cùng gánh vác trách nhiệm này như nhau. Vì thế mà “cha có hiểu biết, kinh nghiệm sống nhiều hơn mẹ” hay “mẹ là người dịu dàng ân cần, chu đáo” cũng đều cần thiết cho sự trưởng thành trong nhân cách đạo đức của một đứa trẻ. 3.2 Thời gian giáo dục đạo đức của cha và mẹ: Nền kinh tế thị trường hiện nay không những không đem lại sự nhàn hạ cho người lao động như trong thời kì bao cấp trước đây mà còn khiến họ trở nên rất bận rộn với việc kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do vậy mà thời gian dành cho con cái cũng ít hơn trước. Tuy vậy, đặc điểm nghề nghiệp và việc làm cũng là yếu tố quyết định đến thời gian làm việc ngoài xã hội và thời gian dành cho con cái. Với cơ cấu nghề nghiệp của mẫu nghiên cứu chiếm đa phần là cán bộ công nhân viên chức 68.9% nên thời gian dành cho việc giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên vẫn khá nhiều. Có 85.5% người trong số 180 người được hỏi trả lời là thường xuyên giáo dục đạo đức cho con cái, còn tỷ lệ % người trả lời thỉnh thoảng mới giáo dục con cái hay chỉ khi trẻ có vấn đề mới giáo dục thì rất ít chỉ có 5.6% và 8.9%. * Biểu đồ 6: tần suất - thời gian giáo dục trong ngày (%) Nếu so sánh tương quan nghề nghiệp và thời gian dành cho việc giáo dục con cái thì ta thấy những gia đình cán bộ công nhân viên chức dành nhiều thời gian giáo dục cho con hơn là những gia đình làm nghề buôn bán, dịch vụ và những nghề khác. Sở dĩ những gia đình CBCNVC thường xuyên giáo dục con cái ở tuổi vị thành niên hơn do đặc trưng của nghề nghiệp là khoảng thời gian làm việc cố định trong một ngày và chỉ có 8h/ngày. Còn các gia đình khác thì khoảng thời gian này thường không cố định, lại kéo dài, có khi diễn ra cả ngày nên họ không có nhiều thời gian để giáo dục cho con cái. Vì vậy mà tỷ lệ % cha mẹ ở các gia đình này lựa chọn phương án thường xuyên giáo dục con cái không cao như của các gia đình viên chức nhà nước. Trong cơ cấu mẫu thu được sau khi xử lý thông tin thì gia đình CBCNVC chiếm tỷ lệ lớn nhất. Có thể điều này cũng là một nguyên nhân dẫn tới xu hướng cha mẹ thường xuyên giáo dục đạo đức cho con cái trong độ tuổi vị thành niên. Tuy nhiên điều này lại đem lại một thực tế đáng buồn cho mối quan hệ giới trong gia đình và sự bình đẳng giới nói chung. Nếu chỉ dựa vào những số liệu cho thấy ai là người có trách nhiệm giáo dục đạo đức cao hơn thì chưa đủ cơ sở để đi đến một kết luận về người đảm nhiệm vai trò chính trong việc giáo dục đạo đức cho con. Bởi vì nó chỉ thể hiện quan niệm của người cha và người mẹ về trách nhiệm giáo dục con cái. Muốn đánh giá chính xác sự phân công vai trò giới trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên ta cần phải dựa vào yếu tố thời gian dành cho việc giáo dục đạo đức của cha và mẹ. Người đàn ông quan niệm rằng họ có trách nhiệm giáo dục cao hơn người phụ nữ vì những đặc điểm năng lực, phẩm chất cá nhân của họ vượt trội hơn so với người phụ nữ nhưng trong thực tế, những số liệu thu được về thời gian dành cho việc giáo dục đạo đức cho con cái của cả hai giới lại phản ánh ngược lại. *Biểu đồ 8: tương quan - thời gian giáo dục đạo đức trong ngày (%) Có sự chênh lệch lớn trong thời gian dành cho việc giáo dục đạo đức cho trẻ vị thành niên giữa người cha và người mẹ. Tỉ lệ % nữ giới trả lời là thường xuyên giáo dục đạo đức cho trẻ vị thành niên cao gấp đôi so với nam giới. Có 67.5% nữ giới thường xuyên giáo dục đạo đức cho con cái trong khi chỉ có 32.5% là nam giới. Nhìn vào cơ cấu nghề nghiệp của 180 mẫu nghiên cứu ta thấy nghề nghiệp cán bộ công nhân viên chức là tập trung nhất và có tỉ lệ cao nhất trong số 3 loại nghề nghiệp: Cán bộ công nhân viên chức, Buôn bán - dịch vụ, nghề khác. Với số giờ lao động 8 tiếng trong cơ quan Nhà nước như nhau nhưng tỉ lệ nam giới thường xuyên giáo dục đạo đức cho con cái lại chỉ bằng 1/2 so với nữ giới. Điều đó có nghĩa là người mẹ là người thường xuyên giáo dục con cái ở tuổi vị thành niên hơn là người cha. Như vậy cũng có nghĩa là trong việc giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên giữa người cha và người mẹ có sự phân công vai trò. Mối quan hệ giới trong giáo dục xét trong lĩnh vực giáo dục đạo đức cho con cái lại có sự bất bình đẳng và phần thiệt thòi này lại thuộc về người phụ nữ. Những người đàn ông cho rằng mình có trách nhiệm cao hơn trong việc giáo dục đạo đức cho con cái nhưng trên thực tế người phụ nữ mới là người lãnh trách nhiệm cao hơn đúng như họ quan niệm, căn cứ vào thời gian mà họ dành cho việc giáo dục con cái là thường xuyên. Nhiều cuộc điều tra xã hội học của Trung tâm nghiên cứu gia đình và phụ nữ, Viện Xã Hội Học, Viện nghiên cứu thanh niên và nhiều trung tâm nghiên cứu khác đã đưa ra những chỉ báo đáng lo ngại về tình trạng lao động của phụ nữ hiện nay. Người phụ nữ phải lao động vất vả trên cả hai phương diện gia đình và xã hội. Những chính sách tiến bộ về giới được đề cập trong các bộ luật và hiến pháp của nhà nước tuy đã tạo điều kiện và mở ra rất nhiều cơ hội cho người phụ nữ tham gia vào các quá trình xã hội nhưng vẫn không xoá bỏ được những tư tưởng Nho giáo phong kiến, những giá trị chuẩn mực cũ kìm hãm người phụ nữ đã ăn sâu vào tận gốc rễ của đời sống con người. Người phụ nữ vừa phải lao động như những người đàn ông ngoài xã hội nhưng khi về nhà họ lại phải đảm đương tất cả những công việc gia đình, gánh lấy phần trách nhiệm chính và gần như không có thời gian để nghỉ ngơi trong khi đó sự chia sẻ của nam giới gần như là không có. Theo số liệu thống kê toàn cầu về “Giới” thì phụ nữ làm 70% khối lượng công việc của thế giới, hưởng 30% thu nhập của toàn thế giới và chỉ được hưởng 1% tài sản của thế giới. . .Trong một nghiên cứu về phụ nữ nông thôn người ta đã thống kê được: có xấp xỉ 80% phụ nữ sống ở nông thôn, đại diện cho 70% lực lượng lao động Nông Nghiệp, làm việc 14 tiếng trong một ngày, hưởng ít hơn từ 20 đến 40% thu nhập của nam giới. Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài, chúng tôi không thể đo được mức độ lao động của người phụ nữ trong gia đình đô thị với những công việc như nội trợ, dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ, chăm sóc chồng con . . . mà chỉ có thể dừng lại ở một trong nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống gia đình đó là giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên. Tuy vậy, những số liệu đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu cũng đã phần nào phản ánh được thực trạng lao động đáng lo ngại của người phụ nữ và sự phân công vai trò trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ vị thành niên giữa người cha và người mẹ. Đây mới chính là phần chìm của “tảng băng” quan hệ giới trong gia đình. Trong tình hình đổi mới của đất nước, chức năng của gia đình cũng đã ít nhiều có sự thay đổi để phù hợp với chức năng chung của xã hội. Tuy nhiên, cơ cấu gia đình gia trưởng cho đến nay vẫn còn tồn tại. Tư tưởng “ Trọng nam khinh nữ” vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều mặt của đời sống gia đình. Sở dĩ cơ cấu gia đình gia trưởng vẫn chưa bị xoá bỏ hoàn toàn là do những giá trị chuẩn mực trong gia đình truyền thống là yếu tố làm cho nó tồn tại một cách bền vững. Trong suốt hơn một thế kỷ đấu tranh đòi bình đẳng giải phóng phụ nữ, địa vị của người phụ nữ trong xã hội đã được cải thiện. Họ dần dần chiếm được vị thế cao trong xã hội bằng chính năng lực, phẩm chất cá nhân, bằng những nỗ lực cố gắng của họ. Nhưng họ vẫn không thể thoát khỏi những địa vị mà xã hội đã gán cho họ ngay từ lúc sinh ra cho đến lúc trưởng thành và hoà nhập vào xã hội. Khi đã nhận những địa vị gán cho cũng đồng nghĩa với việc họ phải thực hiện những mô hình hành vi mà xã hội mong đợi sao cho phù hợp với quyền và trách nhiệm tương ứng. Những mô hình hành vi được quy gán và mong đợi ấy là sự phục tùng chồng; chăm sóc, nuôi dậy con cái; chăm lo nhà cửa . . . Cùng một lúc họ phải thực hiện rất nhiều chức năng bởi vì gắn liền với những địa vị gán cho và đạt đưọc ấy là việc phải đảm nhận vai trò kép : vai trò của người phụ nữ trong gia đình và vai trò của người phụ nữ ngoài xã hội. Điều này làm sự cách biệt giữa nam và nữ ngày càng tăng lên. 3.3.Nội dung giáo dục Đạo Đức cho con cái trong độ tuổi vị thành niên Trong bất kỳ xã hội nào cũng có mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Tuỳ theo trình độ phát triển của xã hội đó mà mức độ dung hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ít hay nhiều. Để điều hoà mối quan hệ về lợi ích này, giai cấp nắm quyền lực trong xã hội thường đặt ra những quy tắc, chuẩn mực làm tiêu chuẩn cho hành động của các cá nhân, các nhóm xã hội sao cho đạt đến mức độ phù hợp nhất giữa hai lợi ích. Những quy tắc chuẩn mực ấy được coi là những chuẩn mực đạo đức của xã hội đó. ở mỗi một hình thái xã hội, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có sự biến đổi ít nhiều chính vì vậy mà những chuẩn mực đạo đức cũng có sự biến đổi ít nhiều để thực hiện chức năng của nó một cách phù hợp với những quan hệ xã hội đó. Tuy “Đạo Đức” xã hội không phải là một phạm trù bất biến nhưng giữa các xã hội khác nhau, trong sự biến đổi ấy nó lại có sự lưu giữ nhất định. Trong xã hội XHCN, “Đạo Đức truyền thống” được biến thái thành “Đạo Đức mới”. Quan niệm Mác xít cho rằng “Đạo Đức mới” là mức độ cao của quá trình phát triển đạo đức. Quan niệm về “Đạo Đức mới” trong xã hội truyền thống là sự kế thừa những giá trị đạo đức cơ bản của con người trong đạo đức truyền thống - đạo đức học Nho giáo của Khổng Tử và phát triển lên một bậc cao hơn nữa. Những giá trị đạo đức mới dựa trên nguyên tắc vì tập thể, trung thành với CNXH, yêu nước, phát huy năng lực tiềm tàng và tạo điều kiện cho con người cống hiến hết tài năng và sức lực của mình cho xã hội. Những giá trị đạo đức mà cha mẹ hiên nay thường giáo dục cho con cái cũng rất phù hợp với quy luật kế thừa và phát triển của quá trình phát triển đạo đức. Trong nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ vị thành niên, ta thấy các bậc cha mẹ vẫn dựa trên nền tảng của những chuẩn mực đạo đức truyền thống để giáo dục cho con cái. Đó là những phẩm chất đạo đức cơ bản của một con người như : Hiếu thảo với cha mẹ - 100% cha mẹ giáo dục cho con cái; Nội dung kính trên nhường dưới có 97.8% người trả lời là có giáo dục trong tổng số những người được hỏi; Đức tính trung thực thật thà có 98.3% cha mẹ trả lời là có giáo dục cho con cái; Đức tính cần cù chịu khó 93.3 người có giáo dục cho con cái trong độ tuổi vị thành niên trong tổng số 180 người được hỏi. a. Hiếu thảo với cha mẹ g. Chăm chỉ học tập b. Kính trên nhường dưới h. Giúp đỡ mọi người xung quanh c. Trung thực thật thà i. Năng động sáng tạo d. Bình tĩnh kiên nhẫn k. Tôn trọng luật pháp e. Dịu dàng ý tứ f. Cần cù chịu khó Bên cạnh đó những phẩm chất được coi là của một con người mới trong xã hội XHCN cũng được các bậc cha mẹ quan tâm giáo dục cho con cái trong tuổi vị thành niên như : ở nội dung tôn trọng luật pháp có 94.4 % người trong số người được hỏi trả lời là có giáo dục cho con cái; Nội dung bình tĩnh kiên nhẫn có tỷ lệ là 93.9%; Nội dung giúp đỡ mọi người xung quanh có tỷ lệ là 92.8 % và nội dung năng động sáng tạo có tỷ lệ là 92.2%. ở tất cả các phẩm chất đạo đức trong nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ vị thành niên đều có tỷ lệ phần trăm rất cao, gần như chiếm tỷ lệ tuyệt đối. Như vậy, các bậc cha mẹ vẫn giáo dục cho trẻ vị thành niên những giá trị đạo đức cơ bản dưạ trên nền tảng đạo đức truyền thống để giáo dục cho các con mình. Bên cạnh đó những phẩm chất đạo đức được coi là cần thiết đối với mỗi một con người trong xã hội ngày nay cũng được các bậc cha mẹ rất coi trọng trong nội dung giáo dục đạo đức cho con cái. Tuy nhiên những số liệu đã thu thập được lại biểu hiện một khía cạnh của sự phân công vai trò giáo dục giữa cha và mẹ trong từng nội dung giáo dục. Cụ thể là những nội dung giáo dục có liên quan đến những phẩm chất được coi là đặc trưng của mỗi giới. Trong những phẩm chất đạo đức cơ bản mà một con người không phân biệt nam giới hay nữ giới cần có thì tỉ lệ % cả cha và mẹ cùng giáo dục cho con cái cao, hoặc tỉ lệ % cha hay mẹ là người giáo dục nội dung đó cho con xấp xỉ nhau hay bằng nhau. Ví dụ như trong nội dung “Hiếu thảo với cha mẹ” tỉ lệ % cha mẹ cùng giáo dục cho con cái là 47.2%, tỉ lệ % cha là người giáo dục cho con cái nội dung này là 48.4% và tỉ lệ % mẹ là người giáo dục nội dung này là 51.6% xấp xỉ bằng nhau, ở nội dung “giúp đỡ mọi người xung quanh” số liệu thu được cũng tương tự như vậy. Trong nội dung “Kính trên nhường dưới”, tỉ lệ % cha là người giáo dục cho con cái là 26.7% bằng tỉ lệ % mẹ là người giáo dục nội dung này và tỉ lệ % cả cha và mẹ cùng giáo dục là 44.4%. Các tỉ lệ % thu được này đều không có biểu hiện của sự phân công vai trò giáo dục giữa người cha và người mẹ. Trong khi đó ở những nội dung được coi là đặc trưng hơn ỏ mỗi giới thì tỉ lệ % cả cha lẫn mẹ cùng giáo dục rất thấp trong khi đó tỉ lệ % cha hoặc mẹ là người giáo dục lại có sự chênh lệch lớn. Điều này cho thấy có sự phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong nội dung giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên. Trong những nội dung mang đặc trưng tính cách về giới thuộc về nam giới thì cha thường là người dạy con là chính. * Biểu đồ 10: tỷ lệ % người giáo dục cho con cái tính bình tĩnh kiên nhẫn Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy đối với đức tính bình tĩnh kiên nhẫn- đức tính được coi là đặc trưng hơn ở người đàn ông thì người cha là người dạy cho con cái nhiều hơn người mẹ. Số liệu thể hiện trong biểu đồ trên cho chúng ta thấy rất rõ điều này. Cụ thể là, tỷ lệ người cha giáo dục đức tính này là 46.7 % cao hơn tỷ lệ người mẹ giáo dục đức tính này 22.5 %. Cũng tương tự như vậy, với đức tính trung thực thật thà thì người giáo dục con cái nhiều hơn cũng là người cha. Có 35.0% người cha dậy con mình đức tính này trong khi đó chỉ có 18.6 % người mẹ giáo dục cho con đức tính này. Còn ở những nội dung mang đặc trưng tính cách thuộc về nữ giới thì mẹ lại là người giáo dục cho con nhiều hơn. Trong nội dung này ta thấy, tỉ lệ % cả cha và mẹ cùng giáo dục cho con chỉ chiếm có 24.1% và tỉ lệ % cha hoặc mẹ là người giáo dục cho con có sự chênh lệch rất lớn. Chỉ có 4.9% người cha giáo dục nội dung dịu dàng, ý tứ cho con trong khi đó có tới 71% người mẹ giáo dục nội dung này. Biểu đồ trên, ta thấy sự chênh lệch trong tỷ lệ % của cha và mẹ là rất cao. Nhìn vào biểu đồ thể hiện người giáo dục đức tính cần cù chịu khó cho con, ta cũng thấy có sự chênh lệch nhưng không chênh lệch bằng biểu đồ trên. Tỉ lệ % mẹ là người giaó dục cho con cái đức tính cần cù, chịu khó gấp đôi tỉ lệ % cha là người giáo dục nội dung này. Sở dĩ như vậy là do đức tính dịu dàng, ý tứ được coi là đặc trưng hơn ở nữ giới nên người cha ít giáo dục hơn là người mẹ còn đức tính cần cù chăm chỉ thì hiện nay các bậc cha mẹ đều cho rằng đây là một phẩm chất cần có ở cả nam giới và nữ giới. Do vậy, sự chênh lệch tỷ lệ% người giáo dục con mới không cao bằng sự chênh lệch ở đức tính dịu dàng ý tứ . Có thể nói yếu tố bản sắc giới đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc thực hiện chức năng giáo dục đạo đức cho con cái ở tuổi vị thành niên của mỗi giới. Ngay từ khi sinh ra, mỗi các nhân đã được quy định về mặt giới tính sinh học. ứng với mỗi giới tính, xã hội lại quy định những bản sắc giới phù hợp tạo thành những người đàn ông và những người phụ nữ. Họ được xã hội xây dựng nên những tính cách đặc trưng mà người ta gọi chung là nam tính và nữ tính. Một người đàn ông được coi là có nam tính thường gắn liền với những đức tính như dũng cảm, gan dạ, bình tĩnh, kiên nhẫn, trung thực, thật thà... Còn một người phụ nữ được coi là nữ tính thường đi liền với vẻ dịu dàng, ý tứ, sự cần cù, chịu thương chịu khó... Những người cha, người mẹ cho rằng ở giai đoạn vị thành niên, trẻ đã có ý thức để học hỏi những phẩm chất, tính cách và vai trò phù hợp với giới tính của mình. Và họ - những người cha và người mẹ đại diện cho hai giới đã mang trong mình những phẩm chất, tính cách đặc trưng của hai giới nên mỗi người sẽ đảm nhận trách nhiệm giáo dục cho con mình những phẩm chất, tính cách đặc trưng đó. Với những đức tính của nam giới, họ cho rằng người cha là người phù hợp hơn cả để giáo dục cho con cái. Còn với những đặc trưng tính cách của nữ giới thì mẹ là người giáo dục phù hợp hơn cả. Các bậc cha mẹ đã có ý thức một cách sâu sắc về bản sắc giới. Nó hình thành nên sự phân công vai trò giáo dục khác nhau của cha và mẹ trong từng nội dung giáo dục. Bên cạnh đó, mô hình của các quan hệ xã hội trong xã hội truyền thống cũng ảnh hưởng nhiều đến vai trò giáo dục đạo đức cho trẻ vị thành niên của người cha và người mẹ. Trong xã hội truyền thống, quan hệ giới trong gia đình được coi là quan hệ thứ bậc cao thấp. Người đàn ông bao giờ cũng đứng trên người phụ nữ một bậc. Do vậy mà người đàn ông cũng có quyền quyết định trong mọi công việc của gia đình và trong quan hệ vơí xã hội. Mặt khác, xã hội cũ quy định rất khắt khe đối với người phụ nữ trong các mối quan hệ xã hội. Gần như họ chỉ có những mối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc40283.DOC
Tài liệu liên quan