Luận văn Phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng tại ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long huyện Bình Minh

Nhìn chung tình hình thu nợ đối với thành phần kinh tế có sự chuyển biến mạnh mẽ, do ngay trong khâu thẩm định, lựa chọn khách hàng được cán bộ tín dụng thực hiện tốt. Hơn nữa, trong thời gian qua chi nhánh đã phân loại khách hàng theo từng nhóm, có biện pháp quản lý như thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng, cán bộ tín dụng thường xuyên đôn đốc và động viên khách hàng trả gốc và lãi đúng hạn. Mặt khác, do doanh số cho vay tăng qua các năm dẫn đến doanh số thu nợ cũng tăng lên.

doc65 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng tại ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long huyện Bình Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
văn hóa xã hội của các tầng lớp dân cư đi vào ổn định và dần cải thiện, nhưng do nền kinh tế Tỉnh mang tính thuần nông làm cho tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, hơn nữa sự chậm phát triển của công thương nghiệp trong Tỉnh cũng là nguyên nhân làm cho mức huy động thấp. Do vậy, để đảm bảo nhu cầu vay vốn của khách hàng thì Ngân hàng phải sử dụng vốn điều chuyển từ Hội sở làm cho vốn điều hoà tăng mạnh vào năm 2005 là 56,8%. Tuy nhiên, sang năm 2006 con số này lại giảm xuống 2,3%. Điều này cho thấy để đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động, Ngân hàng đã từng bước cơ cấu lại nguồn vốn ngày càng hợp lí hơn, tăng dần tỷ trọng vốn huy động và giảm dần tỷ trọng vốn vay. Nhìn chung, hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh ngày càng phát triển thể hiện qua qui mô vốn hoạt động của Ngân hàng tăng liên tục qua 3 năm 2004-2006. Điều đó cho thấy nhu cầu vốn của các thành phần kinh tế trong Tỉnh ngày càng cao, và đó cũng là kết quả của việc mở rộng và đa dạng hóa các đối tượng cho vay của chi nhánh trong thời gian qua. 4.1.2. Tình hình cụ thể về việc huy động vốn Khác với các doanh nghiệp khác, ngân hàng thương mại không tham gia sản xuất và lưu thông hàng hóa, nhưng nó góp phần phát triển nền kinh tế xã hội thông qua việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Như vậy, hoạt động huy động vốn không những có ý nghĩa đối với bản thân Ngân hàng mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Việc huy động vốn tiền gửi của khách hàng một mặt đem lại cho Ngân hàng một nguồn vốn với chi phí thấp để kinh doanh, mặt khác giúp Ngân hàng nắm bắt thông tin, tư liệu chính xác về tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế và cá nhân, có quan hệ tín dụng với Ngân hàng, tạo điều kiện cho Ngân hàng có căn cứ để qui định mức vốn đầu tư cho vay đối với khách hàng đó. Trong 3 năm qua từ năm 2004-2006 nền kinh tế Việt Nam nói chung và Tỉnh Vĩnh Long nói riêng không ngừng tăng trưởng. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng trưởng đó thì nền kinh tế cũng gặp một số khó khăn như dịch cúm gà, sự tăng giá của xăng dầu và một số mặt hàng đã gây ra tình trạng tăng giá và lạm phát. Hoạt động của Ngân hàng gắn liền với nền kinh tế, do vậy mặt tiêu cực hay tích cực của nền kinh tế cũng sẽ tác động đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng là điều đương nhiên. Dưới đây là tình hình huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh trong 3 năm vừa qua. Hình 4: Tình hình huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh. Xác định huy động vốn từ nền kinh tế phục vụ cho vay là nhiệm vụ chính, với các biện pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, cuối năm 2006 vốn huy động của Ngân hàng Phát triển nhà chi nhánh Bình Minh đạt 20.200 triệu đồng tăng 34,7% so với năm 2005. Trong đó vốn huy động từ dân cư là chủ yếu chiếm trên 60% tổng vốn huy động. Đặc biệt vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của dân cư tăng nhanh 36% năm 2006. Đạt được kết quả như trên là do trong những năm qua Ngân hàng không ngừng quảng bá công tác huy động vốn, đa dạng hóa sản phẩm, thực hiện chính sách khuyến mãi như tặng thưởng đối với khách hàng có mức tiền gửi cao, hậu mãi như tặng quà cho khách hàng lớn vào dịp lễ, tết…, thái độ phục vụ văn minh, lịch sự, xử lý nhanh và chính xác các chứng từ, rút ngắn thủ tục gửi tiền tạo sự thân thiện và thoải mái cho khách hàng khi đến giao dịch nên giữ chân được khách hàng cũ cũng như thu hút thêm khách hàng mới. Đối với Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh vốn huy động bao gồm: Tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu. Nhìn chung, các chỉ tiêu này đều tăng về số tuyệt đối. - Tiền gửi tiết kiệm: đây là khoản mục tiền gửi chiếm tỷ trọng cao trên vốn huy động (trên 60%). Năm 2005 số tiền tiết kiệm huy động là 9.500 triệu đồng tăng gần 32% so với năm 2004. Đến năm 2006 là 20.200 triệu đồng tăng 28% so với năm 2005. Nguyên nhân tiền gửi tiết kiệm tăng là do Ngân hàng đa dạng các hình thức huy động với những loại tiền gửi và thời hạn khác nhau, với mức ưu đãi khác nhau nên thu hút khách hàng. Mặt khác, do Bình Minh là một huyện nông thôn nên người dân sau khi đã trừ những khoản chi tiêu hàng ngày số tiền thừa ra họ gửi có kỳ hạn để hưởng lãi. Bên cạnh đó, năm 2005 kinh tế tăng trưởng khá nên các đối tượng có thu nhập không ổn định: trúng số, mua bán bất động sản, những gia đình có thân nhân ở nước ngoài cũng tăng lên. Những đối tượng này gửi tiền vào Ngân hàng để hưởng lãi do vậy mà khoản mục tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tăng lên. Đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: số dư tiền gửi này mặc dù có tăng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng không đáng kể (dưới 16%) qua 3 năm. Năm 2005 chính phủ điều chỉnh tăng mức lương cơ bản dẫn đến thu nhập của các đối tượng như nhân viên bưu điện, điện lực… tăng nên những đối tượng này mở tài khoản tại Ngân hàng để thuận tiện cho việc chi tiêu của mình điều đó làm cho tốc độ tăng của khoản mục tiền gửi này đạt 109%. - Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: Qua bảng số liệu ta thấy các doanh nghiệp chủ yếu gửi tiền vào khoản mục tiền gửi không kỳ hạn. Mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào khoản mục này là để hưởng những tiện ích của Ngân hàng, đồng thời hạn chế rủi ro và muốn sinh lợi từ đồng vốn tạm thời nhàn rỗi. Do vậy, tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế tăng liên tục qua 3 năm 2004-2006. Tuy nhiên, do chi nhánh mới đi vào hoạt động năm 2003 nên chưa tạo được mối quan hệ thân thiết với các tổ chức kinh tế, mặt khác do Bình Minh là một huyện nên các tổ chức kinh tế chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn với qui mô vốn hoạt động còn thấp nên vốn huy động từ các đối tượng này mặc dù có tăng nhưng chiếm tỷ trọng không cao (thấp hơn 16%) trên tổng vốn huy động. - Bên cạnh hình thức huy động trên, chi nhánh còn huy động vốn bằng cách phát hành kỳ phiếu. Từ bảng số liệu ta có thể thấy được trong 3 năm qua Ngân hàng đều có phát hành kỳ phiếu và tiền gửi kỳ phiếu tăng dần qua các năm. Cụ thể, năm 2005 vốn huy động từ kỳ phiếu là 3.600 triệu đồng tăng 71,4% so với năm 2004. Sang năm 2006 con số này đạt 4.800 triệu đồng tăng 33% so với năm 2005. Nguyên nhân dẫn đến việc tăng lên của tiền phát hành kỳ phiếu là nhu cầu về vốn đột xuất trong những năm qua tăng. Kỳ phiếu của Ngân hàng thường được phát hành vào những tháng cuối năm, do đây là thời điểm gần tết nên người dân có xu hướng tiêu dùng tăng dẫn đến nhu cầu vay vốn cao. Để đảm bảo nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng thì ngân hàng sẽ phát hành kỳ phiếu. Hơn nữa lãi suất kỳ phiếu cao hơn so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm nên đã thu hút được người dân mua kỳ phiếu làm cho vốn huy động từ loại hình này tăng nhanh. 4.2. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG QUA 3 NĂM GẦN ĐÂY 4.2.1. Phân tích doanh số cho vay Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì việc tạo lập nguồn vốn là vấn đề quan trọng hàng đầu. Khi huy động được vốn để có thể tạo ra lợi nhuận, hoàn trả tiền gốc và lãi cho khách hàng đồng thời bù đắp chi phí kinh doanh, ngân hàng thương mại phải tiến hành kinh doanh dưới hình thức sử dụng vốn huy động được mà chủ yếu là cấp tín dụng. Hoạt động cho vay không những có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng mà còn đối với nền kinh tế bởi vì nó bổ sung nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất. Do vậy, hoạt động này cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng, để có thể ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro ngân hàng cần có quy trình tín dụng chặt chẽ. 4.2.1.1. Doanh số cho vay theo thành phần kinh tế. Trong những năm qua, chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh đã không ngừng tìm kiếm khách hàng mới và giải quyết kịp thời nhu cầu vay vốn hợp lý cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân đã làm cho doanh số cho vay năm sau cao hơn năm trước thể hiện qua bảng số liệu sau: Nhìn chung, doanh số cho vay tăng liên tục qua 3 năm 2004-2006. Doanh số cho vay năm 2005 đạt 57.520 triệu đồng tăng 1.150 triệu đồng so với năm 2004 tương đương với tốc độ tăng 2%. Đến năm 2006 con số này lên đến 80.492 triệu đồng tăng 22.972 triệu đồng tức tăng gần 40% so với năm 2005. Do trong thời gian này Ngân hàng luôn bám sát mục tiêu phát triển kinh tế của Tỉnh trên cơ sở các chương trình tín dụng đã được xây dựng tập trung cho vay những ngành trọng điểm, ưu tiên cho vay đối với các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, các cơ sở, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, chi nhánh còn mở rộng đối tượng cho vay nên số lượng khách hàng đến vay vốn ngày càng nhiều làm tăng doanh số cho vay của Ngân hàng qua các năm. Trong 3 năm qua chi nhánh luôn mở rộng quan hệ tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, cá thể hộ gia đình. Trong đó, doanh số cho vay đối với cá thể hộ gia đình chiếm tỷ trọng lớn (>80%) trong tổng doanh số cho vay vì đây là đối tượng khách hàng truyền thống, hoạt động rộng lớn trên địa bàn huyện. Đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn: Đây là loại hình doanh nghiệp phổ biến và chiếm tỷ lệ khá cao trên địa bàn huyện, hoạt động ngày càng có hiệu quả. Nhận thấy tầm quan trọng của khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế nói chung, hoạt động kinh doanh của chi nhánh nói riêng nên chi nhánh đã tập trung tiếp cận, đầu tư vốn cung cấp tín dụng cho thành phần kinh tế này ngày càng nhiều thể hiện qua tốc độ tăng trưởng trung bình của doanh số cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn qua 2 năm 2005 và 2006 khoảng 26%. Ngược lại, doanh số cho vay đối với cá thể hộ gia đình tăng giảm không ổn định. Năm 2005 cho vay cá thể hộ gia đình là 46.565 triệu đồng giảm 845 triệu đồng tức giảm 1,8% so với năm 2004. Sang năm 2006 doanh số cho vay tăng lên đáng kể đạt 66.345 triệu đồng tức tăng gần 43% so với năm 2005. Một mặt do chi nhánh tăng mức đầu tư tín dụng sang doanh nghiệp vừa và nhỏ, mặt khác do những năm đầu mới thành lập chi nhánh, Lãnh đạo Ngân hàng thường chạy theo chỉ tiêu đề ra, cho vay phân tán, không hiệu quả. Những năm gần đây chi nhánh nhận thấy đội ngũ cán bộ tín dụng có hạn nên cho vay tập trung, cho vay có chọn lọc khách hàng, hạn chế cho vay ở những vùng vượt khả năng quản lý của cán bộ tín dụng nên chi nhánh đã cắt giảm và từ chối cho vay đối với một số cá thể hộ gia đình với mức vay nhỏ, phương án không hiệu quả và thường xuyên gia hạn nợ. Vì vậy mà doanh số cho vay của đối tượng này năm 2005 giảm. Năm 2006 ngân hàng đã khuyến khích người dân đi vay dưới hình thức cầm cố sổ tiết kiệm và kỳ phiếu chưa đến hạn, bên cạnh mở rộng thị phần tiến hành giải ngân đến các hộ gia đình vùng nông thôn, đến cán bộ công nhân viên... giúp họ cải thiện và nâng cao đời sống tạo điều kiện phát triển kinh tế gia đình dẫn đến doanh số cho vay tăng cao. 4.2.1.2. Doanh số cho vay theo kỳ hạn Hoạt động cấp tín dụng tại Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh đều tăng trưởng qua các năm. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng được đầu tư hầu hết vào các thành phần kinh tế nhằm hỗ trợ vốn cho các đơn vị bổ sung vào vốn kinh doanh để phát triển sản xuất. Chi nhánh đầu tư tín dụng ngắn hạn, trung dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động và vốn cố định của các đơn vị. Trong 3 năm qua đạt được kết quả như sau: Đối với tín dụng ngắn hạn: đây là loại tín dụng chiếm tỷ trọng cao (trên 70%) so với tổng doanh số cho vay và tăng qua các năm. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng tín dụng ngắn hạn năm 2005 mới chỉ đạt 9,9% đến năm 2006 con số này đã tăng lên đáng kể 53,2%. Nguyên nhân của sự tăng này là do 2 nhân tố: Đối với Ngân hàng do nguồn vốn cho vay của Ngân hàng chủ yếu từ huy động ngắn hạn, cho vay ngắn hạn ít rủi ro hơn so với cho vay trung và dài hạn đồng thời cán bộ tín dụng cũng dễ dàng trong việc lập phương án cho vay. Đối với khách hàng là các cơ sở sản xuất mục đích vay để bổ sung vốn lưu động, còn khách hàng là cá nhân mục đích vay là trồng trọt, chăn nuôi…do vậy mà chu kỳ vốn ngắn, hơn nữa vay ngắn hạn lãi suất thấp nên thu hút được khách hàng. Ngược lại với tín dụng ngắn hạn, tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn trong ba năm qua chỉ đạt con số khiêm tốn dưới 30%. Sự tăng trưởng của loại tín dụng này cũng không ổn định qua các năm. Năm 2005 doanh số cho vay giảm 2.741 triệu đồng hay giảm 16 % so với năm 2004. Sang năm 2006 có sự tăng trưởng trở lại tăng 20 triệu đồng hay tăng 0,1%. Do các khoản cho vay trung và dài hạn có thời gian thu hồi vốn lâu, lại có độ rủi ro lớn. Mặt khác, do tài sản thế chấp của khách hàng đa số là bằng khoán đất, tài sản không đủ làm đảm bảo để cho vay, do đó rất khó làm phương án để cho vay trung và dài hạn. Chính vì vậy mà Ngân hàng rất thận trọng trong công tác thẩm định và xét duyệt cho vay. Bảng số liệu còn cho ta thấy tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn gấp khoảng 3 lần so với tỷ trọng cho vay trung và dài hạn năm 2004 và 2005. Sang năm 2006 thì con số này lên đến 4,5 lần. Nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 1970 trở lại đây các ngân hàng đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. Tuy nhiên tâm lý của khách hàng kể cả chính quyền địa phương cũng đã quen với chức năng của ngân hàng thương mại quốc doanh đóng trên địa bàn. Do đó việc cho vay theo các chương trình, dự án lớn thuộc Ngân hàng đầu tư và phát triển. Hơn nữa, sau khi ra đời quỹ đầu tư và phát triển cho doanh nghiệp vay các dự án lớn, chương trình của chính phủ…có thời hạn trung và dài hạn, với lãi suất ưu đãi chỉ bằng 50% lãi suất của ngân hàng thương mại. Vì vậy chi nhánh Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh đầu tư cho vay chủ yếu trong lĩnh vực bổ sung vốn lưu động thiếu hụt tạm thời với lãi suất thương mại và thời gian ngắn. Điều này đã giải thích vì sao mà tỷ trọng cũng như tốc độ tăng doanh số cho vay ngắn hạn luôn cao hơn doanh số cho vay trung và dài hạn. 4.2.1.3. Doanh số cho vay theo ngành kinh tế. Bảng 6: DOANH SỐ CHO VAY THEO NGÀNH KINH TẾ ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm Chênh lệch 2005 so với 2004 Chênh lệch 2006 so với 2005 2004 2005 2006 Số tiền Tốc độ tăng (%) Số tiền Tốc độ tăng (%) 1. Nông nghiệp 16.911 16.200 24.170 -711 -4,2 7.970 49,2 2. Thương mại – Dịch vụ 22.548 24.230 30.500 1.682 7,5 6.270 25,9 3. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp 2.359 2.400 5.700 41 1,7 3.300 137,5 4.Ngành khác 14.552 14.690 20.122 138 0,9 5.432 37 Tổng cộng 56.370 57.520 80.492 1.150 2 22.972 39,9 Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh Cùng với sự đa dạng các ngành nghề trong nền kinh tế dẫn đến nhu cầu về vốn để phát triển, mở rộng sản xuất cũng tăng theo. Do vậy, doanh số cho vay theo ngành kinh tế tăng qua 3 năm 2004-2006. Qua bảng số liệu ta thấy doanh số cho vay năm 2005 có sự tăng giảm giữa các ngành kinh tế trong Tỉnh. Do chủ trương chuyển đổi kinh tế của Tỉnh giảm tỷ trọng đối với ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng đối với ngành thương mại-dịch vụ, công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, do vậy cơ cấu vốn tín dụng đầu tư cho các ngành kinh tế cũng thay đổi, được tập trung vào các ngành chính, mũi nhọn phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa. Năm 2005, chi nhánh tăng cho vay ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại-dịch vụ và ngành khác, giảm doanh số cho vay ngành nông nghiệp. Cụ thể, năm 2005 doanh số cho vay ngành thương mại - dịch vụ tăng 7,5%, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng 1,7%, ngành khác tăng 0,9%, riêng doanh số cho vay ngành nông nghiệp giảm 4,2%. Tuy nhiên sang năm 2006, cùng với sự tăng trưởng doanh số cho vay của các ngành kinh tế trong Tỉnh, doanh số cho vay ngành nông nghiệp tăng trở lại đạt 49,2% là do có sự biến động về thời tiết chuyển đổi về mùa vụ, cây trồng và vật nuôi…Làm cho thu nhập của người dân đối với ngành này tăng cao, vì vậy mà nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất cũng tăng theo. Hơn nữa, đa số người dân sống ở nông thôn và thu nhập chính của họ chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Do đó, tỷ trọng đầu tư tín dụng của ngành này cao là điều hợp lý. Đây là lĩnh vực kinh tế đòi hỏi nhu cầu đầu tư không lớn, lại có thể tạo ra tích lũy ban đầu cho công cuộc phát triển kinh tế của Tỉnh. Tuy nhiên, về lâu dài, Ngân hàng cần có định hướng đúng đắn cho việc tăng mức đầu tư tín dụng đối với các ngành công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến cũng như các ngành thương mại dịch vụ khác. 4.2.2. Doanh số thu nợ. Bên cạnh việc cho vay thì công tác thu hồi nợ được Ngân hàng quan tâm rất nhiều, làm sao để thu hồi nợ đúng hạn và đầy đủ vừa đảm bảo vốn hiện có vừa tăng số vòng vay của đồng vốn mà vẫn đem lại hiệu quả cho Ngân hàng. Doanh số thu nợ cao hay thấp còn tùy thuộc vào năng lực của cán bộ tín dụng trong việc đánh giá lựa chọn khách hàng, thời hạn cho vay, doanh số cho vay, tình hình sản xuất kinh doanh cũng như thiện chí trả nợ của khách hàng. 4.2.2.1. Doanh số thu nợ theo thành phần kinh tế Bảng 7: DOANH SỐ THU NỢ THEO THÀNH PHẦN KINHTẾ ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm Chênh lệch 2005 so với 2004 Chênh lệch 2006 so với 2005 2004 2005 2006 Số tiền Tốc độ tăng (%) Số tiền Tốc độ tăng (%) 1. DNTN và công ty TNHH 7.060 8.255 12.547 1.195 16,9 4.292 52 2. Cá thể, hộ gia đình 27.402 39.206 49.292 11.804 43,1 10.086 25,7 Tổng cộng 34.462 47.461 61.839 12.999 37,7 14.378 30,3 Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh Qua bảng 7 ta thấy doanh số thu nợ đối với các thành phần kinh tế tăng trưởng qua 3 năm. Doanh số thu nợ năm 2005 đạt 47.461 triệu đồng tăng 12.999 triệu đồng tức tăng gần 38% so với năm 2004. Đến năm 2006 con số này lên đến 61.839 triệu đồng tăng 14.378 triệu đồng ứng với tốc độ tăng 30%. Nhìn chung tình hình thu nợ đối với thành phần kinh tế có sự chuyển biến mạnh mẽ, do ngay trong khâu thẩm định, lựa chọn khách hàng được cán bộ tín dụng thực hiện tốt. Hơn nữa, trong thời gian qua chi nhánh đã phân loại khách hàng theo từng nhóm, có biện pháp quản lý như thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng, cán bộ tín dụng thường xuyên đôn đốc và động viên khách hàng trả gốc và lãi đúng hạn. Mặt khác, do doanh số cho vay tăng qua các năm dẫn đến doanh số thu nợ cũng tăng lên. Đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn do kinh tế tăng trưởng, cộng với những chính sách khuyến khích phát triển của Tỉnh nên việc sản xuất kinh doanh của thành phần này có hiệu quả, vì vậy mà việc trả nợ được đúng hạn. Tốc độ thu nợ của đối tượng này tăng cao từ 17% năm 2005 lên đến 52% vào năm 2006. Nguyên nhân của sự tăng trưởng này do doanh số cho vay năm 2005 của thành phần này tăng làm cho thu nợ năm sau tăng lên. Đối với cá thể hộ gia đình: Do công tác thu nợ của chi nhánh tập trung vào hộ nông dân-cá thể, thường xuyên kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, nhắc nhở khách hàng trả lãi và nợ vay đúng hạn. Đối với những khách hàng gia hạn nợ, những khách hàng bị đánh giá có tình hình tài chính yếu, kém hay kinh doanh thua lỗ tùy vào mức độ tài chính cũng như khả năng cải thiện tình trạng sản xuất của khách hàng mà Ngân hàng có thể lựa chọn, xem xét và đưa ra quyết định tiếp tục cho vay hay không. Điều này đã làm cho công tác thu hồi nợ qua 3 năm đạt kết quả khả quan, doanh số thu nợ tăng qua các năm. Năm 2005 doanh số thu nợ của đối tượng này tăng cao đạt 43% so với năm 2004. Sang năm 2006 con số này chỉ đạt khoảng 26% là do năm 2005 chi nhánh giảm cho vay đối với đối tượng này làm cho thu nợ năm 2006 giảm. 4.2. 2.2. Doanh số thu nợ theo kỳ hạn. Bảng 8: DOANH SỐ THU NỢ THEO KỲ HẠN ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm Chênh lệch 2005 so với 2004 Chênh lệch 2006 so với 2005 2004 2005 2006 Số tiền Tốc độ tăng (%) Số tiền Tốc độ tăng (%) 1. Ngắn hạn 18.768 33.300 51.362 14.532 77,4 18.062 54,2 2. Trung và Dài hạn 15.694 14.161 10.477 -1.533 -9,8 -3.684 -26 Tổng cộng 34.462 47.461 61.839 12.999 37,7 14.378 30,3 Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh Doanh số thu nợ ngắn hạn của Ngân hàng trong 3 năm qua đạt kết quả khả quan. Cụ thể, năm 2005 doanh số thu nợ ngắn hạn đạt 33.300 triệu đồng tăng 14.532 triệu đồng tức tăng 77,4% so với năm 2004. Năm 2006 là 51.362 triệu đồng tăng 18.062 triệu đồng tức tăng 54,2%. Đạt được kết quả như vậy là do phần lớn doanh số cho vay có mục đích là chăn nuôi, trồng trọt, cải tạo vườn, bổ sung vốn kinh doanh… chu kỳ sản xuất ngắn do đó các khoản vay này chủ yếu là ngắn hạn, cho nên doanh số thu nợ ngắn hạn hàng năm đều tăng. Mặt khác, cùng với sự tăng lên của doanh số cho vay ngắn hạn qua các năm nên doanh số thu nợ ngắn hạn cũng tăng theo. Nếu như doanh số thu nợ ngắn hạn tăng liên tục qua các năm thì doanh số thu nợ trung và dài hạn lại giảm qua 3 năm. Cụ thể, năm 2005 doanh số thu nợ giảm 1.533 triệu đồng tức giảm gần 10% so với năm 2004. Năm 2006 giảm 3.684 triệu đồng tức giảm đến 26% so với năm 2005. Do doanh số cho vay trung và dài hạn giảm qua các năm, mặt khác đặc điểm của loại cho vay này là thời hạn cho vay trên 1 năm và tiền vay được trả định kỳ qua nhiều năm cùng với lãi vay điều đó làm cho doanh số thu nợ trung và dài hạn giảm. 4.2.2.2. Doanh số thu nợ theo ngành kinh tế. Bảng 9: DOANH SỐ THU NỢ THEO NGÀNH KINH TẾ ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu Năm Chênh lệch 2005 so với 2004 Chênh lệch 2006 so với 2005 2004 2005 2006 Số tiền Tốc độ tăng (%) Số tiền Tốc độ tăng (%) 1. NN 12.450 15.302 18.187 2.852 22,9 2.885 18,9 2. TM-DV 17.235 15.729 22.240 -1.506 -8,7 6.511 41,4 3. CN-TTCN 1.800 1.332 2.375 -468 -26 1.043 78,3 4. Ngành khác 2.977 15.098 19.037 12.121 407,2 3.939 26,1 Tổng cộng 34.462 47.461 61.839 12.999 37,7 14.378 30,3 Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh * Chú thích: - NN: Nông nghiệp. - TM-DV: Thương mại và dịch vụ. - CN-TTCN: Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh của mình, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh đã phân công trách nhiệm cho từng cán bộ tín dụng trong việc thu nợ tại địa bàn mình quản lý, thường xuyên kiểm tra, phát hiện kịp thời ngăn chặn khách hàng sử dụng vốn sai mục đích nên đã đạt được kết quả khá tốt trong công tác thu nợ theo ngành kinh tế qua 3 năm 2004-2006. Doanh số thu nợ đối với ngành nông nghiệp tăng trưởng và ổn định qua các năm. Tốc độ tăng trung bình doanh số thu nợ hàng năm đạt khoảng 21%. Nguyên nhân của sự tăng này là do việc thay đổi cơ cấu mùa vụ đã mang lại hiệu quả cao nên việc trả nợ cho Ngân hàng diễn ra đúng hạn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu nợ của Ngân hàng. Đối với ngành thương mại và dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp doanh số thu nợ tăng giảm qua các năm. Năm 2005 doanh số thu nợ ngành thương mại-dịch vụ giảm 8,7%, ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp giảm đến 26% là do tỷ trọng cho vay của 2 ngành này vào năm 2004 thấp làm cho doanh số thu nợ năm 2005 giảm. Tuy nhiên, tốc độ tăng doanh số thu nợ của 2 ngành này tăng đáng kể vào năm 2006 lần lượt là 41% và 78% do năm 2005 hưởng ứng chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Tỉnh do đó chi nhánh đã tập trung đẩy mạnh cho vay 2 ngành này, bên cạnh đó kinh tế trong những năm qua có sự chuyển biến tích cực nên các đối tượng kinh doanh trong lĩnh vực này đạt hiệu quả làm cho doanh số thu nợ của Ngân hàng tăng mạnh vào năm 2006. Sự tăng lên này cho thấy việc mở rộng đầu tư của Ngân hàng là phù hợp nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh. 4.2.3. Phân tích tình hình dư nợ Dư nợ cho vay phản ánh mức đầu tư vốn và liên quan trực tiếp đến việc tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Bên cạnh việc cho vay, các hình thức bảo lãnh, mua bán nợ, nhận cầm cố các chứng từ có giá, bất động sản…cũng làm cho dư nợ của ngân hàng tăng lên. Tuy nhiên, Ngân hàng hoạt động trên địa bàn huyện nên hình thức đầu tư bị giới hạn vì vậy dư nợ của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh tăng chủ yếu từ việc cho vay tăng qua các năm. .4.2.3.1. Dư nợ theo thành phần kinh tế Bảng 10: DƯ NỢ CHO VAY THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm Chênh lệch 2005 so với 2004 Chênh lệch 2006 so với 2005 2004 2005 2006 Số tiền Tốc độ tăng (%) Số tiền Tốc độ tăng (%) 1. DNTN và công ty TNHH 9.500 12.200 13.800 2.700 28,4 1.600 13,1 2. Cá thể, hộ gia đình 43.830 51.189 68.242 7.359 16,8 17.053 33,3 Tổng cộng 53.330 63.389 82.042 10.059 18,9 18.653 29,4 Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh Nhìn chung, dư nợ theo thành phần kinh tế của chi nhánh tăng trưởng ổn định qua 3 năm 2004-2006. Cụ thể, Năm 2005 dư nợ là 63.389 triệu đồng tăng 10.059 triệu đồng tức tăng 19% so với năm 2004. Sang năm 2006 là 82.042 triệu đồng tăng 18.653 triệu đồng ứng với tốc độ tăng 29% so với năm 2005. Sự tăng trưởng này cho thấy trong thời gian qua hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngày càng mở rộng. Qua bảng số liệu ta thấy trong những năm qua chi nhánh tăng cường cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnop.doc
  • docbia LUAN VAN.doc
  • pdfbia LUAN VAN.pdf
  • docdang nop.doc
  • pdfdang nop.pdf
  • pdfnop.pdf
Tài liệu liên quan