Luận văn Phân tích những thách thức và cơ hội – tìm ra những bước đi thích hợp trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 01

CHƯƠNG1

CƠ SỞ LÝ LUẬN 04

1.1- KHÁI NIỆM VỀ TOÀN CẦU HOÁ . 04

1.2- SƠ LƯỢC SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HỌC THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ . 05

1.2.1- Lý thuyết củaphái Trọng Thương

1.2.2. Lý thuyết Lợi Thế Tuyệt Đối của Adam Smith

1.2.3- Lý thuyết Lợi Thế So Sánh của David Ricardo

1.2.4- Lý thuyết Heckesher – Ohlin ( H-O)

1.2.5- Lý thuyết CânBằng Giá Cả Yếu Tố (H - O - S)

1.2.6- Nhận xét chung

1.3- CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 11

1.4- KINH NGHIỆP ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO CỦA CÁC NƯỚC ĐI

TRƯỚC - ĐẶC TRƯNG LÀ TRUNG QUỐC MỘT NƯỚC CÓ NHIỀU HOÀN

CẢNH TƯƠNG ĐỒNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM . . 13

CHƯƠNG2: TỔNG QUAN VỀ WTO VÀ TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO

CỦA VIỆT NAM 19

2.1- TỔNG QUAN VỀ WTO - 19

2.1.1- Lịch sử hình thành WTO

2.1.2- Điều kiện và thủ tục gia nhập WTO

2.1.3- Cơ cấu tổ chức của WTO

2.1.4- Các hiệp định cơ bản trong khuôn khổ WTO

2.1.5- Các nguyên tắc cơ bản của WTO

2.1.6- Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

2.2- TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM 28

CHƯƠNG 3

NHỮNG THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘICỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA WTO . 32

3.1- NHỮNG CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA WTO . 32

3.2- NHỮNG THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA WTO-----37

3.3- LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA WTO 41

3.3.1- Các nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến lao động khi tham gia vào

WTO nói riêng và quá trình tòan cầu hóa nói chung.

3.3.2- Tác động đốivới việc làm

CHƯƠNG 4

KIẾN NGHỊ CÁC VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT VÀ CÁC BƯỚC ĐI THÍCH

HỢP TẠO TIỀN ĐỀ CHO VIỆT NAM GIA NHẬP WTO 48

4.1- MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO TIỀN ĐỀ CHO TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO

CỦA VIỆT NAM 48

4.2- MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM 57

pdf69 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4010 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích những thách thức và cơ hội – tìm ra những bước đi thích hợp trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a và Hiệp định chống bán phá giá. 2.1.6- CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO Một trong những chức năng rất quan trọng của WTO là giải quyết tranh chấp giữa các thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích các hiệp định WTO. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO là: công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và chấp nhận được đối với các bên tranh chấp. Các thành viên không được đơn phương đưa ra biện pháp trả đủa khi cho rằng thành viên khác vi phạm quy tắc thương mại, mà sử dụng hệ thống thương mại đa biên để giải quyết tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO có quyền thành lập các nhóm chuyên gia để xem xét vụ tranh chấp, chấp nhận hay từ chối các kiến nghị của nhóm chuyên gia hay các kết quả kháng nghị, giám sát việc thực hiện các quyết nghị và đề nghị cũng như có quyền cho phép hành động trả đũa khi một nước không tuân thủ quyết nghị. Các giai đoạn giải quyết tranh chấp theo quy định của WTO bao gồm các giai đoạn: hòa giải (các bên tự giải quyết), xem xét vụ việc (nếu không hòa giải thành), ra quyết nghị, phúc thẩm (nếu có kháng nghị của các bên tranh chấp), ra 30 quyết định cuối cùng. Thời gian thực hiện từng giai đoạn cũng được quy định rõ và tổng thời gian giải quyết một vụ tranh chấp là một năm nếu không có kháng nghị và một năm ba tháng trong trường hợp có kháng nghị. 2.2- TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM. - 1994, Việt Nam trở thành quan sát viên của GATT. - Tháng 4 năm 1994, Việt Nam thành lập tổ công tác Chính phủ về hội nhập WTO. - Giai đoạn 1: Nộp đơn xin gia nhập. Tháng 01/1995, Việt Nam đã đệ đơn xin gia nhập lên Tổng giám đốc WTO theo Điều 12 của Hiệp định WTO. Điều đó đã khẳng định mong muốn của Chính phủ Việt Nam trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới. Ngày 30/01/1995, Đại hội đồng WTO đã thành lập Nhóm công tác về việc gia nhập của Việt Nam, với sự tham gia của nhiều thành viên WTO quan tâm đến thị trường Việt Nam, có trách nhiệm tổ chức các cuộc đàm phán về gia nhập WTO và chuẩn bị Nghị định thư gia nhập. Nhóm công tác cũng có trách nhiệm kiểm tra các chính sách và thực tiễn hoạt động thương mại của Việt Nam . - Giai đoạn 2: Gửi "Bị Vong lục về Chế độ Ngoại thương" tới ban công tác. Việt Nam đã hoàn thành bản bị vong lục về cơ chế ngoại thương vào giữa năm 1996 và tháng 8/1996 Việt Nam đã nộp cho Ban thư ký WTO bản bị vong lục này. Bản Bị Vong lục giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, và cung cấp các thông tin chi tiết về chính sách liên quan đến thương mại hàng hoá, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ, đề cập chi tiết đến tất cả các công cụ thương mại như thuế quan, các hạn chế phi thuế quan, các quy định về xuất nhập khẩu, kiểm soát ngoại hối, chính sách đầu tư và quá trình tự do hoá thương mại trong tương lai được quy định trong các luật và các quy định của Việt Nam. 31 - Giai đoạn 3: Làm rõ chính sách thương mại: Sau khi nghiên cứu "Bị Vong lục về Chế độ Ngoại thương", nhiều thành viên WTO, trong đó có Mỹ, EU, Nhật Bản, Australia... đặt các câu hỏi yêu cầu Việt Nam trả lời nhằm hiểu rõ chính sách, bộ máy quản lý và thực thi chính sách của Việt Nam, cụ thể là các vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế, thương mại, dịch vụ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, vấn đề đầu tư liên quan đến thương mại, môi trường... Ngoài việc trả lời các câu hỏi, Việt Nam cũng phải cung cấp nhiều thông tin khác theo các biểu mẫu do WTO quy định về hỗ trợ nông nghiệp, trợ cấp công nghiệp, các doanh nghiệp có đặc quyền, các biện pháp đầu tư không phù hợp với quy định của WTO, thủ tục hải quan, hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ,... Việt Nam cũng đã tiến hành thành công 4 phiên họp của Nhóm công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam vào tháng 7/1998, tháng 12/1998, 7/1999 và năm 2000. Vì vậy chúng ta có thể xem giai đoạn minh bạch chính sách đã hoàn thành một bước quan trọng để có thể bắt đầu quá trình đàm phán mở cửa thị trường. - Giai đoạn 4: đàm phán song phương. Đầu năm 2002, Việt Nam đã gửi bản chào ban đầu về thuế quan và bản chào ban đầu về dịch vụ tới WTO. Đến tháng 6 năm 2004 Việt Nam đã gửi bản chào mở cửa hàng hóa và dịch vụ lần thứ 4 cũng như lộ trình thực hiện các cam kết trong WTO tại phiên họp thứ 8. Trong thời gian từ ngày 9 đến ngày 19 tháng 6 năm 2004, đòan đàm phán Việt Nam đã tiến hành các phiên họp song phương với 15 nước đối tác. Trong phiên họp đa phương ngày 15 tháng 6 năm 2004, 63 nước thành viên là đối tác đàm phán đều đánh giá cao bản chào này của Việt Nam. Tuy nhiên, các thành viên nhóm công tác về vấn đề Việt Nam gia nhập WTO vẫn cho rằng Việt Nam vẫn còn rất nhiều việc phải làm trong qúa trình đàm phán mở cửa thị trường, minh bạch hóa chính sách và cụ thể hóa những cam kết đó bằng các luật và điều lệ cần thiết. 32 Bộ Ngọai Giao của Việt Nam ngày 24 tháng 6 năm 2004 cho biết phiên đàm phán thứ 8 về việc Việt Nam gia nhập WTO đã có những bước tiến lớn quan trong tiến trình đàm phán để Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam vẫn chủ trương phấn đấu gia nhập WTO càng sớm càng tốt, nếu có thể thì vào năm 2005. Tuy nhiên, thời điểm Việt Nam gia nhập WTO còn tùy thuộc vào các đối tác đàm phán. Hiện chính phủ Việt Nam cũng đã và đang tích cực tiến hành qúa trình cải cách và điều chỉnh nền kinh tế trong nước theo hướng phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ thương mại quốc tế cũng như các nguyên tắc cơ bản của WTO nhằm tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình gia nhập WTO của mình. Theo nguồn tin từ Ủy Ban Quốc Gia về hợp tác kinh tế quốc tế, ngày 8 tháng 12 năm 2004 tại Geneva (Thụy Sĩ) sẽ bắt đầu phiên đàm phán song phương đầu tiên của vòng đàm phán thứ 9. Tại các phiên song phương dự kiến Việt Nam sẽ tiếp tục đàm phán với một số nước: Mỹ, Hàn Quốc… xung quanh các vấn đề về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cải tổ luật pháp… Sau đó, từ ngày 17 tháng 12 sẽ diễn ra phiên đa phương giữa Việt Nam và các nước thành viên WTO. Lần này Việt Nam sẽ cùng các nước đàm phán trực tiếp về nội dung bản dự thảo báo cáo của ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO. Như vậy, Việt Nam đang ở vào giai đoạn thứ 4 trong 7 giai đoạn của thủ tục gia nhập WTO. Tuy nhiên, các giai đoạn sau đó gồm giai đoạn 5 (giai đoạn hoàn tất), giai đoạn 6 (chấp thuận) và giai đoạn 7 (ký và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập) chỉ đơn thuần mang tính thủ tục, do đó có thể nói chúng ta đang ở vào giai đoạn quan trọng nhất trong tiến trình gia nhập WTO. Đây là giai đoạn cần tiến hành những cải cách kinh tế , sửa đổi chính sách cho phù hợp với các quy định, yêu cầu của WTO, cũng là giai đoạn chuẩn bị nội lực để tận dụng cơ hội, đối phó với thách thức khi Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Việc nhận thức rõ những cơ hội và thách thức đó là hết sức quan trọng và cần thiết. 33 CHƯƠNG 3 NHỮNG THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA WTO 3.1- NHỮNG CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA WTO - Tham gia vào WTO chúng ta có thêm một diễn đàn phục vụ mục đích đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ; giảm thiểu tình trạng bị các cường quốc lớn phân biệt đối xử, nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế. WTO là tập hợp có thế và lực lớn với nhiều thành viên có vai trò kinh tế - chính trị quan trọng do đó ta sẽ có vị trí thành viên bình đẳng, góp phần xây dựng luật chơi chung của cả khu vực. Quan hệ với WTO có ý nghĩa quan trọng với ta cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. Mở ra nhiều cơ hội để ta có thể trao đổi và giải quyết các vấn đề cùng quan tâm, thúc đẩy quan hệ song phương với các đối tác quan trọng của Việt Nam. Đồng thời WTO là diễn đàn để các nước đang phát triển đưa ra ý kiến và thống nhất hành động trong đấu tranh với áp đặt thương mại từ các nước phát triển. Thật vậy, với số lượng áp đảo trong GATT trước kia và WTO hiện nay, bằng sự đoàn kết thông qua các diễn đàn của WTO, tiếng nói chung của các nước đang phát triển trở nên có ý nghĩa và trọng lượng hơn trong việc định ra một khuôn khổ cho hoạt động thương mại quốc tế. - Tham gia vào WTO giúp chúng ta nắm bắt thông tin, cập nhật đầy đủ chiều hướng phát triển của thế giới để định hướng và điều chỉnh chính sách trong nước. Việc thu thập thông tin qua các hoạt động của WTO cũng như việc thiết lập các mạng thông tin giữa các thành viên của WTO có lợi cho ta. - Ngoài ra các quy định tự do thương mại, quyền sở hữu trí tuệ góp phần làm cho thị trường Việt Nam hấp dẫn với sức mua lớn. Mặt khác, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam còn góp phần đưa quyền sở hữu trí tuệ vào thương mại giống bao sản phẩm khác tạo động thái tích cực cho lực lượng các nhà nghiên 34 cứu, nhà phát minh sáng chế, sáng tạo. Đây là động thái quan trọng nhất phát huy nội lực, kích thích cho hoạt động nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ Việt Nam. - Người dân Việt Nam có thể tiêu dùng hàng hoá phong phú, đa dạng với giá rẻ hơn so với trước đây. - Thị trường sẽ được mở rộng ra rất nhiều, việc gia nhập WTO với thị trường rộng lớn của 148 quốc gia thành viên sẽ là cơ hội lớn để đẩy mạnh hoạt động thương mại, đặc biệt là những mặt hàng thâm dụng lao động và nông sản vốn là thế mạnh của Việt Nam, từ đó phát huy các lợi thế quốc gia của mình. Vì vậy, gia nhập WTO sẽ là cơ hội để hàng hoá dịch vụ Việt Nam đến với các thị trường rộng lớn mà trước đây từng bị hạn chế bởi rào cản phi thuế quan và thuế suất cao dành cho các nước không phải là thành viên WTO. Nhất là đối với các ngành hàng mà Việt nam có thế mạnh như: nông sản, thủy sản, may mặc, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ.v.v. Đặc biệt, Việt Nam hiện là nước xuất khẩu lớn thứ 2 về gạo, thứ 3 về hạt điều và đứng thứ 4 về cà phê trên thế giới, việc mở rộng và xây dựng thị trường ổn định cho nông lâm sản đang trở thành nhu cầu cấp bách có tính chiến lược đối với ngành nông nghiệp. Gia nhập WTO là cơ hội để thực hiện chiến lược này. - Việt Nam đàm phán gia nhập WTO với tư cách là một quốc gia đang phát triển. Vì vậy, ngoài các ưu đãi đối với hàng hoá dịch vụ Việt Nam được hưởng như các thành viên khác, thì mặc nhiên Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi mà các quốc gia khác phải giành cho nước đang phát triển và kém phát triển với mức thuế suất thấp hơn. Các quy định về kỹ thuật ít khắc nghiệt hơn, thời gian để thực hiện các nghĩa vụ dài hơn. Những ưu đãi này, nếu có định hướng và chiến lược đúng đắn có thể tận dụng đẩy mạnh xuất khẩu, bảo vệ có thời hạn một số ngành công nghiệp non trẻ tạo tiền đề để nền kinh tế quen với tình hình cạnh tranh thế giới. 35 Việc hội nhập vào WTO tạo ra cơ chế đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh, tạo cơ sở tin cậy cho hợp tác làm ăn. - Phát huy tính hiệu quả nhờ quy mô, cho phép các quốc gia sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực của mình và phát huy tối đa lợi thế so sánh. Một khi đã loại bỏ các hình thức hạn chế mậu dịch, Việt Nam sẽ có điều kiện tập trung vào những ngành sản xuất có lợi thế so sánh lớn nhất, mở rộng quy mô sản xuất những ngành này. Trên cơ sở đó mà tính hiệu quả nhờ quy mô được thực hiện. - Gia nhập vào WTO mở ra khả năng cho Việt Nam nhanh chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, sử dụng hiệu qủa hơn các nguồn lao động trong nước so với tình trạng lao động trong nước đang còn dư thừa rất nhiều như hiện nay. Từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế xã hội có hiệu quả hơn, đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế xu hướng phân công lao động quốc tế đang chuyển từ phân công theo chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang, với nội dung của nó là phân công theo bộ phận cấu thành sản phẩm. Các cơ sở sản xuất ở khắp các nơi trên thế giới tham gia vào sản xuất các bộ phận, chi tiết, linh kiện theo một quy chuẩn rồi ráp nối với nhau thành sản phẩm hoàn chỉnh. Với hình thức phân công này Việt Nam có thể tham gia vào công đoạn nào đó mà đẩy nhanh được tiến trình điều chỉnh kết cấu ngành của nền kinh tế quốc gia. Do đó mà tăng được tỷ trọng giá trị sản lượng hàng hoá tinh chế, tăng năng suất lao động trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Tham gia vào WTO làm nảy sinh dòng di chuyển lao động trong nước và quốc tế, những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI. Nhất là ở những khu công nghiệp và khu chế xuất với sự trả công hấp dẫn hơn đã tạo nên dòng di chuyển lao động trong nước: Từ vùng nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển đến khu công nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có thu nhập 36 cao hơn. Ngoài ra, dòng di chuyển lao động giữa các nước cũng tuân theo quy luật trên, tức là tới những nơi có cơ hội việc làm nhiều hơn và trả công cao hơn. - Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thông thóang và hấp dẫn. Tham gia vào WTO tạo điều kiện dễ dàng cho nguồn tư bản quốc tế từ nước phát triển chảy vào các nước đang phát triển. Cho đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho nguồn vốn trong nước đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn. Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành tháng 12/1997 đến nay, Việt Nam đã thu hút được 45 tỷ USD vốn đăng ký với hơn 2400 dự án của hàng trăm công ty từ hơn 70 nước và lãnh thổ. Hiện nay, sản phẩm của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm gần 35% giá trị sản lượng công nghiệp, tốc độ tăng trung bình 20% năm, thu hút gần 30 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Vì thế, việc tích cực chủ động thu hút đầu tư nước ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng để phát triển kinh tế nước ta. Một khi gia nhập WTO, theo quy định của Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, Việt Nam sẽ loại bỏ các biện pháp hạn chế, đầu tư không hợp lý. Điều đó sẽ tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Ngoài ra, việc thực hiện nguyên tắc luật lệ chính sách thương mại minh bạch và có thể dự đoán trước sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư, khả năng thu hút đầu tư nhờ thế sẽ cao hơn. - Tạo điều kiện để Việt Nam cải cách cơ chế chính sách: Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải tiến hành điều chỉnh hệ thống chính sách, luật pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại và cải cách hệ thống hành chính của mình cho phù hợp với các nguyên tắc và quy định của WTO, đồng thời phải tiến hành minh bạch hoá chính sách, chế độ kinh tế thương mại. Thực hiện nghĩa vụ này, các chính sách không hợp lý, không phù hợp với tình hình thực tế sẽ được bổ sung và hoàn thiện. Chẳng hạn Việt Nam sẽ cần phải bổ sung những đạo luật 37 hiện chưa có trong hệ thống luật pháp như luật chống độc quyền, chống bán phá giá, luật thuế đối kháng... Qua đó sẽ có được một hệ thống luật pháp chặt chẽ hơn và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế hơn. Đó chính là điều kiện để xây dựng và phát triển nền kinh tế lành mạnh dựa trên nguyên lý thị trường thúc đẩy kinh tế thương mại và đầu tư. Cùng với tác động trên là việc hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại đầu tư quy hoạch phát triển hệ thống doanh nghiệp theo hướng gia tăng hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Tạo điều kiện doanh nghiệp ngoài quốc gia phát triển cũng là một nhân tố góp phần gia tăng hiệu quả và phát triển thương mại cả về quy mô cũng như chất lượng. Nếu trước đây, khi còn duy trì các hình thức hạn chế mậu dịch thì các nhà sản xuất trong nước dễ rơi vào tình trạng trì trệ, dựa dẫm vào sự bảo hộ của chính phủ. Còn bây giờ, khi đã xoá bỏ đi các hình thức hạn chế mậu dịch, buộc các nhà sản xuất phải cố gắng nâng cao hiệu quả, tăng cường chất lượng và áp dụng những công nghệ mới tiên tiến. Có như vậy, họ mới thành công trong quá trình cạnh tranh với các nhà sản xuất từ các thành viên khác trong liên hiệp quan thuế. - Tiếp thu khoa học công nghệ kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh năng động sáng tạo: Gia nhập WTO sẽ là một bước tiến lớn trong quá trình hội nhập của nước ta vào nền kinh tế quốc tế. Sự hội nhập này tạo cơ hội để Việt Nam tiếp cận với những thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Đồng thời, thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp nhận được cả các công nghệ sản xuất lẫn những kinh nghiệm quản lý hiện đại, nhất là với những ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực Việt Nam còn non kém rất nhiều so với thế giới. Nguồn nhân lực của đất nước sẽ có điều kiện để nâng cao trình độ, kỷ luật, đảm bảo được hiệu quả và năng suất phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. 38 Nếu chúng ta gia nhập toàn diện thế giới thông qua WTO thì chúng ta có quyền tin rằng các tác động tích cực này sẽ tăng nhanh hơn so với hiện nay. Nhờ tham gia vào phân công lao động quốc tế, chuyển nhanh nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường, hoàn thiện luật pháp, môi trường kinh doanh sẽ là động cơ bên trong để Việt Nam gia tăng hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả sử dụng tài nguyên. 3.2- NHỮNG THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA WTO - Nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường chưa lâu, hiện nay vẫn nằm trong giai đoạn chuyển đổi. Các thể chế quan trọng cấu thành nền kinh tế thị trường chưa được hình thành và phát triển đồng bộ trong đó có: hệ thống thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường sản phẩm khoa học và công nghệ, thị trường bất động sản, thị trường lao động và thị trường các dịch vụ cao cấp. Hệ thống các chính sách của Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, đặc biệt là chưa phù hợp với các thông lệ và công ước quốc tế. Luật còn phức tạp và thiếu ổn định. Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, luật ban hành còn thiếu tính đồng bộ, tính thực thi pháp luật không nghiêm minh, thiếu cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu quả ….Trong những điều kiện như vậy, tham gia vào các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu, phải tuân thủ các luật của kinh tế thị trường là khó khăn rất lớn đối với Việt Nam. - Khả năng của các doanh nghiệp: Nhìn chung, doanh nghiệp của Việt Nam có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng tổ chức thị trường yếu và phần nhiều vẫn sống dựa vào những ưu đãi của Nhà nước về thuế, tài chính, tín dụng và về cơ chế chính sách. Bên cạnh đó, hiểu biết về hội nhập và tổ chức, chuẩn bị cho công tác hội nhập đang còn rất hạn chế. Các doanh nghiệp hiện nay hầu như còn đứng ngoài cuộc, chưa sẵn sàng tham gia vào tiến trình này trong khi doanh nghiệp chính là đối tượng và cũng là động lực của quá trình gia nhập. Trình độ cán bộ 39 quản lý các doanh nghiệp của ta nói chung còn thấp, thiếu kinh nghiệm, kiến thức về luật lệ quốc tế cũng như trong vấn đề hội nhập, chưa quen cách làm mới, tính thích ứng chưa cao, hạn chế về ngoại ngữ và kỹ năng đàm phán, kỹ thuật phân tích vĩ mô cũng như vi mô rất hạn chế, khả năng sử dụng các công cụ quản lý như dữ liệu thông tin, cơ quan nghiên cứu hỗ trợ... còn yếu. Đây là thách thức không nhỏ đối với chúng ta khi gia nhập WTO, một "sân chơi" mang lại nhiều lợi ích song lại có quá nhiều "luật chơi" phức tạp. - Hạn chế về nguồn nhân lực. Hiện nay, chúng ta đang thiếu đội ngũ cán bộ giỏi có chuyên môn và kinh nghiệm trong hợp tác kinh tế quốc tế. Trình độ cán bộ tham gia trực tiếp vào công tác hội nhập cũng như thực hiện các cam kết quốc tế nhìn chung còn khá thấp. Một trong số những nguyên nhân là từ trước tới nay chúng ta chưa có một chính sách quy hoạch đồng bộ và ưu tiên chính đáng. Vấn đề thực thi chính sách còn nhiều bất cập cũng có một phần nguyên nhân ở sự hạn chế về trình độ chuyên môn và năng lực thực thi pháp luật. Cụ thể hơn, sự hiểu biết hạn chế về cơ chế thị trường và sự vận hành của nó, các học thuyết, các quy định của thương mại quốc tế, các vấn đề nổi cộm trong thương mại quốc tế đang gây trở ngại cho việc tham gia vào WTO. - Tham gia vào WTO vừa tạo điều kiện cho các quốc gia tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, vừa tạo ra một sự cạnh tranh gay gắt trên phạm vi toàn thế giới, làm những công ty có năng suất kém hơn bị phá sản, những quốc gia phát triển kém hơn có nguy cơ bị tụt hậu, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất nan giải ở các quốc gia chậm phát triển hơn. - Các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam ở vào thế bất lợi trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và theo những luật chơi mới. Tuy về danh nghĩa, các nước, các công ty đều chơi theo luật một cách "bình đẳng", nhưng do không "bình đẳng" về năng lực và vị thế nên dẫn đến sự bất bình đẳng trong tiếp cận cơ hội 40 giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển (do chênh lệch nhau về năng lực, vốn, công nghệ...) Hội nhập kinh tế không một cơ chế đảm bảo sự phân phối công bằng các cơ hội và lợi ích giữa các quốc gia, khu vực cũng như giữa các dân cư trong mỗi quốc gia mà ngược lại làm gia tăng thêm tình trạng bất công, làm sâu sắc sự phân hoá giàu nghèo. - WTO mở ra cơ hội cho Việt Nam tranh thủ nguồn lực bên ngoài, song chính điều đó lại bao hàm khả năng phụ thuộc nhiều hơn vào hệ thống phân công lao động quốc tế, nếu như không xác định được một chiến lược phát triển phù hợp dựa trên cơ sở phát huy nội lực là chính. - Một khi tham gia WTO, Việt Nam sẽ phải tạo điều kiện về tiếp cận thị trường cho các thành viên khác thông qua cắt giảm thuế xuất nhập khẩu và các biện pháp hạn chế nhập khẩu phi thuế quan theo một lịch trình cụ thể. Ngòai ra còn phải mở cửa thị trường dịch vụ, cho phép cạnh tranh quốc tế. Các lĩnh vực dịch vụ gồm nhiều loại: Ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, viễn thông, xây dựng và tư vấn. Sự bảo hộ của Nhà nươ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf42715.pdf
Tài liệu liên quan