Luận văn Quản lý môi trường trong hoạt động du lịch văn hóa ở Viên chăn, Lào

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BVMT DU LỊCH 2

VĂN HÓA THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN 2

1.1. Tổng quan cơ sở lý luận về môi trường du lịch và vấn đề BVMT DL 2

1.1.1. Một số khái niệm 2

1.1.2. Các tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên và môi trường 9

1.1.3. Nhận định chung về phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi trường 13

1.1.4. Tác động giữa hoạt động du lịch với môi trường tự nhiên 17

1.1.5. Các nguồn tác động từ hoạt động du lịch đến môi trường tự nhiên 19

1.1.6. Một số bài học kinh nghiệm về bảo vệ môi trường tự nhiên 19

1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 21

1.3. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội 22

1.3.1. Điều kiện tự nhiên 22

1.3.2 Tình hình kinh tế - xã hội và văn hóa ở Viên Chăn 23

1.3.3 Tiềm năng phát triển du lịch văn hóa tại Viên Chăn 25

1.4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề BVMT DLVH ở Viên Chăn 30

1.5. Cơ sở pháp lý hiện nay về bảo vệ môi trường du lịch văn hóa ở Viên Chăn 33

1.5.1. Về du lịch 33

1.5.2. Về môi trường 36

1.6. Định hướng phát triển du lịch văn hóa ở Viên Chăn đến năm 2020 42

 

doc133 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 509 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý môi trường trong hoạt động du lịch văn hóa ở Viên chăn, Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
), Hội vào chay (Bun khậu phăn xạ, Hội mãn chay (Bun Ooc Phăn xạ) Với loại hình du lịch này du khách có thể vừa tham quan vừa kết hợp du lịch văn hóa. Đặc biệt là với du khách quốc tế. Những tour du lịch tìm hiểu văn hóa, lịch sử có thể thực hiện rất đa dạng ở Viên Chăn. Loại hình này được tổ chức theo mùa ở các thời điểm khác nhau trong năm [26]. - Du lịch ẩm thực: bên cạnh các lễ hội dân tộc, các di sản văn hóa tại Viên Chăn còn có rất nhiều món ăn truyền thống đặc sắc củng như các món ăn được kết hợp từ nhiều quốc gia, du khách đến thành phố có thể thưởng thức qua hình thức tua du lịch thả thuyền trên sông Mê - kông (khu du lịch Thàng Òon) hay tại các khu ẩm thực truyền thống, hệ thống các nhà hàng khách sạn trong thành phố. - Du lịch buôn bản: khách du lịch chia sẻ các hoạt động trong cuộc sống thôn bản, dân làng cung cấp các dịch vụ ăn ở, nhà trọ cho khách nghỉ ngơi qua đêm. Nhà trọ chính chính là các điểm kinh doanh du lịch, tại đây du khách ở lại qua đêm trong những ngôi nhà làng, cùng với một gia đình. Khách du lịch có thể chọn nhà nghỉ, các nhà nghỉ này được hoạt động bởi một hợp tác xã, làng, hoặc cá nhân, cung cấp cho du khách không gian riêng tư hơn, thoải mái cho cả họ và đôi khi cũng là thoải mái hơn cho chủ nhà. - Du lịch làng nghề: Viên Chăn có các làng sản xuất thủ công mỹ nghệ ở địa phương có một lịch sử lâu dài. Khách du lịch có thể tìm hiểu thêm về di sản văn hóa và nghệ thuật phong phú và độc đáo thành phố. Ngoài ra tại Viên Chăn còn có nhiều hình thức du lịch khác như : Du lịch làm ăn, du lịch giải trí và năng động đặc biệt, du lịch nội thành, du lịch mạo hiểm khám phá trải nghiệm, du lịch tự túc, du lịch theo các tua du lịch, du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh,... 3.1.2 Du lịch tâm linh - Chùa Hỏ Phạ Kẹo Đền tiếng lào gọi là Hỏ, Hỏ Phạ Kẹo thuộc bản Si Sa Kệt mương Chăn Thạ Bu Ly. Hỏ Phạ Kẹo trước đây là nơi thờ Phỉ (thờ Ma) sau đó vào thời kỳ hưng thịnh của vương quốc Lào Lạn Xạng, dưới thời Phô Thi Xa Lạt năm 1527, nhà vua đã ra sắc lệnh cấm thần dân trong nước không được thờ Phỉ mà chỉ được thờ Phật. Đó là thời điểm các đền thờ Phỉ bị đập đi để xây chùa thay vào Hỏ Phạ Kẹo tương truyền đó là một miếu thờ Phỉ đã bị đập xây chùa thờ Phật. Nhưng nó có nguồn gốc là Hỏ Phỉ nên khi một ngôi chùa thờ Phật được xây dựng trên nền cũ nên nó vẫn mang tên tiền kiếp là Hỏ Phạ Kẹo. Hỏ Phạ Kẹo được xây dựng vào năm 1565 dưới thời vua Say Sệt Thả Thi Lạt, nhà vua cho xây dựng chùa này với mục đích để tượng phật Phạ Kẹo, một pho tượng được làm bằng ngọc Bích mà ông đã đưa từ Xiêng Mày về ngự tại đây. Chùa mang tên Phạ Kẹo là lấy tên của pho tượng Phật bằng ngọc Bích nổi tiếng nhất này.[6] Hình 3: Chùa Hỏ Phạ Kẹo -Thạt Đăm Tháp tiếng Lào là Thạt, Thạt Đăm dịch là Tháp Đen. Thạt Đăm nằm cách Hỏ Phạ Kẹo khoảng 200m về phía đông, thuộc bản Si Sa Kệt mương Chăn Thạ Bu Ly- thủ đô Viêng Chăn. Thạt Đăm có vị trí quan trọng nằm giữa hai con đường Chăn Thạ Cụm Man, đối diện đại sứ quán Mỹ. Thạt Đăm trở thành vòng tròn của giao thong xung quanh tháp, đây cũng là trung tâm của nhiều ngôi nhà kiến trúc thời Pháp, bởi đây là một thời gian khôi phục lại thủ đô Viêng Chăn vào những năm 1920-1940 của Pháp. Hiện nay, Thạt Đăm không có tài liệu cụ thể nào nói về niên đại khởi dựng Tháp này. Thường trong khu vực có nhiều ngọn tháp đỉnh phủ lên ngọn nhiều màu vàng rực rở và rất đẹp, nhưng Thạt Đăm lại có màu đen và rất cũ. Theo một số học giả Lào cho biết Thạt Đăm được xây dựng vào thời kỳ hưng thịnh của vương quốc Lào Lạn Xạng thế kỷ XVI. Theo lời kể của dân cho biết Thạt Đăm xây để kỉ niệm con rồng 7 đầu, họ có quan niệm rằng rồng 7 đầu đã có vai tro giúp dân đấu tranh chiến thắng quân Xiêm năm 1828. Còn một truyền thuyết cho biết, ngày xưa có một ông sư thầy từ Miến Điện trở về miền đất Viên Chăn và xây dựng một ngôi chùa là vắt AHam ở khu vực Thạt Đăm hiện nay (hiện vắt AHam không còn). Hình 4 : Thạt Đăm - Chùa Si Sa Kệt Chùa tiếng Lào gọi là Vắt, vắt Sỉ Sạ Kệt nằm ở phía đông thủ đô Viên Chăn, thuộc bản Sisaket, mương Chăn Thạ Bu Ly. Theo thư tịch vắt Si Sa Kệt có hai tên gọi đó là: Vắt Si Sa Kệt và Sạ Tạ Sạ Hắt Ra Ram, nếu dịch theo nghĩa tiếng Lào thì đó là viết tắt là vắt Xẻn (Xẻn là một trăm nghìn) với tên gọi là vắt Xẻn hoạc là vắt Sạ Tạ Sạ Hắt Ra Ram, phần lớn quần chúng nhân dân rất ít người biết đến họ chỉ quen gọi là chùa Si Sa Kệt. Căn cứ vào tấm bia ở mương Xỉ Xiêng Mai (hiện nay là tỉnh Noong Khai- Thái Lan), hiện tấm bia dựng ở Hỏ Phạ Kẹo, Viêng Chăn. Chùa Si Sa Kệt được xây dựng từ năm 1551 dưới thời vua Chậu Say Nha Sệt Thả Thi Lạt I và đến đời vua Chậu Say Nhạ Sệt Thả Thi Lạt III, tức Vua Chậu A Nụ Vông lên ngôi năm 1804. Đến ngày thứ 5 mồng 9 tháng 5 năm 2361 theo phật lịch, thức năm 1818 dương lịch đã trùng tu, xây tháp và tạc một số tượng phật ở chùa Si Sa Kệt. Bộ mái chùa công gồm có 3 lớp mái chồng lên nhau, nhưng toàn thể kiến trúc ngôi chùa Si Sa Kệt, là ngôi chùa duy nhất không bị chiến tranh tàn phá và là ngôi chùa còn nguyên vẹn ở thủ đô Viên Chăn. Chùa được xây dựng trên khu đất có nhiều cây dừa và hoa lá cây cảnh cùng với các ngọn tháp bên cạnh đã khiến cho toàn bộ cụm kiến trúc văn hóa này. Chùa Si Sa Kệt có 5 điểm đặc biệt nhất hơn các chùa ở Lào là: Ngôi chùa có hướng Tây (đa số chùa Lào đều hướng Nam hoặc hướng Bắc, không có chùa nào cắt ngan dòng sông). Có Kom Ma lien bao quanh. Có nhiều tượng phật nhất ở Lào (khoảng 2500 pho tượng) và trên các bức tường có nhiều hộc và nhiều tượng phật, có khoảng 9168 tượng phật thích ca. Có Hỏ Tay Pi Độk rất đặc biệt. Chưa bao giờ bị chiến tranh tàn phá tuy đã nhiều lần trùng tu nhưng khoogn phá hỏng kết cấu cũ của ngôi chùa. Chùa Sỉ Sa Kệt là một ngôi chùa cổ, đẹp với hệ thống kiến trúc độc đáo đã tạo thành một cụm di tích văn hóa, tôn giáo đặc sắc của thủ đô Viên Chăn nói chung và huyện Chăn Thạ Bu Ly nói riêng. Chùa được Nhà nước công nhận di tích lịch sử vào năm 1993. Hình 5: Chùa Sỉ Sạ Kệt - Chùa In Peng Chùa In Peng thuộc bản Mi Say mương Chăn Thạ Bu Li cách Hỏ Phạ Kẹo khoảng 1km về phía Bắc. Hiện không có tài liệu cụ thể về niên đại khởi dựng chùa nhưng có một đoàn lịch sử Lào cho biết chùa In Peng được xây dựng cùng với chùa Ông Tự vào năm 1566 dưới thời vua Say Nha Sệt Tha Thi Lạt. Nhưng chùa được trùng tu vào những năm 1865 đến 1869 do ông Thăm Say Nha Sit Sê Na. Chùa Inpeng là một ngôi chùa đã giữ được khá nhiều hiện vật quý giá cùng với quần thể kiến trúc của ngôi chùa này. Nhà nước công nhận di tích lịch sử văn hóa năm 1993. Hình 6: Chùa Inpeng - Chùa Ông Tự Chùa Ông Tự, nằm tiếp giáp với chùa In Peng ở phía Bắc, thuộc mường Chăn Tha Bu Ly. Ông Tự là tên gọi của pho tượng, nếu dịch Ông Tự có nghĩa đó là pho trượng một triệu tấn. Ngày xưa chùa Ông Tự có tên là chùa SiPhum, cho đến năm 1566, sau khi vua Say Nhạ Sệt Tha Thi Lạt, tạo tác pho tượng Ông Tự này xong mới đặt tên chùa là chùa Ông Tự theo tên pho tượng phật Ông Tự, và ông vua Say Nhạ Sệt Tha Thị Lạt, đã thành lập mường Chăn Tha Bu Ly trở thành kinh đô của đất nước Lào năm 1560. Chùa Ông Tự, từ xa xưa đã là một trung tâm trường học về phật giáo và hiện cũng là một Đại học phật giáo của các nhà sư cả đất nước đến đây học tập và là nơi tổ chức các lễ hội phật giáo nổi tiếng ở thủ đô Viên Chăn. Chùa đáng được quan tâm, giữ gìn, tôn tạo để làm nơi sinh hoạt văn hóa của nhân dân. Chùa đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa năm 1993.[2] Hình 7: Chùa Ông Tự - Chùa Mi Say Chùa Mi Say nằm cách Hỏ Phạ Kẹo khoảng 500 mét về hướng Bắc, thuộc bản Mi Say, mường Chăn Tha Bu Ly. Chùa Mi Say có hai tên gọi cũ là chùa Vị Say, năm 1957 chùa có tên là Vắt Mi Say Nha Ram. Hiện không có tư liệu cụ thể về niên đại khởi dựng chùa, nhưng niên chùa được trùng tu lớn nhất vào năm 1957. Chùa lưu giữ tượng phật bằng đồng và một bia đá, hiện tấm bia đó không còn nhìn thấy chữ ghi trên bia. Chùa Mi Say Sa Ram là nơi tổ chức các lễ hội phật giáo củng như là địa điểm du lịch nổi tiếng ở thủ đô Viên Chăn. - Chùa Hái Sôk Chùa Hái Sôk nằm giáp với chùa Ông Tự về hướng Đông, thuộc bản Hái Sôk, mường Chăn Thạ Bu Ly. Chùa Hái Sôk hiện không có tư liệu cụ thể về niên đại khởi dựng chùa, nhưng chùa được trùng tu lớn nhất vào năm 1987. Chùa không còn hiện vật quý giá sót lại. Có thể nói chùa Hái Sôk là một chùa lớn nhất ở trên mường Chăn Thạ Bu Li của thủ đô Viên Chăn, chùa được xây dựng trên khu đất rộng, chùa có bố cục dạng hình chữ nhật phía ngoài chùa bên phải là Cụ Ti (Nhà ở của sư). Hỏ Koong ( Gác trống ) và phía sau chùa hiện nay đang xây Sala ( Nhà làm lễ ). Chùa không có hiên ở cửa chính vào chùa, bên trong chùa là một phòng hội trường rất rộng, ở một góc có xây dựng một bàn thờ và một góc bên cửa chính là nơi làm lễ có chức năng thay Sala. Kiến trúc chùa kiểu Lào Lạn Xạng hiện đại, xây nền cao, cột cao, tường cao, mái chùa cao, Xỉ Nạ hình tam giác cao và có nhiều cửa sổ. - Chùa Xiêng Nhưn Chùa Xiêng Nhưn nằm giáp chùa Chăn Thạ Bu Ly về hướng Bắc thuộc bản Xiêng Nhưn thủ đô Viêng Chăn. Chùa Xiêng Nhưn có tên gọi đầy đủ là Chùa Xiêng Nhưn Nạ Tha Ram, theo sách kinh phật của sư thầy Phạ Thăm Mạ Khô Sa Chan Kạo Phút Thọ Vông cho biết tên của chùa được đặt của hai vợ chồng, chồng có tên là Xiêng Măn và vợ tên là Bun Nhơn, sau khi có công góp tiền để xây dựng trùng tu chùa thì đặt tên chùa là Xiêng Nhưn Nạ Tha Ram. Phần lớn quần chúng nhân dân quen biết và hay gọi là chùa Xiêng Nhưn. Chùa Xiêng Nhưn hiện không có tư liệu cụ thể về niên đại khởi dựng chùa, nhưng chùa được trùng tu lớn nhất vào năm 1987. - Chùa Thát Luổng Cuối đường Lạn Xạng là Thát Luổng - di sản văn hóa thế giới, biểu tượng của quốc gia Phật giáo tiểu thừa Lào. Là ngôi chùa được in trên tiền giấy và quốc huy của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Thát Luổng hay (Phạ) Thát Luổng (Thát Lớn trong tiếng Lào) là một thát (stupa) Phật giáo được xây từ năm 1566 trên phế tích của ngôi đền Ấn Độ thế kỷ 13, mặt ngoài được dát vàng. Thát Luổng chính là tháp xá lị lớn nhất và đẹp nhất ở Lào. Hàng năm ở đây vào trung tuần tháng 11 đều diễn ra lễ hội lớn mang tính chất quốc gia là lễ hội Thát Luổng.[19] Hình 8: Chùa Thát Luổng Di tích lịch sử hiện đại: tượng đài chiến thắng PaTuXay: nằm ngay trung tâm thủ đô Viên Chăn, thuộc bản Hát Sa Đi Nưa, mương Chăn Tha Bu Ly, PaTuXay được xây dựng trên một khu đất rất rộng hình chữ nhật, nằm góc giao nhau của đại lộ Lạn Xạng, đường Tháp Luổng (hiện là đường 23 Sinh Ha), đường Phôn Khênh (hiện là đường Kay Sỏn Phôm Vị Hản) và đường Si Bun Hương. PaTuXay nằm trên vị trí rất quan trọng ở thủ đô Viêng Chăn là trung tâm vui chơi giải trí và thể thao của nhân dân thủ đô Viên Chăn. PaTuXay phía Bắc là một đường lát gạch hai bên là vườn hoa và xây cảnh rất rộng với hai bề phun nước. Phía Nam có một lối đường từ quốc lộ Lạn Xạng đi vào của PaTuXay và hai bên là vườn hoa cây cảnh với một bề phun nước khiến cho PaTuXay có một vẻ đẹp rất riêng và đầy giá trị lịch sử của Lào. PaTuXay được xây dựng năm 1957. Những năm xây dựng PaTuXay do Đại tướng Phum Mi No Sa Văn làm thủ tướng vương quốc Lào và được chọn mẫu kiến trúc của Đại tướng Thăm Say Nha Sit Sể Na. Kiến trúc PatuXay giống như tháp L’arc de Triumphe của Pháp. Và xây dựng đại lộ Lạn Xạng thành Champs Elyse. PaTuXay có 4 cửa ở 4 mặt theo 4 hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Và cửa thắng lợi Acdertriom - Pari chỉ có 2 cửa. PaTuXay có hai tên gọi đó là A Nụ Sả Vạ Li (Đài tưởng niệm) và PaTuXay (Tượng đài chiến thắng). Sau khi đất nước Lào hoàn toàn giải phóng nhân dân Lào rước cờ để chào mừng ngày giải phóng 2/12/1975 qua A Nụ Sả Vạ Li (Đài tưởng niệm) này. Từ đó A Nụ Sả Vạ Li có tên gọi là PaTuXay và được dùng rộng rãi đến tận bây giờ. Hình 9: Tượng đài chiến thắng Pạ Tu Xay 3.1.3 Du lịch lễ hội Lào là một nước có hội hè quanh năm từ tháng giêng cho đến tháng chạp. Người Lào gọi lễ hội là Bun. Hết Bun là làm phúc, cho bản thân mình và phúc cho người. Làm phúc cho người để cầu phúc cho mình là phản ánh triết lý nhân quả của đạo Phật. Vì vậy, việc làm phúc một cách tự nguyện và điều đó đã trở thành niềm vui cuộc sống. Dân tộc Lào là cư dân nông nghiệp đang còn dạng tự nhiên, quanh năm sống với đồng ruộng sông núi tiếp xúc với thiên nhiên. Vì thế hội hè vui chơi tập thể trở thành nhu cầu thiết yếu của cuộc sống tinh thần, đồng thời là văn hóa truyền thống của nhân dân. Họ lao động cực nhọc quanh năm để có cơm no, áo ấm và hội hè vui chơi. Hội hè là nơi tiếp xúc giao lưu giữa các làng bản, là dịp may cho những cuộc hội ngộ tình tứ dao duyên, là sự tăng cường đoàn kết gắn bó trong nhân dân, là nơi khoe tài đua sắc trong các cuộc múa hát, thi pháo, đua thuyền, văn hóa nghệ thuật dân tộc. - Hội năm mới: Hàng năm cứ đến các ngày 13, 14, 15 hoặc 14, 15, 16 tháng 5 theo lịch Lào (khoảng giữa tháng 4 dương lịch), nhân dân Lào tổ chức ngày hội năm mới (Bun po may). Lễ hội có 3 ngày chính: Ngày thứ nhất là ngày Xẳng Khản luồng, ngày thứ hai Xẳng Khản Nâu, ngày thứ 3 là ngày Xẳng Khản Khựn. Nội dung chính của lễ hội được diễn ra vào ngày Xẳng Khản Luồng tức là ngày chuẩn bị đón năm mới. Nhà chùa rước tượng Phật từ Xỉm (phật điện) đưa ra ở sân chùa và chuẩn bị nước tắm Phật (nặm môn). Ngày Xẳn Khản Nâu là ngày tết chính của năm mới, vào buổi sáng mọi người mặc quần áo gọn gàng, cùng mang các đồ bánh kẹo, hoa quả và một âu nước thơm để mang đến chùa dự lễ tắm Phật. Khi các tín đồ đến đông đủ tăng lữ bắt đầu đọc kinh, mọi người ngồi nghiêm trang hai tay chắp trước ngực lắng nghe những lời cầu nguyện. Sau đó người dân Tắc Bạt. Tiếp đó, các sư là người đầu tiên được té nước thơm cho các pho tượng Phật đã bày ngoài sân qua cái máng tắm phật hình Naga (nước được ngâm với nhiều loại hoa có hương) tắm Phật, sự tăng cầm những cánh hoa nhúng vào “nước thiêng” ấy vẩy cho mọi người đến làm lễ, coi là ban phước lành, chúc điều tốt lành năm mới đến. Những giọt nước vẩy lên cao rồi rơi xuống tượng trưng cho những hạt mưa rơi (ý niệm cầu mưa). Sau khi nghi lễ ở phần chùa mới tới phần vui chơi dân gian, người ta chúc nhau bằng những gáo nước đổ lên người (té nước) với ước mong rồi sau đó người dân mới té sau, nước sau khi tắm Phật xong người Lào gọi là Nặm Môn ( nước có lộc), được mang về tắm cho người thân, ông bà, cha mẹ,...để rửa những gì xấu xí không tốt lành trong năm cũ qua đi và đón sự tốt đẹp, may mắn của năm mới. Trong tâm thức của người Lào nước là một yếu tố rất quan trọng, vì nước đem lại sự sống mãnh liệt cho vạn vật và con người. Lễ té nước tắm tượng Phật trong các chùa hay các khu vực vui chơi giải trí khác diễn ra hết ngày và buổi tối còn tổ chức lễ rước nến, nghe kinh phật ở chùa hoặc trong bản làng rất sôi động. Tiếp ngày Xẳn Khản Khựn (ngày mùng một tết) mọi người vẩn tham gia các hoạt động trò chơi trong chùa và tiếp tục tắm Phật, nếu người nào tắm các pho tượng Phật tại 9 ngôi chùa thì người đó có phúc lộc nhiều trong cuộc sống. Ngoài ra còn có nhiều người vào chùa buộc chỉ cổ tay với các nhà sư trong chùa để cầu may mắn, hạnh phúc. Trong những ngày tết người dân hay vào chùa để biếu đồ, tiền cho sư, quyên góp cho các quỹ từ thiện để xây chùa và giúp đỡ người nghèo khổ,...cùng với lễ hội này còn có tục lệ thả động vật như chim cá, rùa. Đây củng là một hành động phát sinh.Ngoài ra các nhà sư cùng với người dân làm lễ Tọp Phạ Thạt Xai (xây ngôi tháp bằng cát), trên ngôi tháp cát này được trang trí bằng hoa, lá cờ tượng trưng cho ngôi mộ những người đã mất.Sau đó nhà sư và mọi người cầu nguyện gặp mọi sự bình yên, tốt lành, tích được nhiều phúc đức [5]. Hình11: Người dân chơi hội năm mới Hình 10: Người dân đi tắm Phật tại chùa Hình 9: Hội năm mới - Hội đua thuyền (Bun Xuồng Hưa) Hội đua thuyền thường diễn ra vào ngày rằm 15 tháng 11 theo lịch Lào (khoảng giữa tháng 10 dương lịch), nhân dân Lào tổ chức ngày hội đua thuyền này là để cảm tạ thần nước (con Rồng). Rồng là biểu tượng của thần nước mang nhiều lợi ích cho vạn vật và con người, nhân dân Lào tổ chức ngày hội đua thuyền ở Thạ vắt chăn ven sông Mê - kông. Đây là nơi tổ chức hội đua thuyền nổi tiếng nhất của Lào. Trước lễ hội một ngày vào buổi sáng sớm có lễ Tắc Bạt và buổi đêm là hội thả đèn trên sông Mê - kông, đây là một đêm hoa đăng đẹp, lung linh diễn ra trên sông và trên khu vực chùa chiền đều chong đèn lồng và rước thần Naga trên hình thuyền bằng gỗ được trang trí rất rực rỡ ánh đèn nối tiếp nhau, nhưng tập trung nhiều nhất là hội thả đèn trên sông (Láy hưa Phay). Láy hưa Phay là lễ thả đèn trên các bè chuối và bè tre làm hình thuyền rất đẹp trên dòng sông Mê - kông.Sáng sớm hôm sau các thuyền đua từ các vùng trên địa bàn thủ đô Viêng Chăn được mang về đây.Những chiếc thuyền đua có chiều dài từ 5-7 sải. Trước khi hạ thuyền xuống sông người ta làm lễ cúng để cầu mong cho may mắn và thắng lợi trong cuộc thi. Ngày hội đua thuyền chính gồm có đội đua thuyền Nam và Nữ. Việc chuẩn bị cho lễ hội (quan trọng nhất là thuyền đua và những người trong đội chèo thuyền), người chèo thuyền phải chọn những người khỏe mạnh biết chèo thuyền giỏi. Đội đua thuyền nữ thường được đưa vào buổi sáng và đội Nam được tổ chức vào buổi chiều. Trong đội đua thuyền này có một thuyền trang trí rất đẹp và gồm có những người mà hóa trang kiểu nhảy múa trên thuyền được chạy lên chạy xuống theo ven sông Mê - kông, nơi mà khán giả đang đón xem hội đua thuyền rất đông đảo, tạo không khí cho buổi lễ hội sôi động hơn [2]. Hình 12: Hội đua thuyền - Hội Phật Vệt Xẳn Đon (BunPha Vệt Xẳn Đon) Vào một ngày của tháng tư nhân dân tại Viên Chăn thường được tổ chức lễ hội “ Phạ Vệt” để tưởng nhớ đức Phật Vệt Xẳn Đon. Theo quan niệm của người dân nơi đây, đức Phật đã trải qua 50 kiếp. Trong 50 kiếp đó, người Lào cảm thông nhất với kiếp cuối cùng của đức Phật là Phạ Vệt Xẳn Đon. Tác phẩm về cuộc đời của Phạ Vệt được đọc trong đêm hội Phật giáo lớn nhất ở Lào: Bun Phạ Vệt. Sở dĩ người Lào yêu thích tác phẩm này vì từng giai đoạn trong cuộc đời Phạ Vệt, trong cảnh đất nước núi sông đang trong tác phẩm chính là hình ảnh đất nước Lào, con người trong tác phẩm củng giống như con người Lào. Các tình tiết câu chuyện rất phù hợp với tâm lý, tư tưởng, tình cảm của con người Lào, theo Xi La Vị Tạ Vông, người dịch tác phẩm này thì tác phẩm được du nhập vào Lào thời Su Ry Nha Vông Sả. Ja Ta Ka Phạ Vệt thể hiện đầy đủ giáo lý Phật giáo: Sự bố thí, Phạ Vệt đã bố thí hết của cải, bố thí vật quý giá nhất của vương quốc là con voi trắng và cao nhất của đức hy sinh là bố thí cả vợ con rồi cuối cùng được trở thành Phật [3]. Ngày lễ Phạ Vệt thường được tổ chức theo từng cụm làng bản gần nhau và tập trung vào trung tâm ngôi chùa lớn có cã sư sãi và có cả chủ trì, và đây là nghi lễ mang tính chất hoàn toàn tôn giáo. Cũng vì vậy mọi việc tổ chức trong ngày hội đều phải được bàn bạc thống nhất giữa đại diện nhân dân địa phương và các chùa xuất phát từ quy mô to nhỏ của lễ hội.Mở đầu ngày lễ hội là cuộc đón rước Hoàng tử Vệt Xẳn Đon và nàng Ma Thi, từ một khu rừng gần bản làng về chùa. Hoàng tử Vệt Xẳn Đon và nàng Ma Thi được hai người dân bản có uy tín hóa trang và mặc theo kiểu ông hoàng bà chúa. Dẫn đầu là một nhà sư có giọng nói tốt vừa đi vừa múa hát theo nhịp trống dẫn dắt đến chùa. Đến nơi, đoàn rước đi vòng quanh chùa ba vòng và dừng lại.Tất cả đều vào lễ đường làm lễ. Trong lễ đường các sư thay nhau tụng niệm kinh phật và kể lại cả cuộc đời của Vệt Xẳn Đon, từ khi sinh ra cho đến khi trở thành Phật. Nghi lễ tôn giáo chủ yếu trong ngày là nghe đọc các kiêp tu hành của Xẳn Đon hay đại kiếp Phật, gồm 500 kiếp. Bằng giọng thuyết pháp ngân nga trầm bổng, ấm cúng, các vị sư chọn lọc, dẫn dắt người nghe, theo bước đi của đức Phật hy sinh rũ bỏ tất cả sự giàu sang phú quý, vinh hoa để đi vào con đường tu hành cứu dân độ thế. Những đoạn đường gian lao, khổ hạnh, mệt mỏi, đói khát và cảm động nhất là những đoạn phải từ bỏ người thân ra đi, phải dứt tình phụ tử để cứu giúp mọi đau khổ của người đời. Văn chương biên soạn với những lời lẽ sâu sắc hấp dẫn làm người nghe cứ nín lặng trong bầu không khí thành kính. Lễ hội Phật được tổ chức rất lớn ở Viêng Chăn [2]. Hình 13: Hội Phật Vệt Xẳn Đon,người dân ngồi tụng kinh - Hội vào chay (Bun Khậu Phăn Xa) Mở đầu cho 3 tháng trong năm là hội vào chay được tổ chức vào ngày rằm tháng 8 cho đến tháng 11 (Lịch Lào). Hội vào chay là lễ hội hoàn toàn mang tính chất tôn giáo, là thời kỳ chay giới của sư sãi, bắt đầu rằm tháng 8 Lào và kết thúc vào rằm tháng 11 (suốt thời kỳ vào tuần chay khậu phăn xa) cho đến tuần chay (Oọc phăn xa) kéo dài đến 3 tháng là mùa mưa lớn ở Lào) là thời kỳ mà Đức Phật và các môn đồ lui về vườn Jêtavân để làm lễ sám hối, vì đây là mùa mưa, các sư sãi không thể đi truyền giáo được, hơn nữa đây là mùa sinh sôi nảy nở của các sinh vật, sư đi lại truyền giáo sẽ dẫm đạp lên các sinh vật. Vậy sẽ phạm nhiều tội lỗi về giáo lý cấm sát sinh. Trong thời gian này là một dịp để các sư sãi tập trung lại để tu tỉnh sám hối hàng năm, tẩy sạch những điều xấu xa là để những người chân tu trong sáng, xứng đáng là người đại diện cho Đức Phật của nhân dân. Hình 14: Dâng cơm cho sư - Hội mãn chay (Bun Oọc Phăn Xa) Hội mãn chay được tổ chức vào ngày rằm tháng 11(theo lịch Lào). Ngoài việc dâng cơm cho sư, hoa nến cho phật, đọc kinh cầu phật thì hội ra chay có lễ rước nến (Hé Thiến).Tham gia đoàn rước nến có đông đảo các phật tử, trai gái trong các bản mường.Họ rước vừa đi vừa múa hát reo hò với tiếng trống, tiếng chiêng. Trong lễ rước nến này nếu nến của người nào to, đẹp và sáng nhất sẽ được giải thưởng. Hội mãn chay có tục rước thuyền, bè ra thả trên sông Mê Kông. Trên thuyền là đèn nến sáng rực rỡ và con thuyền đó được gọi là thuyền lửa (Hưa Phay). Trước các ngôi chùa dọc theo sông Mê Kông có các thuyền lửa to nhỏ, mọi người vui vẻ cởi mở, cầu mong không khí mát lành trở lại. Nềm hạnh phúc cho mỗi người và cho bản làng. Trong suốt 3 tháng từ hội vào chay, trước ngày kết thúc (Hội mãn chay) các tăng đồ tổ chức một buổi lễ long trọng để tụng kinh Paravana. Paravana theo tiếng Pali là “chấp nhận lời khuyên bảo”. Sau đó mỗi vị su yêu cầu các bạn đồng đạo thẳng thắn chỉ ra những sai lầm của mình trong thời gian qua và xin các bạn tha thứ cho những lỗi lầm đó trước khi từ biệt nhau. Cả hai hội vào chay và mãn chay là nói đến nội dung hoạt động của các sư sãi giữa hay thời kỳ như trong mùa mưa và sau mùa mưa. Kết thúc 3 tháng là hội mãn chay ở Lào từ tháng 8 cho đến đến tháng 11 (lịch lào), trong 3 tháng này nhà chùa chỉ tập trung hoạt Hình15: Hoạt động thả đồ trên sông động trong chùa, không hoạt động bên ngoài, 3 tháng đó được coi là Khậu Phăn Xa và Oọc Phăn Xa [23]. 3.1.4 Hiện trạng phát triển du lịch văn hóa ở Viên Chăn Du lịch văn hóa tại Viên Chăn hiện đang phát triển, mở rộng tốt. Trong năm 2008 thủ đô Viên Chăn có khoảng 255 khách sạn nhà nghỉ là kết quả của sự quan tâm phát triển và khuyến khích của chính phủ, UBND thành phố cho ngành du lịch văn hóa. Số lượng khách du lịch hàng năm tăng lên đáng kể, thu nhập từ ngành du lịch văn hóa đang giữ một vị trí quan trọng trong ngành kinh tế quốc dân và công tác cải thiện đời sống của nhân dân địa phương. Năm 2000 có 486.613 số lượng khách du lịch đến tham quan thành phố, mức thu đạt được là 42.370.535 đôla Mỹ. Đến năm 2005 số lượng du khách tăng lên là 653.212 lượt, mức thu nhập đạt được là 57.353.528 đôla Mỹ. Năm 2008 số lượng khách du lịch là 878.507 với mức doanh thu là 76.511.579 đôla Mỹ. Lượt khách đến thành phố được tăng vọt ở năm 2010 : 995.150 lượt - 92.491.592 đôla Mỹ, ở năm 2012 vừa qua là : 1.290.031 lượt - 124.715.025 đôla Mỹ. Biểu đồ 1: Doanh thu từ du lịch năm 2010 - 2012 Bảng 3. Doanh thu từ khách du lịch quốc tế năm 2012 Biểu đồ 2. Doanh thu từ du lịch 2005 - 2012 Theo số liệu thống kê từ năm 2005 đến nay lượng khách du lịch đến Viên Chăn tăng lên đáng kể và liên tục tăng doanh thu cho kinh tế chung của thành phố củng như nền kinh tế quốc doanh. Tuy tại một số năm lượng du khách có giảm xuống nhưng nhờ có các chính sách phát triển hợp lý cho ngành du lịch văn hóa, lượng du khách đã dần quay trở lại và mức doanh thu đã tăng đáng kể vào các năm gần đây. Năm 2005 doanh thu từ du lịch của thành phố Viên Chăn đạt được là 57.353.258 USD, năm 2006 đạt 68.525.566 USD, năm 2007 đạt 76.868.097 USD, năm 2008 đạt 76.868.097 USD, năm 2009 giảm nhẹ xuống còn 60.016.048 USD. Đến năm 2010 doanh thu tăng trở lại là 92.491.592 USD và tăng mạnh ở các năm 2011 và 2012 với doanh thu đạt được lần lượt là 114.258.774 và 124.715.025 USD.Cùng với sự phát triển của du lịch, các ngành kinh tế khác cũng có điều kiện phát triển mạnh mẽ đặc biệt là ngành thương mại dịch vụ. Ngoài ra các ngành vận tải,xây dựng, ...cũng phát triển với tốc độ nhanh góp phần vào công tác nâng cao đời sống nhân dân trong thành phố và giải quyết công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động. Với những thuận lợi, những mặt tích cực mà phát triển du lịch đem lại thì du lịch thực sự có khả năng làm thay đổi bộ mặt kinh tế của Viên Chăn. Bảng 3.Doanh thu từ khách du lịch quốc tế năm 2012 Quốc gia Số lượng khách du lịch Số ngày lưu trú Giá bình quân/1người/1 ngày( US$) Thu nhập từ du lịch (US$) Tổng số 1.290.031 124.715.025 Khách du lịch quốc tế 305.865 3.2 50 48.938.400 Khách du lịch khu vực 984.166

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvanthacsi_dinhdangword_893_4671_1869712.doc
Tài liệu liên quan