Luận văn Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010

Khoán theo công việc, công đoạn: Lâm trường khoán trồng, chăm sóc và bảo vệ 3 năm đầu (trong giai đoạn có đầu tư vốn), sau đó lâm trường nhận lạo để khoán cho hộ gia đình hoặc giao cho lực lượng chuyên trách của lâm trường bảo vệ, diện tích khoán theo công đoạn là 24.077 ha (chiếm 7,65 %), khoán theo công việc là 24.004 (chiếm 7,6%). Hình thức khoán trên thích hợp với hộ nghèo hoặc hộ neo đơn ít lao động để bảo vệ rừng cho đến khi rừng thành thục. Tuy nhiên hình thức này có tồn tại là chưa gắn lợi ích của các hộ nhận khoán với sản phẩm cuối cùng, chưa huy động được tiền, công sức của họ vào việc bảo vệ và phát triển rừng.

Khoán hàng năm: Diện tích khoán là 148.875 ha, chiếm 47,3% diện tích khoán đối với rừng sản xuất. Lâm trường ký hợp đồng khoán bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên hàng năm với hộ gia đình. Người nhận khoán được hưởng tiền công khoán, có nơi hộ nhận khoán không nhận tiền công khoán nhưng họ được tận thu lâm sản phụ, cây già cỗi, củi.

Khoán theo Nghị định 01/CP: Là hình thức khoán kinh doanh rừng lâu dài (50 năm hoặc theo chu kỳ kinh doanh cây rừng), diện tích khoán là 117.834 ha chiếm tổng diện tích khoán đối với rừng sản xuất. Tuỳ theo từng loại rừng mà áp dụng các hình thức khoán như: Hộ nhận khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng đến khi rừng thành thục; Lâm trường ứng vốn trước cho bên nhận khoán để trồng rừng; Lâm trường đầu tư vốn để trồng rừng, bên nhận khoán đầu tư lao động hoặc có thể cả vốn để trồng, bảo vệ rừng được quy thành tiền; Lâm trường giao đất cho hộ nhận khoán tự trồng, bảo vệ và chăm sóc rừng.

Riêng đối với khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên là rừng sản xuất: Lâm trường khoán lâu dài cho hộ gia đình nhưng hàng năm vẫn phải ký lại hợp đồng, vì lâm trường không đảm bảo chắc chắn có kinh phí để khoán lâu dài cho hộ gia đình. Người nhận khoán được hưởng tiền công khoán, có nơi còn quy định hộ nhận khoán được hưởng một tỷ lệ sản phẩm khai thác chính tuỳ theo tình trạng rừng khi nhận khoán và thời gian nhận khoán.

 

doc100 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tích đất do lâm trường tự tổ chức quản lý và sản xuất: Theo bảng 4 thì diện tích đất lâm trường tự tổ chức sản xuất là 3.675.322 ha, chiếm tỷ 83,04%; diện tích đất nông nghiệp do các lâm trường tự tổ chức quản lý là 197.118 ha, chiếm 88,2% diện tích đất nông nghiệp do các lâm trường quản lý và tự quản lý 3.478.204 ha đất lâm nghiệp, chiếm tỷ lệ 82,8% diện tích đất lâm nghiệp do các lâm trường quản lý. Ưu điểm của hình thức lâm trường tự tổ chức quản lý rừng: Diện tích rừng liền vùng dễ quản lý; hạn chế tối thiểu sự xâm hại lấn chiếm đất, chặn được tình trạng tuỳ tiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất; tổ chức sản xuất tập trung, tạo được khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn một cách chủ động; quản lý được quy trình kỹ thuật, nhất là đối với cây trồng có yêu cầu nghiêm ngặt về kỹ thuật. Tuy nhiên, hình thức quản lý này còn mang tính bao cấp, chưa huy động được nguồn lực sẵn có trong nhân dân, chưa sử dụng hết đất được giao nhất là đất chưa có rừng. s Về liên doanh, liên kết, cho thuê, cho mượn. Trước hết đối với hình thức liên doanh, liên kết thì hầu hết các lâm trường chưa thực hiện hình thức liên doanh trong kinh doanh rừng. Hiện nay, chỉ có rất ít lâm trường thực hiện liên doanh với các hộ dân, hộ cán bộ, công nhân, viên chức dưới hình thức góp vốn với tổng diện tích 23.304 ha, trong đó đất lâm nghiệp là 21.781 ha, đất nông nghiệp là 1.586 ha. Tuy nhiên, hình thức này đang bộc lộ nhược điểm là các hộ gia đình tham gia liên doanh thường lén lút thu hoạch trước những sản phẩm tốt bán thu tiền riêng, còn lại sản phẩm kém thì đưa vào tiêu thụ để chia lợi nhuận, trong khi lâm trường buông lỏng quản lý theo dõi, nên ảnh hưởng đến thu hồi vốn đầu tư của lâm trường. Thứ hai là đối với hình thức cho mượn thì chỉ có một vài lâm trường đã tiến hành cho mượn đất với tổng diện tích là 2.546 ha, trong đó đất lâm nghiệp là 2.374 ha, chiếm tỉ lệ là 93,2% và đất nông nghiệp là 172 ha, chiếm tỉ lệ 6,8% diện tích đất cho mượn của tất cả các lâm trường. Đất lâm trường cho mượn hầu hết là diện tích đất trống, đồi núi trọc. Đối tượng mượn đất chủ yếu là các hộ dân trong vùng. Diện tích đất cho mượn phần lớn sử dụng đúng cho mục đích, người mượn đất phải đóng thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định. Thứ ba là đối với hình thức cho thuê thì có ít đất lâm trường cho thuê, loại đất các lâm trường cho thuê không có đất lâm nghiệp, mà chỉ cho thuê đất nông nghiệp với tổng diện tích là 576 ha, chiếm tỷ lệ 0,2% diện tích sản xuất nông nghiệp của tất cả các lâm trường. Mặc dù lâm trường đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý sử dụng đất lâm nghiệp, đất đai từ chỗ lãng phí, hiệu quả thấp thì nay đã được đưa vào sử dụng tốt hơn bằng việc áp dụng các mô hình lâm- nông hoặc nông- lâm kết hợp, thử nghiệm và đưa vào sản xuất các loại cây mọc nhanh; còn là lực lượng nòng cốt trong việc bảo vệ rừng và tổ chức trồng rừng mới. Nhìn chung diện tích rừng tự nhiên ở các Lâm trường quốc doanh giảm ít hơn, độ che phủ rừng tăng, nhiều khu rừng được khoanh nuôi phục hồi có hiệu quả, trạng thái rừng có sự chuyển biến tốt. Đặc biệt trong những năm gần đây, thực hiện các Chương trình 327, Chương trình 661,… độ che phủ của rừng tăng và đang dần được phục hồi. Thể hiện chủ yếu là: Trong quá trình đổi mới, một số lâm trường đã xoá bỏ được thế độc canh cây lâm nghiệp chuyển sang áp dụng mô hình lâm- nông kết hợp, nông- lâm kết hợp; cải thiện cấu trúc và tổ thành rừng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, như: Mô hình trồng rừng hỗn gia; mô hình trồng xen cây ăn quả với cây lâm nghiệp; mô hình chăn nuôi đại gia súc dưới tán rừng tại các lâm trường Hà Trung, lâm trường Thạch Thành (Thanh Hoá); trồng Thông xen Keo ở những nơi đất xấu; mô hình trồng Luồng, tra dặm cây Quế vào diện tích đất khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên của cây rừng,…. Một số lâm trường đã đầu tư thâm canh, nâng cao mức đầu tư tạo rừng nguyên liệu từ 7 triệu đồng/ ha lên 10 triệu đồng/ha, cải thiện giống cây trồng, thực hiện phương châm “đất nào cây nấy”, trồng rừng bằng mô hom thay thế trồng rừng bằng hạt nên đã nâng cao năng suất rừng trồng từ 70 m3 lên trên 100 m3 (chu kỳ kinh doanh từ 7- 8 năm) như các Lâm trường thuộc Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam (Thái Nguyên, Hoà Bình, Lạng Sơn, Gia Lai, Quảng Ngãi),…Một số lâm trường đã thí điểm nâng mức đầu tư tạo rừng tới 15 triệu đồng/ha (bạch đàn, keo lai) nên rừng có lượng tăng trưởng trên 25 m3/ha/năm (tương đương 170 m3/ ha/ chu kỳ kinh doanh). Một số lâm trường đang quản lý rừng tự nhiên nhưng đã chú trọng xúc tiến khoanh nuôi tái sinh tự nhiên rừng, đó như là một giải pháp tạo rừng với chi phí ít nhất và nhanh nhất. Hiện nay có hàng nghìn ha rừng tự nhiên được khôi phục trong các lâm trường thông qua hình thức khoanh nuôi tái sinh tự nhiên, hình thành những khu rừng tự nhiên lớn có chức năng phòng hộ và sản xuất, như một số lâm trường thuộc vùng Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Một số lâm trường đã hình thành cơ sở chế biến lâm sản quy mô nhỏ để tận dụng nguồn nguyên liệu của lâm trường và vùng phụ cận, mở rộng dịch vụ cho cư dân trên địa bàn (Sản xuất giống cây trồng, chuyển giao kỹ thuật,…) đã nâng cao hiệu quả kinh tế của rừng, góp phần nâng hiệu quả sản xuất kinh doanh của lâm trường như: các lâm trường thuộc Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam, các lâm trường vùng nguyên liệu giấy, công ty lâm nghiệp dịch vụ Hương Sơn (Hà Tĩnh),… 2.2.3.2 Các hình thức khoán đất lâm nghiệp. Các lâm trường thường áp dụng những hình thức khoán như sau: khoán ổn định, lâu dài theo chu kỳ kinh doanh của cây rừng hoặc tối đa là 50 năm Theo Nghị định 01/CP ngày 04/01/1995 của Chính phủ ban hành quy định về việc giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp Nhà nước. , khoán theo công đoạn, khoán hàng năm và khoán theo công việc. Bảng 5: Cơ cấu diện tích đất lâm nghiệp, nông nghiệp theo các hình thức khoán của lâm trường năm 2001. Loại đất Tổng cộng Chia ra các hình thức khoán 01/CP Công đoạn Hàng năm Công việc Cộng(ha) 724.044 226.057 62.782 390.738 44.487 Tỉ lệ % 100,00 31,22 8,67 53,97 6,14 Đất Lâm nghiệp (ha) 699.983 204.619 62.654 338.223 44.487 Tỉ lệ % 100,00 29,23 8,95 55,46 6,36 Đất Nông nghiệp (ha) 24.061 21.438 108 2.515 Tỉ lệ % 100,00 89.10 0,45 10,45 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong tổng diện tích 724.044 ha đất các lâm trường đã áp dụng hình thức khoán, thì khoán hàng năm có diện tích lớn nhất 390.738 ha (chiếm 53,97%), sau đó đến khoán lâu dài 226.057 ha(31,22%); khoán công đoạn 62.782 ha (8,67%), và khoán theo công việc 44.487 ha (chiếm 6,14%). Trong đó, khoán đối với đất lâm nghiệp là 699.983 ha (chiếm 96,68% diện tích đất các lâm trường giao khoán), khoán đối với đất nông nghiệp là 24.061 ha (chiếm 3,32%). Cụ thể khoán đối với từng loại rừng như sau: Bảng 6: Các hình thức khoán đối với từng loại rừng. Loại rừng Tổng Chia ra các hình thức khoán 01/ CP Công đoạn Hàng năm Công việc Tổng ( ha) 699.983 204.619 62.654 338.223 44.487 Tỷ lệ % 100,00 29,23 8,95 55,46 6,36 Rừng đặc dụng và rừng phòng hộ 385.193 86.785 38.577 239.348 20.483 Tỉ lệ % 100,00 22,53 10,01 62,14 5.32 Rừng sản xuất 314.790 117.834 24.077 148.875 24.004 Tỉ lệ % 100,00 37,43 7,65 47,3 7.62 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. s Đối với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ: Diện tích khoán ở rừng đặc dụng, rừng phòng hộ là 385.193 ha và áp dụng các hình thức khoán như: Khoán theo Nghị định 01/CP: Diện tích khoán là 86.785 ha, chiếm 22,5% tổng diện tích khoán đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ của các lâm trường. Trong đó, khoán rừng trồng tự nhiên là 51.946 ha (chiếm 59,8%), rừng trồng là 17.278 ha (chiếm 20,0%), đất trống là 17.561 ha (chiếm 20,2% diện tích rừng sản xuất). Tuy là khoán lâu dài nhưng hàng năm lâm trường vẫn ký hợp đồng với người nhận khoán vì kinh phí bảo vệ rừng của lâm trường phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước cấp theo từng năm. Khoán hàng năm: Diện tích khoán là 239.348 ha (bằng 62,1%). Lâm trường ký hợp đồng khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng với các tổ chức hoặc hộ dân ở gần rừng, thời gian thông thường là 1 năm. Lâm trường trả tiền công cho người nhận khoán hàng năm, nếu người nhận khoán thực hiện tốt hợp đồng thì lâm trường tiếp tục ký hợp đồng khoán với họ vào những năm tiếp theo. Khoán theo công việc công đoạn: Lâm trường khoán trồng mới, chăm sóc và bảo vệ 3 năm đầu cho người nhận khoán và thanh toán toàn bộ tiền công cho họ. Sau 3 năm lâm trường nhận lại và tiếp tục khoán cho các hộ hoặc giao cho lực lượng chuyên trách của lâm trường bảo vệ. Diện tích khoán theo công đoạn là 38.577 ha (chiếm 10,0%); diện tích khoán theo công việc là 20.483 ha (chiếm 5,4%) tổng diện tích khoán đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Hiện nay, việc bảo vệ rừng phòng hộ và rừng đặc dụng trong các lâm trường đang gặp khó khăn vì theo Quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ, mục tiêu, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng thì Nhà nước chỉ cấp tiền công bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ với thời gian 5 năm, khoanh nuôi tái sinh rừng kết hợp trồng bổ sung với thời gian 6 năm, trong khi đó các khu rừng đặc dụng, khu rừng phòng hộ phải bảo vệ lâu dài. Do vậy trong tương lai việc bảo vệ rừng đặc dụng và rừng phòng hộ trong các lâm trường sẽ khó khăn vì không có kinh phí bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh sau thời gian trên nếu không có một chính sách mới phù hợp hơn. s Đối với rừng sản xuất: Diện tích khoán đối với rừng sản xuất là 314.790 ha và các lâm trường thường áp dụng các hình thức như: Khoán theo công việc, công đoạn: Lâm trường khoán trồng, chăm sóc và bảo vệ 3 năm đầu (trong giai đoạn có đầu tư vốn), sau đó lâm trường nhận lạo để khoán cho hộ gia đình hoặc giao cho lực lượng chuyên trách của lâm trường bảo vệ, diện tích khoán theo công đoạn là 24.077 ha (chiếm 7,65 %), khoán theo công việc là 24.004 (chiếm 7,6%). Hình thức khoán trên thích hợp với hộ nghèo hoặc hộ neo đơn ít lao động để bảo vệ rừng cho đến khi rừng thành thục. Tuy nhiên hình thức này có tồn tại là chưa gắn lợi ích của các hộ nhận khoán với sản phẩm cuối cùng, chưa huy động được tiền, công sức của họ vào việc bảo vệ và phát triển rừng. Khoán hàng năm: Diện tích khoán là 148.875 ha, chiếm 47,3% diện tích khoán đối với rừng sản xuất. Lâm trường ký hợp đồng khoán bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên hàng năm với hộ gia đình. Người nhận khoán được hưởng tiền công khoán, có nơi hộ nhận khoán không nhận tiền công khoán nhưng họ được tận thu lâm sản phụ, cây già cỗi, củi. Khoán theo Nghị định 01/CP: Là hình thức khoán kinh doanh rừng lâu dài (50 năm hoặc theo chu kỳ kinh doanh cây rừng), diện tích khoán là 117.834 ha chiếm tổng diện tích khoán đối với rừng sản xuất. Tuỳ theo từng loại rừng mà áp dụng các hình thức khoán như: Hộ nhận khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng đến khi rừng thành thục; Lâm trường ứng vốn trước cho bên nhận khoán để trồng rừng; Lâm trường đầu tư vốn để trồng rừng, bên nhận khoán đầu tư lao động hoặc có thể cả vốn để trồng, bảo vệ rừng được quy thành tiền; Lâm trường giao đất cho hộ nhận khoán tự trồng, bảo vệ và chăm sóc rừng. Riêng đối với khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên là rừng sản xuất: Lâm trường khoán lâu dài cho hộ gia đình nhưng hàng năm vẫn phải ký lại hợp đồng, vì lâm trường không đảm bảo chắc chắn có kinh phí để khoán lâu dài cho hộ gia đình. Người nhận khoán được hưởng tiền công khoán, có nơi còn quy định hộ nhận khoán được hưởng một tỷ lệ sản phẩm khai thác chính tuỳ theo tình trạng rừng khi nhận khoán và thời gian nhận khoán. Theo báo cáo của 368 lâm trường, đến nay mới có 114 lâm trường áp dụng các hình thức khoán theo Nghị định 01/CP (khoán lâu dài) với diện tích là 204.619 ha, chiếm 4,9% đất lâm trường đang quản lý. Diện tích khoán bình quân của 1 hộ là 9,5 ha. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa các vùng, vùng miền núi phía Bắc là 11,3 ha/hộ; Duyên Hải miền Trung là 20,8 ha/ hộ; vùng Đông Nam Bộ là 12,9 ha/ hộ; vùng Tây Nguyên là 4 ha/hộ,… Mặc dù các hình thức khoán để tổ chức bảo vệ rừng khác nhau, nhưng mỗi hình thức có ưu điểm và hạn chế nhất định. Việc áp dụng các hình thức khoán này có ưu điểm: - Rừng được quản lý, bảo vệ và phát triển tốt hơn. - Huy động được sự đóng góp công sức của người dân tham gia bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng nhiều hơn. - Hộ nhận khoán chủ động, phát huy được tính năng động, sáng tạo; khai thác được tiềm năng về lao động, vốn, kỹ thuật của mình; gắn quyền lợi của người nhận khoán với sản phẩm cuối cùng. - Tạo công ăn việc làm cho công nhân, góp phần tích cực vào công tác xoá đói giảm nghèo. - Tạo được mối quan hệ gắn bó giữa các hộ công nhân, nông dân và lâm trường. Mặc dù vậy, các hình thức khoán này vẫn có những hạn chế: - Đối với hộ nghèo, những hình thức này không hiệu quả. Một số hộ nhận khoán thiếu vốn đầu tư, trong khi đó vốn hỗ trợ từ lâm trường hạn chế ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng. - Người nhận khoán tuỳ tiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất như: trồng cây ăn quả, cây công nghiệp như một số lâm trường vùng nguyên liệu gỗ trụ mỏ, ván nhân tạo (Lạng Sơn, Gia Lai); thường chặt tỉa dần cây rừng để bán. Do vậy mà nhiều lâm trường dừng thực hiện khoán lâu dài để thực hiện khoán theo công đoạn và hàng năm. Nguyên nhân của các tình trạng trên là: - Nhiều lâm trường đến nay vẫn chưa được giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn với giao rừng. - Cơ chế chính sách giao khoán chưa phù hợp, đặc biệt là cơ chế phân chia lợi nhuận giữa bên giao khoán và bên nhận khoán nhiều nơi thực hiện tuỳ tiện, chưa tạo động lực để các hộ dân mạnh dạn đầu tư vào việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. - Khâu chế biến, tiêu thụ tìm đầu ra cho các sản phẩm lâm nghiệp còn nhiều hạn chế. - Các lâm trường thiếu hoặc không có vốn để thực hiện cơ chế khoán. - Rừng sản xuất khoanh nuôi xúc tiến tái sinh; rừng đặc dụng và rừng phòng hộ là rừng tự nhiên nếu áp dụng cơ chế khoán như hiện nay (chi phí khoán bảo vệ rừng là 50.000 đ/ha/năm). Sau 5 năm hết tiền trả công khoán, rừng chưa có sản phẩm để khai thác, tận dụng (riêng rừng đặc dụng hầu như không khai thác, tận dụng), rừng sẽ không có người bảo vệ. - Có lúc, có nơi còn nhẫm lẫn nhiệm vụ của chủ rừng và các đối tượng nhận khoán bảo vệ rừng (trực tiếp giữ rừng) với nhiệm vụ Kiểm lâm (lực lượng thừa hành pháp luật về bảo vệ rừng). Do vậy, việc tổ chức tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị định 01 trong phạm vi cả nước để có chính sách khoán thích hợp lâu dài trong phạm vi lâm nghiệp nói chung và trong lâm trường nói riêng là rất cần thiết. s Về việc khoán trong khai thác gỗ rừng tự nhiên. Trừ các tỉnh vùng Tây Nguyên đã tổ chức các công ty khai thác gỗ chuyên nghiệp và đã áp dụng chế độ đấu thầu khai thác, bán đấu giá gỗ khai thác từ rừng tự nhiên, còn ở các tỉnh khác các lâm trường thường áp dụng các hình thức khoán như: ü Lâm trường tổ chức các tổ, đội khai thác chuyên trách của lâm trường và khoán gọn cho các tổ, đội từ khâu khai thác đến vận xuất, vận chuyển; lâm trường thanh toán tiền công theo khối lượng và chủng loại gôc mà công nhân đã giao nộp tại bãi I (cửa rừng) hoặc bãi II (bãi giao gỗ).Hình thức này đã gắn được lợi ích của người lao động với sản phẩm cuối cùng, nhưng do chạy theo lợi ích, các tổ, đội khai thác của lâm trường thường chọn những các loại cây dễ khai thác, ở gần đường, không thực hiện đúng theo quy trình thiết kế nên chất lượng rừng bị giảm sút. ü Lâm trường khoán cho lực lượng tư nhân từ khâu khai thác đến vận xuất, vận chuyển và giao nộp gỗ tại các bãi I hoặc bãi II. Lâm trường thanh toán bằng tiền theo khối lượng sản phẩm giao nộp hoặc cho lực lượng nhận khoán hưởng tỷ lệ % gỗ giao nộp. Hình thức này đã thực hiện từ khi xóa bỏ chế độ bao cấp. Tóm lại việc áp dụng các hình thức về quản lý rừng và đất lâm nghiệp đã có hiệu quả hơn, rừng được bảo vệ khá hơn, tỷ lệ rừng trồng thành rừng tăng. Thể hiện ở: Theo kết quả tổng kiểm kê tài nguyên rừng năm 2001, các lâm trường trồng được 534.580 ha, trong đó rừng trồng sản xuất là 320.281 ha, chiếm 59,9% diện tích rừng trồng trong các lâm trường, diện tích rừng trồng phòng hộ là 202.107 ha, rừng trồng đặc dụng: 12.192 ha, nâng cao độ che phủ rừng 28,1% năm 1995 lên 33,2% năm 2000. Toàn quốc có 316 lâm trường có rừng trồng, diện tích bình quân của 1 lâm trường khoảng: 1.691 ha. Tuy nhiên, có lâm trường chỉ có diện tích rừng trồng không quá 100 ha (Lâm trường Mộc Châu II, Lâm trường Sông Mã- Sơn La),Lâm trường Quỳ Châu (Nghệ An), nhưng có lâm trường có trên 5.000 ha rừng trồng như: Lâm trường Đình Lập (Lạng Sơn), Lâm trường Xuyên Mộc (Bà Rịa- Vũng Tàu) và một số lâm trường ở tỉnh Cà Mau. Diện tích rừng trồng của các lâm trường góp phần hình thành các vùng nguyên liệu giấy, vùng nguyên liệu cung cấp gỗ trụ mỏ, vùng nguyên liệu ván nhân tạo và những khu rừng phòng hộ. Từ đó góp phần hình thành một số vùng nguyên liệu gỗ công nghiệp tập trung gắn với chế biến như: - Nhiều lâm trường thuộc tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Gia Lai, Đồng Nai trồng rừng cung cấp nguyên liệu cho nhà máy giấy Bãi Bằng, Đồng Nai hình thành vùng nguyên liệu giấy. - Một số lâm trường ở tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang tham gia cung cấp gỗ trụ mỏ cho các mỏ than ở tỉnh Quảng Ninh, hình thành vùng nguyên liệu gỗ trụ mỏ Đông Bắc. - Nhiều lâm trường tham gia cung cấp nguyên liệu sản xuất ván nhân tạo, hình thành vùng nguyên liệu ván nhân tạo như: Thái Nguyên, Hoà Bình, Gia Lai. - Hình thành vùng Quế (Yên Bái), Vùng Luồng (Thanh Hoá, Hoà Bình), vùng Thông (Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh). - Hình thành những khu rừng phòng hộ (Hà Tĩnh, Cà Mau …) Một số lâm trường có thể khai thác từ rừng trồng một khối lượng gỗ tương đương hoặc lớn hơn số gỗ đã khai thác từ rừng tự nhiên trong thời kỳ trước như lâm trường Chiêm Hoá (Tuyên Quang), Lâm trường Văn Yên (Yên Bái), Lâm trường Quảng Trị (Đồng Nai),…Các lâm trường trong vùng nguyên liệu đã cung ứng khoảng 60% nguyên liệu cho các nhà máy giấy, 70% nguyên liệu gỗ trụ mỏ. 2.2.4 Tình hình lao động và tổ chức bộ máy quản lý Việc giảm biên chế lao động từ những năm 90 được thực hiện do lâm trường áp dụng rộng rãi việc ký kết hợp đồng với các hộ gia đình sống ở đất Lâm trường quốc doanh. Việc thay đổi về tổ chức và cơ chế quản lý, nên số lượng cán bộ, công nhân, viên chức đã giảm đi rất nhiều và thay vào đó là lực lượng lao động nhận khoán thông qua hợp đồng với lâm trường. Ở thời điểm 31/6/1996 tổng số cán bộ, công nhân viên trong danh sách của các lâm trường là 56.615 người, đến năm 2001 chỉ còn 26.843 người (giảm 52,6%), trong đó nhân viên lao động trực tiếp có 20.132 người, chiếm 75%; cán bộ quản lý và nhân viên là 6.711 người, chiếm 25%. Bình quân mỗi lâm trường là 73 người. Đến năm 2003 chỉ còn 25.882 người (giảm 54,3% so với thời điểm năm 1996), trong đó lao động trực tiếp có 19.402 người, chiếm 75%, cán bộ quản lý và nhân viên có 6.480 người, chiếm 25%. Bình quân 1 lâm trường là 70 người. Về chính sách đối với người lao động: Tổng số 25.882 người trong danh sách lao động của lâm trường có 18.195 người có việc làm và hưởng lương từ lâm trường, chiếm 70,3%, có 6.580 người trong danh sách chuyển sang nhận khoán và có thu nhập từ kết quả nhận khoán, chiếm tỷ lệ 25,4%, có 1.107 người trong danh sách không có việc làm và không hưởng lương, chiếm tỷ lệ 4,3% số lao động trong danh sách của lâm trường. Thu nhập bình quân của các lâm trường năm 2001 là 525.000 đ/người/ tháng. Công nhân lâm trường ở các tỉnh có thu nhập cao là Đồng Nai: 790.000 đ, Ninh Thuận: 720.000đ, Lâm Đồng: 661.000đ,… và một số lâm trường có thu nhập thấp như ở tỉnh Sóc Trăng: 127.000 đ, Cần Thơ: 173.000đ, Lai Châu: 250.000,… Theo báo cáo của Bộ Tài Chính, năm 2001 lương bình quân của lâm trường là 500.000 đ/người/ tháng. Về đóng bảo hiểm xã hội: Trong tổng số cán bộ, công nhân viên trong danh sách của lâm trường có 15.844 người được lâm trường đóng bảo hiểm xã hộ (chiếm 61,3%), 5.146 người nhận khoán tự đóng bảo hiểm xã hội (chiếm 19,8%), còn lại 4.892 người không đóng bảo hiểm (chiếm 18,9%). Đối với lao động nhận khoán: Hiện tại có 84.505 hộ dân ký hợp đồng nhận khoán trồng rừng, bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng với các lâm trường bằng các hình thức nêu trên. Lực lượng lao động này đang ngày càng tăng nhanh về số lượng nhận khoán trong lâm trường. Do số lượng lao động trong lâm trường giảm cùng với thay đổi về cơ chế quản lý nên bộ máy quản lý của lâm trường cũng thay đổi. Số phòng, ban của lâm trường giảm, có nơi không còn phòng, ban. Giám đốc lâm trường sử dụng một số nhân viên quản lý kinh tế, kỹ thuật giúp việc; nhiều lâm trường ban giám đốc chỉ còn giám đốc và 1 phó giám đốc. Việc điều hành sản xuất thông qua các phòng, ban hoặc trực tiếp xuống các đơn vị cơ sở. Các đơn vị sản xuất của lâm trường có thể là đội sản xuất hoặc tổ sản xuất, biên chế gián tiếp của đội sản xuất chỉ có đội trưởng và cán bộ kỹ thuật kiêm thống kê để giúp việc. Sau khi Quyết định số 178/ 2001/ QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về quyền lợi và nghĩa vụ của hộ gia đình và cá nhân được giao, cho thuê và nhận khoán bảo vệ rừng và đất lâm nghiệp, Bên nhận khoán được nhận tiền công thực hiện hợp đồng khoán; được hưởng và bán sản phẩm cho lâm trường theo giá thoả thuận dựa trên giá thị trường. Do vậy mà số người nhận khoán tự đóng bảo hiểm xã hội ngày càng tăng (chiếm 19,8%), còn lại 4.892 người không đóng bảo hiểm (chiếm 18,9%). Việc ký kết hợp đồng nhận khoán giữa người lao động với lâm trường đã đem lại một phần thu nhập cho người lao động, do vậy thu nhập và đời sống của công nhân từng bước được nâng lên. Theo bảng 8 thì thu nhập của người lao động lâm trường đang ngày càng tăng lên thể hiện sự cố gắng trong việc từng bước chuyển đổi hướng sản xuất kinh doanh. Bảng 7: Thu nhập bình quân của 1 lao động Lâm trường quốc doanh trước và sau khi khoán. Chỉ tiêu Trước khi khoán Sau khi khoán 1990 1995 1999 2000 2001 Thu nhập bình quân (đ/ người) 230.000 280.000 470.000 500.000 525.000 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. 2.2.5 Tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của lâm trường Phần lớn các Lâm trường quốc doanh thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tổng vốn kinh doanh là 677 tỷ đồng trong đó Vốn cố định: 445,6 tỷ đồng, Vốn lưu động: 231,4 tỷ đồng. Nếu phân theo nguồn vốn hình thành thì vốn ngân sách là 316,8 tỷ đồng (chiếm 46,8%), vốn tự có là 140,14 tỷ đồng (chiếm 20,7%), vốn vay 199,1 tỷ đồng (chiếm 29,5%), vốn khác là 20,3 tỷ đồng (3%). Trong đó số lâm trường có vốn sản xuất dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 55%, số lâm trường có vốn sản xuất trên 5 tỷ đồng chỉ chiếm tới 7% tổng số lâm trường cả nước. Như vậy, vốn sản xuất của các lâm trường rất thấp, bình quân 1 lâm trường là 1.839 triệu đồng; nếu tính cả vốn trồng rừng bình quân mỗi lâm trường có 3.733 triệu đồng; Theo báo cáo của các tỉnh, năm 2001 trong số 368 lâm trường, có 236 lâm trường, chiếm 62,5% số lâm trường kinh doanh có lãi với số tiền là 48.875 triệu đồng (207 triệu đồng/lâm trường). Mặc dù một số lâm trường không bị thua lỗ nhưng lợi nhuận tạo được rất thấp, như đối với các Lâm trường quốc doanh kinh doanh nguyên liệu giấy, nguyên liệu gỗ trụ mỏ, lợi nhuận thu được 1 m3 gỗ nguyên liệu chỉ từ 15.000- 20.000 đ/m3, tức là rừng trồng chỉ đem lại lợi nhuận từ khoảng 1,2 đến 1,6 triệu đồng, trong khi đó thời gian từ lúc trồng rừng đến lúc khai thác phải mất từ 8-9 năm. Trong đó số lâm trường có lãi từ 500 đến 1.000 triệu đồng chỉ chiếm 2,0% số lâm trường hiện có; có 36 lâm trường kinh doanh thua lỗ, chiếm tỷ lệ 8,9% số lâm trường với số tiền là 2.144 triệu đồng (59,5 triệu đồng/lâm trường); còn lại 96 lâm trường không phát sinh lỗ, lãi, chiếm tỷ lệ 36,1% vì các lâm trường này không tổ chức sản xuất mà làm chức năng chủ dự án. Mức nộp ngân sách bình quân hàng năm của 1 lâm trường là 500 triệu đồng. Trong số 368 lâm trường, có 261 lâm trường, chiếm tỷ lệ 70,9% số lâm trường nộp ngân sách Nhà nước. Về cơ sở vật chất của nhiều lâm trường còn rất yếu kém, hệ thống cơ sở hạ tầng như: đường giao thông, điện, nước, y tế và các công trình kiến trúc được xây dựng từ nhiều năm trước đây và đã xuống cấp nay không có kinh phí để duy tu nên càng xuống cấp nặng nề hơn. Vì đa số các địa phương cho rằng lâm trường là doanh nghiệp nên phải tự đầu tư cơ sở hạ tầng, nhưng với cơ chế tài chính của các lâm trường hiện nay với nguồn thu hạn hẹp đặc biệt là các lâm trường quản lý rừng tự nhiên không được khai thác hoặc rừng trồng đang trong thời kỳ chăm sóc chưa thu hoạch nên cơ sở hạ tầng càng xuống cấp hơn. Từ thực tế đó cho thấy, hầu hết các lâm trường đang tồn tại và phát triển là đã biết gắn hoạt động của lâm trường với vùng nguyên liệu, có thị trường tiêu thụ ổn định, từng bước đầu tư thâm canh để nâng cao năng suất đất rừng, cải thiện giống cây trồng, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng đa canh, mạnh dạn mở rộng chế biến lâm sản và có đội ngũ cán bộ năng động. Qua các số liệu phân tích ở các phần trên ta có bảng 7: Tổng hợp tình hình đất đai, lao động, kết quả kinh doanh của các Lâm trường quốc doanh năm 2001, ta thấy: - Trong số 368 Lâm trường quản lý hơn 5 triệu ha đất tron

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và những Giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010.doc
Tài liệu liên quan