Luận văn Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế

MỤC LỤC

 

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4

6. Đóng góp của luận văn 5

7. Kết cấu luận văn 5

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CA DAO TỤC NGỮ 6

1.1. Sự hình thành của ca dao, tục ngữ 6

1.1.1. Khái niệm, nội dung và hình thức nghệ thuật của ca dao, tục ngữ 6

1.1.1.1. Ca dao 6

1.1.1.2. Tục ngữ 12

1.2. Một số vấn đề về ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 20

1.2.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử - xã hội của Thừa Thiên - Huế 20

1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên 20

1.2.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội 22

1.2.2. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế - tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế - xã hội của Thừa Thiên - Huế 25

1.2.2.1. Về quê hương đất nước 25

1.2.2.2. Về tình cảm lứa đôi 32

1.2.2.3. Về hôn nhân, gia đình 35

1.2.2.4 .Về lao động sản xuất và các vấn đề khác của cuộc sống 40

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TRIẾT LÝ VỀ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ THỪA THIÊN - HUẾ 46

2.1. Triết lý về quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên 46

2.2. Triết lý về đời người và các quan hệ xã hội 53

2.3. Một số nhận xét ban đầu qua việc tìm hiểu triết lý nhân sinh của ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 69

2.3.1. Những dấu hiệu của tư tưởng biện chứng trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 69

2.3.2. Tính mâu thuẫn và không nhất quán trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 76

2.3.3. Vấn đề kinh nghiệm trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 79

2.3.4. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế - bộ phận cấu thành văn hóa Huế 82

KẾT LUẬN 87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88

 

 

doc94 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6045 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của người chồng, và lòng không chung thủy của người chồng hoặc người vợ. Trong đời sống hôn nhân, để xây dựng hạnh phúc gia đình, vợ chồng phải lo làm lụng, nhưng có những người chồng không lo làm ăn, mà say mê cờ bạc, dẫn đến khuynh gia bại sản, hôn nhân đổ vỡ: Đêm nằm nghĩ lại mà coi Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà Sống trong cảnh gia đình, có người chồng “thay lòng đổi dạ” chạy theo duyên mới, quên sự thủy chung thì người vợ phải chịu cảnh số phận long đong. Quan niệm hàm chứa trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế liên quan đến gia đình là quyền gia trưởng của chế độ phụ hệ trong quan hệ vợ chồng. Người chồng có vai trò chủ đạo về kinh tế và văn hóa cho nên dù vợ chồng có yêu thương yêu nhau như thế nào thì người vợ luôn luôn phục tùng chồng: Con dại cái mang, chồng hoang vợ chịu Với gia đình, họ hàng thì: - Vợ chồng sống gởi nạc, thác gởi xương - Con gái là con người ta, con dâu mới thật mẹ cha mua về - Rể ăn ba đọi là rể thiệt thà, rể dựa cột nhà là rể thiên tinh Hôn nhân, gia đình trong cộng đồng xã hội Thừa Thiên - Huế được phản ánh trong ca dao, tục ngữ với nhiều cung bậc và nhiều sắc thái khác nhau, nhưng trọng tâm của nó là vợ chồng thương yêu nhau và chung thủy với nhau. Đó là đức cao đẹp nhất của sự bền vững hạnh phúc hôn nhân gia đình. 1.2.2.4 .Về lao động sản xuất và các vấn đề khác của cuộc sống Văn học dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế nói riêng đều xuất phát trực tiếp từ lao động rồi trực tiếp phục vụ cho sản xuất và người lao động. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật chưa phát triển, việc xem xét ảnh hưởng của tự nhiên, để rút ra những kinh nghiệm quý báu là một vấn đề cần thiết trong sản xuất nông nghiệp. Những kinh nghiệm đó có tính thống nhất và đa dạng là kết quả của tinh thần lao động sáng tạo, chứng minh nguồn gốc dân gian của khoa học trong lao động sản xuất. Đa số những kinh nghiệm về lao động sản xuất được đúc kết từ ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế có mối tương quan với môi trường khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nắng, lụt bão nhiều, diễn biến thất thường, phức tạp nhằm mục đích phục vục cho sản xuất nông nghiệp. Thừa Thiên - Huế là một địa phương có thời tiết khí hậu thất thường, mưa, gió, bão lụt thường xuyên xảy ra, mà các hiện tượng này thường được dự báo trước bởi sấm, chớp, mây, gió. Vì thế trong lao động sản xuất cư dân xứ Huế thường xuyên theo dõi các hiện tượng thời tiết khí hậu, rút ra những kinh nghiệm có tính chất thiên văn. Đặc biệt là cư dân ở các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang luôn theo dõi các tia chớp ở cửa Eo, vì mỗi lần có chớp là sắp có mưa to, bão lớn, lụt đến nóc nhà nhằm tránh những thiệt hại về tài sản và tính mạng: - Chớp cửa Eo, nước trèo khu đĩ - Sấm ngã Eo, bắt heo vô rọ Hoặc nhìn lên trên đỉnh núi Truồi, ngọn núi cao nhất thuộc huyện Phú Lộc có mây bao phủ thì ắt có mưa: Núi Truồi đội mũ, âm phủ mặc áo tơi Tục ngữ nói về lao động sản xuất nảy sinh trong quá trình đấu tranh thiên nhiên của nhân dân lao động. Đó là những kinh nghiệm lâu đời và có tính chất tập thể rút ra trong quá trình quan sát các hiện tượng tự nhiên, quá trình dùng sức người cải biến tự nhiên và quá trình xây dựng kỹ thuật sản xuất. Những kinh nghiệm ấy dần dần phổ biến rộng rãi và trở thành những tri thức khoa học về tự nhiên; chúng cũng thể hiện tinh thần sáng tạo, phản ánh một số nét chính điều kiện và phương thức lao động của ngươi dân Thừa Thiên - Huế, qua đó cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa con người với tự nhiên. Việc hiểu được giới tự nhiên giúp cho con người tránh được những thiệt hại do sự thay đổi thời tiết, khí hậu gây ra. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế phản ánh nhiều sắc thái trong lao động sản xuất và mối quan hệ của con người với tự nhiên; phản ánh tập quán làm ăn lâu đời trong hoàn cảnh sản xuất nông nghiệp của người dân Huế với kỹ thuật sản xuất thô sơ. Từ những kinh nghiệm về thời tiết: - Cu cu tắm thì ráo, trảo trảo tắm thì mưa - Tháng bảy nước chảy lên bờ - Mây kéo lên nguồn, nước tuôn ra bể Đến những kinh nghiệm về nhiều lĩnh vực lao động sản xuất, đặc biệt là trong việc cày bừa, trồng lúa, gieo mạ, trồng khoai: Đất quen trồng mạ, đất lạ trồng khoai Hay những kinh nghiệm về thời điểm trồng trọt: Trồng sắn buổi mai, trồng khoai buổi chiều Những kiến thức về chăn nuôi và đánh bắt, trong đó chủ yếu là kinh nghiệm chọn giống nuôi, phổ biến là chọn chó, mèo, heo, trâu, gà: - Nhất chó bốn đeo, nhì mèo tam thể (chọn chó, mèo) - Gà kiến mắn đẻ, lắm kẻ tìm mua Gà nòi đẻ sưa nhưng mà tốt thịt (chọn gà đẻ) - Chấm trán lọ đuôi, không ai nuôi cũng nậy (chọn lợn giống) - Trâu đen ăn kỹ cày hay Trâu bạc ăn nhón, lại day đường cày (chọn trâu cày) Kinh nghiệm đi lưới: Trời sương mù, nhiều cá thu cá nục Bên cạnh bộ phận ca dao, tục ngữ nói về lao động sản xuất, phục vụ sản xuất, còn có một bộ phận đáng kể ca dao, tục ngữ phục vụ chiến đấu, điển hình là phục vụ cho các phong trào cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Bộ phận ca dao này do những người nông dân tham gia kháng chiến sáng tác, chủ yếu là số cán bộ tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân ở xã, huyện, nên có sắc thái, cung cách riêng. Hầu hết các cuộc vận động, các phong trào trong chống Pháp và chống Mỹ đều có ca dao cổ vũ. Một số phong trào lớn còn vang vọng trong ca dao như: Phong trào ủng hộ tiền bạc cho Chính phủ và cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-1949: Ai có đồng đem ra ma đúc súng, đúc bom Chị em mình ở nhà dù không có chi để nấu, thì trên tréc dưới om cũng đành Phong trào diệt giặc dốt, giặc đói khởi đầu từ năm 1945 (kéo dài cho đến 1954): Anh kia bộ dạng oai phong Nếu không biết chữ, chớ hòng thương được em Phong trào vận động không đi lính cho giặc, nếu đã đi thì bỏ ngũ trở về: Anh đi lính “quốc gia” mà anh bị đốt Anh đi lính “quốc gia” răng mẹ cha anh bị nhốt lao tù Đèn kia sáng lắm, không phải đèn lu Khuyên anh suy nghĩ, kẻo quân thù hại ta Vận động giác ngộ cách mạng, tố cáo tội ác của giặc: Khố rách như tua con mực Áo tả tơi mảng ngược mảnh xuôi Vì đâu cực khổ trọn đời Vì chưng sưu thuế, vọt roi mấy tầng Và tập trung hơn cả, là động viên toàn dân tham gia kháng chiến, trực tiếp cầm súng, hoặc vào các đoàn thể Cách mạng để bảo vệ quê hương: Anh đi, sung vào đoàn cảm tử Em ở nhà, vô đội phụ nữ cứu thương Cuộc sống vô cùng phong phú và đa dạng. Vì vậy, bên cạnh những chủ đề đã nêu ở trên, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn dành không ít sự quan tâm đến các quan hệ liên quan đến sự sinh tồn của con người ở vùng đất nắng cháy, mưa dầm dề này. Ca dao nhìn nhận, đánh giá con người với tư cách là một cá thể, tồn tại tự thân theo vòng đời, có quyền sống một cách tự nhiên: Ai thương thì bỏ ngoài da Cơm thương thì bỏ ruột già ruột non Con người được xét qua những quy ước, những sự ràng buộc bởi các tục lệ, các quan niệm vốn có: Sự đời ngày nắng đêm mưa Người thương, người trả, người đưa, đưa người Thế giới tự nhiên được xem xét ở nhiều góc nhìn, điểm nhìn, hoặc chúng độc lập với con người, hoặc chúng gần gũi thân thương, hoặc chúng tác động, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn phản ánh những vấn đề thuộc đời sống vật chất của con người như công việc, sức khỏe, ăn chơi, sống chết. Điều này được thể hiện qua một số câu tục ngữ như: - Ăn cơm chúa, múa tối ngày - Đau mới chết, việc làm la lết cũng qua - Làm khi lành, để dành khi đau - Chết no hơn sống thèm - Đui bỏ việc, điếc bất tài Như vậy, có thể thấy rằng, nội dung phản ánh của ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế mang tính triết lý sâu sắc, phản ánh chân thực đời sống và tâm hồn của nhân dân Huế nói riêng, của cả dân tộc nói chung. Do gắn với lời ăn tiếng nói nên ca dao, tục ngữ được sử dụng thường xuyên trong giao tiếp, và những câu ca dao, tục ngữ mới không ngừng được sáng tạo. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế có một diện mạo riêng, đó là sự thống nhất trên tổng thể và những dị biệt do đặc điểm văn hóa, lịch sử vùng đất này chi phối. Ca dao, tục ngữ vùng đất này bổ sung vào kho tàng ca dao, tục ngữ dân tộc những câu đầy ắp hình ảnh, biểu tượng, làm giàu chất văn chương cho thể loại nặng tính khái quát, suy lý này, góp phần làm phong phú, đa dạng hệ thống ca dao, tục ngữ của dân tộc. Với những nội dung phản ánh của ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, người đọc nhận ra sự trau chuốt trong lời lẽ, sự rung động chân thành, tự nhiên của chủ thể sáng tạo và cả sự u uẩn, hoài niệm, xót thương. Tình cảm yêu thương da diết gần như bao trùm lên các chủ đề đã trình bày và đọng lại trong người nghe, người đọc. Chính sự truyền cảm ấy đã khiến cho ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế có sức sống mãnh liệt, và còn tiếp tục hoà nhập vào cuộc sống mới, như một tổng kết của thế hệ đi trước trao truyền lại cho các thế hệ mai sau. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Ca dao, tục ngữ là bộ phận hợp thành quan trọng của văn học dân gian. Chắt lọc từ những giọt mồ hôi rơi xuống luống cày, từ những tấm lưng oằn xuống vì vất vả, vì nắng cháy, ca dao, tục ngữ đã phản ánh đời sống sinh tồn của những người nông dân tay lấm chân bùn Việt Nam. Thừa Thiên - Huế là một tình của miền Trung Việt Nam, nơi nắng lắm mưa nhiều, vì vậy đã làm ra được cái ăn, cái mặc thì phải vất vả hơn rất nhiều so với nơi khác. Tuy vậy, không nằm ngoài quy luật chung của sự vận động và phát triển, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã hòa vào dòng chảy của văn học bình dân Việt Nam và có vị trí đáng kể trong dòng văn học ấy. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là tấm gương phản chiếu của đời sống kinh tế xã hội Thừa Thiên Huế nói riêng và Việt Nam nói chung. Vì vậy, thông qua sự phản ánh đó chúng ta có thể nắm bắt được những triết lý về đời sống của con người ở vùng đất này. Theo nghĩa đó chương 1 của luận văn là tiền đề cho sự tiếp tục triển khai ở chương 2. CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TRIẾT LÝ VỀ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ THỪA THIÊN - HUẾ Nói đến nhân sinh quan tức là chúng ta nói đến sinh mệnh con người, đến cuộc sống của con người trong xã hội và trong quan hệ của con người với tự nhiên, đến mục đích và lẽ sống của con người. Vì vậy, khi bàn đến tính triết lý nhân sinh chính là bàn về quan niệm trên các mặt đó. 2.1. Triết lý về quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên Triết học Mác- Lênin khẳng định: “Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức” [10, tr.298]. Thực tế đã cho thấy rằng, con người trong mọi hoạt động nhận thức của mình đều có quan hệ với thế giới tự nhiên, với mục đích cải tạo thế giới tự nhiên để phục vụ cuộc sống của mình. Tuy nhiên, việc cải tạo giới tự nhiên không phải là vấn đề đơn giản, đòi hỏi con người phải hiểu được các hiện tượng của tự nhiên, vạch ra được các thuộc tính, nắm được các quy luật vận động và phát triển của nó. Thừa Thiên - Huế nói riêng cũng như cả nước Việt Nam nói chung, người dân chủ yếu sống bằng nghề nông, trong quá trình tiến hành lao động sản xuất, việc tìm hiểu tự nhiên, tác động vào tự nhiên để đúc kết thành những kinh nghiệm sống có ý nghĩa sống còn đối với họ. Do đó, vấn đề nhận thức thế giới tự nhiên đã trở thành một nhu cầu, thành động lực thôi thúc của con người. Một phần sản phẩm trí tuệ, kinh nghiệm mà người dân lao động đã đúc kết ra trong quá trình lao động chính là ca dao, tục ngữ. Cho nên, ca dao, tục ngữ biểu hiện tính triết lý của con người trong quá trình sinh sống, trước hết là triết lý về nền sản xuất nông nghiệp, thông qua mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên. Trên mảnh đất Thừa Thiên - Huế, cộng đồng người chủ yếu sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp, kết hợp với nghề chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và săn bắn, hái lượm, do vậy mà nền nông nghiệp trở nên phổ biến và phát triển. Đây là lý do giải thích tại sao trong kho tàng ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế lại chủ yếu là tục ngữ nói về lao động sản xuất, trong đó phần lớn là các câu nói về các hiện tượng tự nhiên, về mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, bằng việc tác động vào vào giới tự nhiên con người đã hiểu được vai trò quan trọng mang tính chất quyết định của giới tự nhiên đối với sự sống còn của họ. Mặc dù có thể con người chưa hiểu được họ là một bộ phận, một sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, gắn liền với tự nhiên, nhưng họ ý thức được rằng giới tự nhiên cung cấp cho họ những gì cần thiết cho cuộc sống như nước, không khí, đất, mà nếu thiếu chúng thì con người không thể tồn tại được. Người lao động luôn mong muốn mưa thuận gió hòa để có một vụ mùa bội thu. Để đạt được mong muốn đó, họ cần phải có sự ủng hộ của tự nhiên. Chính vì vậy con người dần ý thức được rằng để nâng cao hiệu quả lao động thì cần phải hiểu tự nhiên. Trải qua những năm tháng lao động vất vả, các hiện tượng tự nhiên cứ lặp đi lặp lại và nhờ vậy con người dần dần tích lũy được những kiến thức về các hiện tượng của tự nhiên, đúc kết được thành kinh nghiệm phục vụ cho sản xuất. Con người sống gắn bó với giới tự nhiên, dựa vào tự nhiên và đối mặt vói tự nhiên nhưng không phải lúc nào giới tự nhiên cũng chiều theo ý muốn của con người. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thực sự là mối quan hệ máu thịt, không tách rời nhau. Trong mối quan hệ đó, con người luôn đứng ở vị tí trung tâm, nhận thức về giới tự nhiên, tác động và cải tạo giới tự nhiên nhưng không đối lập với giới tự nhiên. Tuy nhiên do nhận thức còn hạn chế, công cụ lao động còn thô sơ, bản thân con người lại quá nhỏ bé nên trước vũ trụ bao la và bí hiểm khôn lường, con người không có khả năng chi phối tự nhiên, luôn lo sợ trước các hiện tượng tự nhiên. Do bất lực trước tự nhiên nên con người phải cầu viện đến sức mạnh của trời đất, từ đó họ cho rằng luôn có một thực thể tinh thần sinh ra và chi phối các sự vật hiện tượng và cả bản thân họ. Chẳng hạn, trước hiện tượng lũ lụt, họ không thể giải thích tại sao lại có nhiều mưa đến thế, cuối cùng họ nghĩ rằng do con người đã làm điều gì đó sai trái với trời đất nên trời đất nổi giận và trừng phạt. Rõ ràng, trong cách suy nghĩ của người dân dù đã bộc lộ yếu tố thần linh chủ nghĩa, duy tâm và siêu hình nhưng những yếu tố tích cực vẫn là chủ đạo. Đó là tinh thần lạc quan, yêu đời; là ý thức về sự tác động của con người đến tự nhiên. Sự tác động đó mang tính chủ động, tích cực và sáng tạo. Vì thế con người luôn thể hiện được vai trò trung tâm của mình; chủ động đối phó với những tình huống bất lợi và làm chủ bản thân mình; tác động một cách có ý thức nhằm tìm hiểu tự nhiên để thích nghi và cải tạo tự nhiên. Người lao động đã biết lợi dụng những điều kiện sẵn có trong tự nhiên để nâng cao thành quả lao động. Điều này đã cho thấy tư duy của con người đã vượt trước điều kiện kinh tế xã hội lúc bấy giờ. Chẳng hạn, khi tác động trực tiếp vào các sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, họ đã thấy được rằng mọi sự vật, mọi hiện tượng đều có một hình thù cụ thể. Chính nhà triết học Arixtốt đã chỉ rõ, “mọi sự vật, hiện tượng đều có hình dạng của nó” [45, tr.245], nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng đều có một hình thức bề ngoài nhất định nào đó. Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người đã đúc kết được những kinh nghiệm quý báu. Tuy nhiên, khi làm việc đó con người hoàn toàn dựa vào sự quan sát, nhờ óc cảm nhận tài tình chứ chưa phải đã dựa vào tri thức khoa học. Điều đáng quý là những nhận thức đó lại đúng với thực tiễn. Đọc ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, chúng ta thấy được ở đó quan niệm coi con người là phần tinh túy của trời đất. Trong mối quan hệ với tự nhiên, con người đã hiểu được sự phong phú và đa dạng, tính muôn hình muôn vẻ của giới tự nhiên. Người dân Thừa Thiên - Huế sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp nên trong mối quan hệ với giới tự nhiên, một trong những vấn đề mà họ quan tâm hàng đầu là vấn đề về thời tiết, khí hậu, tức là những cái thuộc về quy luật tự nhiên mà con người không thể chi phối được. Thừa Thiên - Huế là tỉnh có thời tiết, khí hậu phức tạp, diễn biến thất thường, cho nên cả hoạt động sản xuất lẫn sức khỏe, thậm chí cả tính mạng của con người gặp rất nhiều khó khăn. Do đó việc nhận thức, tìm hiểu sự biến động của thời tiết, khí hậu là việc làm cần thiết. Khi con người nắm bắt được các quy luật hoạt động và lợi dụng được các hiện tượng thời tiết và khí hậu thì phần nào con người đã làm chủ được giới tự nhiên. Tìm hiểu kho tàng tục ngữ Thừa Thiên - Huế, chúng ta có thể thấy một số câu tục ngữ nói về thời tiết khí hậu như: - Cá đuối tháng 7, cá gáy tháng 10 - Cóc nghiến răng, đang nắng thì mưa - Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy, cơn đằng tây vừa chạy vừa ăn - Ếch kêu ồm ồm, ao chôm đầy nước - Gió nam nắng hôm, gió nồm nắng mai Những câu tục ngữ này thực chất là những kinh nghiệm về thời tiết và khí hậu được người dân rút ra qua quá trình lao động sản xuất và trong quá trình sống. Điều này chứng tỏ rằng người dân Thừa Thiên - Huế có khả năng nhận biết các hiện tượng của thời tiết và khí hậu, có khả năng khái quát hóa các hiện tưởng lẻ tẻ thành cái chung, cái phổ biến. Để có những kinh nghiệm quý báu đó, người dân đã trải qua một quá trình quan sát các hiện tượng tự nhiên lâu dài, lặp đi lặp lại nhiều lần. Trước sức mạnh to lớn của giới tự nhiên, qua các hiện tượng do những biến động của thời tiết và khí hậu gây ra, vì trình độ nhận thức còn hạn chế nên con người cảm thấy bất lực và do vậy trong suy nghĩ của họ xuất hiện yếu tố thần linh. Bên cạnh đó chúng ta cũng bắt gặp những tư tưởng lạc quan, tin vào khả năng con người có thể chế ngự được sức mạnh của của tự nhiên, có thể hạn chế những rủi ro do tự nhiên gây ra. Qua lao động, con người đã làm cho giới tự nhiên bộc lộ ra những thuộc tính, những quy luật vốn có, đó là mối liên hệ phổ biến của sự vận động và phát triển không ngừng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên. Không chỉ dừng lại ở các hiện tượng tự nhiên tồn tại độc lập thuần túy như mây, mưa, sấm chớp, gió, sao, người lao động còn nhận thấy được rằng các hiện tượng tự nhiên tồn tại dường như độc lập đó đều nằm trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Chẳng hạn câu tục ngữ: “Động trời mang tác”, nói lên ảnh hưởng của sự thay đổi thời tiết đến các loài vật. Điều đó cho thấy các sự vật, các hiện tượng không hề tồn tại một cách biệt lập, tách rời nhau mà có sự tác động qua lại lẫn nhau. Ví dụ, mưa nhiều ngày thì sẽ dẫn đến lũ lụt, nắng nhiều ngày thì sẽ dẫn đến nạn hạn hán, tất cả đều ảnh hưởng đến đời sống của con người. Sự nhận thức các hiện tượng của tự nhiên đã giúp cho người dân có được những kinh nghiệm về giới tự nhiên và biết lợi dụng tự nhiên để phục vụ cho lợi ích của mình. Vì vậy, trước khi làm công việc gì đó, chẳng hạn như gieo mạ, làm đất, gặt lúa, thì người dân đều theo dõi các hiện tượng tự nhiên, nhìn lên trời quan sát trăng sao, mây, sấm chớp hoặc theo dõi hoạt động của các loài vật. Từ việc quan sát đó, dựa vào kinh nghiệm đã có, người dân mới đi đến quyết định nên làm hay không làm công việc nào đó. Để có cái ăn, cái mặc và chỗ ở con người phải lao động vất vả, luôn luôn phải chống chọi với những bất lợi của thiên nhiên. Nhờ việc cải tiến công cụ lao động mà con người biến đổi được thiên nhiên; biến những vùng đất hoang vu thành đồng ruộng phì nhiêu nuôi sống mình. Khi con người biết chế tạo công cụ lao động tức là lúc con người đã hoạt động có ý thức, có mục đích. Chẳng hạn, con người biến cây rừng thành bàn ghế, thành cột nhà hay thành củi than, chính là con người đã chinh phục giới tự nhiên, bắt giới tự nhiên phục vụ cho mục đích của mình. Câu tục ngữ: “Sông sâu thả dá mà đo, núi cao dần dần mà bước”, thể hiện khát vọng tìm tòi, cách thức để chinh phục, khám phá tự nhiên của con người. Trải qua hàng nghìn năm lao động và sản xuất, hết thế hệ này đến thế hệ khác, con người đã đúc kết được những kinh nghiệm quý báu, nhờ vậy óc sáng tạo của con người cũng được mở mang hơn. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã phản ánh được giá trị của lao động và phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Đọc ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, chúng ta bắt gặp rất nhiều câu nói về các hiện tượng tự nhiên. Từ xa xưa, người nông dân không chỉ quan tâm đến thời tiết, khí hậu mà họ còn quan tâm đến đất đai. Đất đai được xem như là tài sản vô giá nên người nông dân luôn chú ý đến khâu làm đất. Ví dụ, trong việc trồng lúa, người nông dân biết rằng sản lượng của cây lúa phụ thuộc rất lớn vào độ phì nhiêu của đất đai. Do đó họ đi sâu tìm hiểu về đất, về các thuộc tính của từng loại đất từ đó có biện pháp kỹ thuật làm đất hợp lý. Những câu ca dao, tục ngữ nói về đất là sự khẳng định bản thân của con người trước tự nhiên, qua đó có thể thấy người nông dân hiểu được khả năng của mình trước tự nhiên, có thể chi phối tự nhiên theo chiều hướng có lợi cho mình. Mặc dù cuộc sống còn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên nhưng nổi trội vẫn là tinh thần con người hướng tới việc từng bước làm chủ tự nhiên. Xuất phát từ mục đích thiết thực là làm thế nào làm để cây lúa cho nắng suất cao, người nông dân ý thức được rằng họ không thể trông chờ vào sự may rủi hay nhờ vào đấng tối cao, thần linh nào cả, mà phải do nỗ lực của bản thân. Vì vậy họ đã dồn hết tâm sức, trí tuệ và sự cần cù để tìm ra những biện pháp tối ưu trong lao động sản xuất. Chính trong lao động vất vả người nông dân đã đúc kết được những kinh nghiệm quý báu về thời tiết, khí hậu, đất đai, nhờ thế họ hiểu được tự nhiên, thuân theo tự nhiên để có được mùa màng bội thu. Đây là một vấn đề lớn mang tính triết lý nhân sinh sâu sắc. Trải qua quá trình lao động, người nông dân đã hiểu được rằng, giữa họ và giới tự nhiên có mối quan hệ mật thiết: Lụt thì lút cả làng Do đó, thái độ của người nông dân là tôn trọng thế giới tự nhiên, sống hòa mình vào trong tự nhiên. Bên cạnh đó họ cũng ý thức được vai trò của con người trong việc cải tạo giới tự nhiên. Bản thân người Huế cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của lao động trong việc cải tạo thế giới tự nhiên. Từ chỗ hàng ngày phải đối mặt với tự nhiên, trải qua những thất bại hay thành công trong lao động sản xuất, người Huế đã đúc rút được kinh nghiệm mang tính triết lý cao là khi làm gì thì con người cũng phải thực tế, phải tôn trọng hiện thực khách quan. Nếu làm trái với quy luật sẽ không đạt được mục đích gì hết. Tính triết lý trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên còn được thể hiện ở chỗ trong điều kiện kinh tế xã hội của nền nông nghiệp lúa nước, trải qua nhiều thiên tai và tri thức khoa học chưa được phổ biến nhưng người nông dân vẫn lạc quan, yêu cuộc sống, tin tưởng và tự làm chủ bản thân mình. Chính điều đó tạo cho người nông dân đức tính cần cù, chịu khó, ham học hỏi, ham hiểu biết. Có thể nói cách nhìn nhận về thế giới, về con người, về thời cuộc, vì thế mà mang tính triết lý, nhân văn khá sâu sắc và có những yếu tố đã tiến sát đến tư duy triết học. Đúng như giáo sư Nguyễn Tài Thư nhận xét: “Rất tiếc là lịch sử chưa đúc kết lên thành những hệ thống triết học. Ở đó tư duy phải là triết học thuần túy nhưng đã đề cập tới một số vấn đề của bản thân triết học” [39, tr. 36]. 2.2. Triết lý về đời người và các quan hệ xã hội Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế chứa đựng triết lý nhân sinh trong quan niệm về đời người, thông qua cách lý giải nguồn gốc, sinh mệnh của con người. Từ khi con người được sinh ra và khi con người bắt đầu có ý thức về bản thân mình thì nguồn gốc của vạn vật, của sự sống và cái chết được đặt ra. Nhìn chung, trong quan niệm về nguồn gốc của con người còn mang nặng tính chất đa thần, nhưng ít nhiều mang tính chất duy vật chất phác. Con người đó có thể là kết quả của sự hòa hợp Âm - Dương, của tình yêu nam nữ. Quan điểm này xét về hình thức có vẻ duy tâm, nhưng về nội dung lại mang dáng dấp duy vật cổ đại vì nó nói đến nguồn gốc của sự vật và hiện tượng. Dù các câu tục ngữ Thừa Thiên - Huế tuy không nói thật cụ thể đến nguồn gốc của con người nhưng vẫn phần nào toát lên được quá trình tiến hóa của thế giới vật chất - một quan niệm duy vật thừa nhận quá trình tiến hóa của tự nhiên, trong đó con người là bộ phận cao nhất của tự nhiên. Con người, từ khi được sinh ra cho đến khi trở về với cát bụi, luôn ý thức được giá trị của bản thân mình, sự tồn tại của con người là vô giá không có gì so sánh được “người sống hơn đống vàng”. Chính Các Mác đã nói rằng: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [ 24, tr.137]. Trong suốt cuộc đời của mình, điều mà con người quan tâm đó là số phận của của mình sẽ như thế nào. Trải qua thực tiễn, bằng kinh nghiệm sống người dân hiểu được rằng con người luôn nằm trong vòng sinh tử, có quá trình sinh ra, tồn tại và diệt vong. Con người hơn hẳn các con vật khác ở chỗ con người nhận biết được rằng đến khi già là sẽ chết, đã chết thì không thể sống lại được, đó giống như một quy luật tự nhiên. Một số câu tục ngữ đã phản ánh điều đó như: - Rắn già rắn lột xác, người già người bỏ vô săng - Dó lâu năm dó thành kỳ, đá chai lăn lóc có khi thành vàng Như vậy trong nhận thức của người dân Huế, mọi sự vật, hiện tượng và cả con người luôn vận động và biến đổi và có thể có những thay đổi khó lường. Khi bàn về đời người, cũng có người cho rằng, mỗi người từ khi được sinh ra đã có một số phận riêng; rằng sự giàu nghèo, sống chết của họ là do trời sắp đặt, tức là đã được định đoạt từ trước bởi. Họ tin rằng, số phận của họ là do trời ban, vì vậy họ không thể làm tha

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN THAC SI HOA NGAY 10.10.2011.doc
  • docban tóm tat luan van.doc
  • docBIA TOM TAT LUAN VAN.doc
  • docxDoc2.docx
  • docLUAN VAN THAC SI HOA NGAY 11.10.2011.doc