Luận văn Xây dựng bộ tiêu chí phân loại và đánh giá các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động

LỜI CAM ĐOAN.1

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT .2

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU BẢNG.3

MỞ ĐẦU.7

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIÊU CHÍ PHÂN LOẠI VÀ ĐÁNH GIÁ

CÁC DOANH NGHIỆP HOẠT HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC

XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.13

1.1. Phân loại doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. 13

1.1.1. Người lao động và doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao

động đi làm việc ở nước ngoài. 13

1.1.2. Phân loại doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm

việc ở nước ngoài. 16

1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ

đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. 19

1.2.1. Các yếu tố nội tại của doanh nghiệp . 19

1.2.2. Các yếu tố khách quan . 27

1.2.3 Một số yếu tố khác . 33

1.3. Một số bài học rút ra từ kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về hoạt

động XKLĐ và tiêu chí phân loại, đánh giá doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực XKLĐ. 34

1.3.1. Về chủ trương và cơ sở pháp lý đối với hoạt động XKLĐ. 34

1.3.2. Về cơ chế tổ chức, cấp giấy phép, tuyển chọn và quản lý lao động làm

việc ở nước ngoài . 35

1.3.3. Về chính sách quản lý tài chính đối với đào tạo nguồn nhân lực xuất

khẩu, hỗ trợ XKLĐ, chính sách thuế, lệ phí sắp xếp việc làm và khuyến khích

chuyển thu nhập về nước . 35

pdf107 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 488 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng bộ tiêu chí phân loại và đánh giá các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan chức năng của Nhà nước trong việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy cũng như điều hành hoạt động XKLĐ khá đồng bộ; hình thành mối liên thông trong tạo nguồn và quản lý lao động giữa địa phương với doanh nghiệp XKLĐ, nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài được thuận tiện. Xây dựng được nhiều điển hình, mô hình và phong trào đi xuất khẩu lao động ở địa phương, có khoảng gần 55 tỉnh, thành phố thành lập Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động để giúp địa phương quản lý và triển khai công tác này góp phần hạn chế các hiện tượng tiêu cực cũng như lừa đảo trong xuất khẩu lao động. Nhiều địa phương đưa được hàng nghìn người đi làm việc ở nước ngoài hàng năm. Công tác mở thị trường đã được đầu tư hơn, ổn định các thị trường sẵn có và phát triển các thị trường mới như: Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Cata, Bun-ga-ri, Liên bang Nga, Cộng hoà Séc, CHDCND Lào, UAE, Lybia, Kadzacstan. Công tác đào tạo LĐ đã đi vào nề nếp, có chính sách hỗ trợ đào tạo lao động xuất khẩu từ nguồn ngân sách, đào tạo một số nghề đặc thù, nghề đòi hỏi kỹ thuật cao mà thị trường lao động quốc tế có yêu cầu; có nhiều doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng cơ sở dạy nghề tiên tiến để đào tạo người lao động đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động ngoài nước, hình thành hệ thống các cơ sở đào tạo LĐ xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp XKLĐ ngày một lớn mạnh về quy mô và năng lực. Hầu hết các doanh nghiệp đã có ý thức trong khai thác thị trường lao động ngoài nước, một số doanh nghiệp tập trung khai thác những thị trường đặc thù như xuất khẩu thuyền viên vận tải biển, lao động công nghệ cao, tuy số lượng ít, nhưng hiệu quả cao. Công tác quản lý, bảo vệ quyền lợi cho người lao động đã tăng cường cả phía Nhà nước và doanh nghiệp. Hệ thống quản lý lao động Việt Nam làm việc ở ngoài nước, hiện đã có 09 Ban Quản lý lao động tại 09 quốc gia, vùng lãnh thổ: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Cộng hòa Séc, UAE, Ả-rập Xê-út, Ca-ta, và Libya. 44 Song còn một số hạn chế: Một là, chất lượng nguồn lao động xuất khẩu của ta còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường LĐ ngoài nước, đặc biệt là trong một số nghề đòi hỏi công nghệ hoặc trình độ ngoại ngữ cao. Ý thức tổ chức kỷ luật và tuân thủ pháp luật của một bộ phận LĐ Việt Nam còn thấp. Hai là, quản lý Nhà nước trong XKLĐ còn có những lúc chưa kịp thời, đồng bộ trong khâu thực hiện ở các cấp, các ngành. Ba là, thông tin - tuyên truyền về XKLĐ chưa đáp ứng được với nhu cầu thực tế, thường xuyên công khai, minh bạch. Vì vậy vẫn còn nhiều người lao động bị kẻ xấu lừa đảo, thu tiền bất chính; chưa thực sự tạo được chuyển biến mạnh mẽ của người dân và toàn xã hội về XKLĐ. Bốn là, hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp dịch vụ chưa đạt được hiệu quả cao và việc thực thi đúng các quy định của Pháp luật chưa được cao dẫn đến nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. 2.3. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ hiện nay Để có số liệu và tư liệu phân tích thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ hiện nay, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp các số liệu thống kê của Cục QLLĐNN thuộc Bộ LĐTBXH trên cơ sở vận dụng Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và các văn bản hiện hành. 2.3.1. Về quy mô của các doanh nghiệp Theo số liệu thống kê của Cục QLLĐNN dựa trên các hồ sơ cấp hoặc đổi giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài của các doanh nghiệp XKLĐ, hiện nay có bốn loại hình doanh nghiệp chính hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ là: Doanh nghiệp có 100% vốn của nhà nước (chiếm tỷ lệ khoảng 16,67%), doanh nghiệp nhà nước nắm cổ phần chi phối (chiếm tỷ lệ khoảng 36,67%), doanh nghiệp Trách nhiệm hữu hạn (chiếm tỷ lệ 20%) và doanh nghiệp cổ phần (khoảng 26,66%). Trước đây hầu hết các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước, tuy nhiên thực hiện chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, những doanh nghiệp thuộc loại hình này chuyển đổi thành doanh nghiệp nhà nước nắm cổ phần chi phối hoặc doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn một thành viên, ngoài ra 45 chúng ta mở rộng xem xét cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực này cho các loại hình doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, có 100% vốn điều lệ của các tổ chức và cá nhân Việt Nam. 2.3.2. Về tổ chức bộ máy hoạt động kinh doanh Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp, quy mô vốn, bộ máy,.. doanh nghiệp tổ chức theo dõi và quản lý hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo một số hình thức như sau: Căn cứ vào số liệu tổng hợp từ các hồ sơ cấp hoặc đổi giấy phép XKLĐ tại Cục QLLĐNN cho thấy doanh nghiệp bố trí bộ phận theo dõi và quản lý lao động ngoài nước, gồm một số cán bộ thuộc phòng chức năng kiêm nhiệm hoặc chuyên trách việc theo dõi và quản lý người lao động làm việc ở nước ngoài, chiếm 76,67% trong tổng số 170 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động XKLĐ (tính đến tháng 06.2013). Bên cạnh đó, doanh nghiệp phân công bộ phận để tổ chức, quản lý đào tạo và phổ biến kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Tổ chức các bộ phận theo dõi sẽ không làm bộ máy của doanh nghiệp bị phình to, cồng kềnh, lãnh đạo doanh nghiệp có thể chỉ đạo trực tiếp hoạt động của các bộ phận này. Doanh nghiệp thành lập phòng nghiệp vụ xuất khẩu lao động, chuyên trách tổ chức, quản lý hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong doanh nghiệp có thể có một phòng nghiệp vụ theo dõi tất cả các thị trường và các hoạt động liên quan đến xuất khẩu lao động hoặc có nhiều phòng nghiệp vụ về xuất khẩu lao động theo dõi theo từng thị trường hoặc khu vực lao động đưa đi, tùy theo quy mô hoạt động của doanh nghiệp đó. Theo số liệu thống kê của Cục QLLĐNN, có 121 doanh nghiệp có phòng nghiệp vụ xuất khẩu lao động, chiếm 71,17%. - Với những doanh nghiệp hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ở quy mô lớn hơn, doanh nghiệp có Trung tâm xuất khẩu lao động với các phòng ban chuyên trách theo từng khâu tổ chức hoạt động hoặc theo từng thị trường. Trung tâm xuất khẩu lao động sẽ giúp hoạt động này độc lập hơn trong việc khai thác thị trường, tuyển chọn lao động, đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng 46 kiến thức cần thiết cho người lao động, tổ chức đưa đi và quản lý, bảo vệ NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Hiện nay có khoảng 160 doanh nghiệp có Trung tâm XKLĐ, chiếm tỷ lệ 94% (Nguồn: Báo cáo của Cục Quản lý lao động ngoài nước). - Để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài các doanh nghiệp thành lập hoặc cho phép các chi nhánh tham gia tuyển chọn, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Theo quy định tại Điều 16 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, mỗi doanh nghiệp được giao nhiệm vụ cho không quá 03 chi nhánh ở 03 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo số liệu của Cục QLLĐNN, hiện nay có 103 doanh nghiệp thành lập Chi nhánh hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài chiếm 61% tổng số doanh nghiệp XKLĐ. Ngoài ra, có một số doanh nghiệp áp dụng tất cả các hình thức tổ chức hoạt động nêu trên. Doanh nghiệp vừa thành lập bộ phận theo dõi, quản lý lao động ngoài nước; bộ phận quản lý đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho người lao động; thành lập Phòng nghiệp vụ xuất khẩu lao động; đồng thời doanh nghiệp cũng có Trung tâm xuất khẩu lao động riêng và cho phép các chi nhánh tham gia hoạt động xuất khẩu lao động. Việc thành lập và cho phép nhiều hình thức tổ chức hoạt động giúp doanh nghiệp đẩy mạnh số lượng lao động đưa đi, mở rộng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tăng tính cạnh tranh, nhưng đồng thời cũng phải tăng số lượng cán bộ tham gia hoạt động này, khiến bộ máy hoạt động của doanh nghiệp cồng kềnh. Hiện nay có 43 doanh nghiệp có đầy đủ các hình thức cơ cấu tổ chức nêu trên (chiếm 25%). Ví dụ: Công ty TNHH một thành viên xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (TRACIMEXCO), địa chỉ: 22 Phan Đình Giót, phường 2, quận Tân Bình TP. Hồ Chí Minh, hoạt động theo Giấy phép XKLĐ số 283/LĐTBXH-GP, ngoài bộ phận theo dõi, quản lý lao động ngoài nước, bộ phận theo dõi đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động, phòng nghiệp vụ xuất khẩu lao động và Trung tâm xuất khẩu lao động do công ty trực tiếp quản lý, công ty còn giao khoán cho 03 chi nhánh tham gia hoạt động xuất khẩu lao động tại các địa bàn khác nhau. 47 2.3.3. Về cơ sở vật chất Mức đầu tư của doanh nghiệp cho cơ sở vật chất của các bộ phận, trung tâm xuất khẩu lao động cũng là một yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Đối với mức đầu tư cho văn phòng làm việc của bộ phận trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu lao động, trong 170 doanh nghiệp có 34 doanh nghiệp đầu tư dưới 100 m2 văn phòng làm việc (chiếm 20%); 35 doanh nghiệp, chiếm 20,58% đầu tư cho văn phòng làm việc liên quan đến xuất khẩu lao động từ 200 đến 300 m2 ; 79 doanh nghiệp đầu tư từ 300 đến 500 m2 văn phòng cho bộ phận này (chiếm 46,5%); còn lại 22 doanh nghiệp đầu tư văn phòng làm việc cho bộ phận xuất khẩu lao động trên 500m2 (chiếm 12,92%). Trong số 170 doanh nghiệp, 167 doanh nghiệp có cơ sở đào tạo cho người lao động trước khi đi, 01 doanh nghiệp liên kết với đơn vị khác để đào tạo cho lao động của doanh nghiệp mình và 02 doanh nghiệp không có cơ sở đào tạo. Trong đó, 28 doanh nghiệp có cơ sở đào tạo quy mô khoảng 200 m2 (chiếm 16,66%), 42 doanh nghiệp có cơ sở đạo tạo quy mô khoảng từ 300 đến 500 m2 (chiếm 25%), 50 doanh nghiệp có cơ sở đào tạo quy mô khoảng 1.000 m2 (chiếm 30%) và 47 doanh nghiệp còn lại có quy mô cơ sở đào tạo trên 1.000 m2 (chiếm 28,34%). Về mức đầu tư cơ sở vật chất cho đào tạo giảng dạy, trong số 167 doanh nghiệp có cơ sở đào tạo, 117 doanh nghiệp đầu tư máy móc, trang thiết bị giảng dạy, đào tạo ngoại ngữ dưới 3 tỷ đồng (chiếm 70%). Mức đầu tư trang thiết bị giảng dạy khoảng từ 3 đến 5 tỷ đồng có 20 doanh nghiệp (chiếm 11,66%) và còn lại 31 doanh nghiệp đầu tư trên 5 tỷ đồng cho trang thiết bị giảng dạy của cơ sở đào tạo người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài (chiếm 18,34%). 2.3.4. Về phát triển thị trường ngoài nước Hiện nay, Việt Nam có gần 500.000 lao động và chuyên gia làm việc trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tuy nhiên người lao động tập trung chủ yếu vẫn tại các thị trường Châu Á truyền thống là: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia và các nước Trung Đông. Một số thị trường khác thuộc các nước Đông 48 Âu, Úc, New Zealand và một số nước tại Châu Phi có lao động Việt Nam đang làm việc và sinh sống nhưng không nhiều. Chỉ tiêu phát triển, mở rộng thị trường việc làm ngoài nước có vai trò đặt biệt quan trọng trong thể hiện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tuy nhiên thời gian qua, chủ yếu các doanh nghiệp phát triển thị trường theo một tâm lý đám đông, chưa thực sự có một kế hoạch dài hơn trong phát triển thị trường, chỉ tập trung ở những thị trường khá dễ tính như: Đài Loan, Malaysia hay một số nước Trung Đông, Châu Phi. Doanh nghiệp chưa tạo được tính chủ động trong mở rộng thị trường chủ yếu dựa vào Nhà nước qua hoạt động ngoại giao, các doanh nghiệp dịch vụ chưa tạo được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Theo số liệu thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước, trong 170 doanh nghiệp mới có 90 doanh nghiệp (chiếm 53%) tập trung đầu tư, khai thác thị trường Đài Loan. Đây là một trong những thị trường hấp dẫn đối người lao động Việt Nam, thu nhập của người lao động tương đối cao trong khi phía chủ sử dụng không yêu cầu tay nghề quá khắt khe. Các doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam cũng đánh giá đây là thị trường phù hợp với người lao động Việt Nam. Bên cạnh Đài Loan, thị trường Nhật Bản hiện nay cũng là mục tiêu để các doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam hướng đến khai thác và phát triển thị trường. Trong số 170 doanh nghiệp có 100 doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam được phép đưa tu nghiệp sinh Việt Nam sang tu nghiệp và thực tập kỹ thuật tại Nhật Bản, chủ yếu trong các nghề may công nghiệp, lắp ráp điện tử, gia công cơ khí và xây dựng. Chính sách của Nhật Bản không cho phép tiếp nhận lao động nước ngoài trình độ thấp hoặc không có tay nghề vào làm việc. Đối với lao động nước ngoài có tay nghề, lao động kỹ thuật cao, Chính phủ Nhật Bản khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho họ vào làm việc ở Nhật Bản. Các thị trường khác như Malaysia, hiện nay vẫn còn khoảng 160 doanh nghiệp hoạt động dịch vụ tập trung đầu tư phát triển thị trường này. Lý do các doanh nghiệp chọn thị trường này để đầu tư là chi phí thấp, người lao động không cần trình độ tay nghề cao, các chi phí phải nộp trước khi xuất cảnh không cao, thời gian 49 từ lúc người lao động đăng ký tham gia chương trình đến khi xuất cảnh không lâu và nhu cầu của thị trường lớn. Đối với thị trường Hàn Quốc, việc áp dụng Luật cấp phép lao động mới (EPS) của Chính phủ Hàn Quốc áp dụng từ năm 2004, giúp cho người lao động có thể đăng ký trực tiếp và thi tuyển tự do, không phải thông qua các công ty dịch vụ. Cơ quan phái cử và cơ quan tiếp nhận đều là các tổ chức công hoạt động dựa trên ngân sách nhà nước. Chương trình EPS là chương trình phi lợi nhuận. Lao động EPS được hưởng các chế độ như người lao động bản địa: được tăng lương mỗi năm 1 lần theo quy định của chính phủ Hàn Quốc, được hưởng các chế độ bảo hiểm. Như vậy, đến nay chỉ có một số doanh nghiệp tham gia đưa lao động thuyền viên tàu cá xa bờ Hàn Quốc và lao động kỹ thuật cao (25/170 doanh nghiệp, chiếm 15%) Ngoài các thị trường nêu trên, khoảng 70 doanh nghiệp, chiếm 42% tập trung đầu tư vào một số thị trường khác như Trung Đông, Bắc Phi (Lybia) và một số nước Đông Âu Việc tập trung đầu tư và khai thác thị trường nào, bao nhiêu thị trường, phải dựa trên khả năng và quy mô hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Mở rộng đầu tư vào các thị trường, giúp doanh nghiệp đa dạng hóa các đơn hàng tiếp nhận lao động, từ đó mở rộng khả năng đáp ứng nhu cầu công việc đối với người lao động trong nước. Tuy nhiên việc đầu tư khai thác nhiều thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải có quy mô doanh nghiệp đủ lớn, tiềm lực tài chính và cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động nước ngoài. Để khai thác hợp đồng tại các thị trường lao động ở nước ngoài các doanh nghiệp thường phải trực tiếp ra nước ngoài tìm kiếm đối tác, xác định nhu cầu tiếp nhận lao động của chủ sử dụng lao động, thẩm định trực tiếp các điều kiện của hợp đồng và điều kiện làm việc của người lao động. Tìm kiếm, khai thác và thẩm định trực tiếp tại nước ngoài giúp việc triển khai và thực hiện các hợp đồng được đảm bảo tốt hơn, giảm tỷ lệ rủi ro phá vỡ hợp đồng và giúp doanh nghiệp có đầy đủ thông tin về thị trường và hợp đồng để thông báo và thu hút người lao động đăng ký 50 tham gia chương trình. Ra nước ngoài trực tiếp tìm kiếm,khai thác thị trường cũng là hình thức mà hầu hết các doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam hiện nay thực hiện. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể khai thác và tìm kiếm đơn hàng thông qua đại lý dịch vụ nước ngoài (các công ty môi giới nước ngoài). Doanh nghiệp không phải chi phí tốn kém cho việc ra nước ngoài để tìm kiếm và khai thác các hợp đồng mà thông qua những công ty môi giới nước ngoài có quan hệ, giao dịch với doanh nghiệp lâu năm và có uy tín. Tuy nhiên việc khai thác hợp đồng thông qua công ty môi giới cũng có sự rủi ro nhất định, Doanh nghiệp không thẩm tra được trực tiếp các điều kiện làm việc của hợp đồng. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể liên kết cùng khai thác một hợp đồng do một doanh nghiệp đã tìm kiếm và thẩm định. Trong quá trình triển khai hợp đồng, doanh nghiệp thường xuyên phải liên hệ với chủ sử dụng hoặc công ty môi giới nước ngoài từ khi làm các thủ tục để người lao động xuất cảnh, quản lý trong thời gian người lao động làm việc ở nước ngoài, giải quyết các vấn đề phát sinh, đến khi người lao động kết thúc hợp đồng về nước. Theo số liệu theo dõi của Cục Quản lý lao động ngoài nước, khoảng 90% doanh nghiệp thường xuyên liên hệ với chủ sử dụng và đối tác nước ngoài. Việc thường xuyên liên hệ với đối tác nước ngoài, giúp cho doanh nghiệp tăng cường mối quan hệ với đối tác, dễ dàng hơn trong quản lý người lao động và giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến người lao động. Tìm kiếm được đối tác nước ngoài tốt và thường xuyên giữ mối liên hệ với họ giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng, giảm chi phí khai thác thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 2.3.5. Về công tác tạo nguồn và tuyển chọn lao động Theo quy định của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hiện nay, công tác tuyển chọn lao động được thực hiện theo hai hình thức: người lao động trực tiếp đăng ký dự tuyển tại trụ sở doanh nghiệp và người lao động đăng ký với doanh nghiệp tuyển tại địa phương mình. 51 a) Người lao động trực tiếp đăng ký dự tuyển tại trụ sở doanh nghiệp - Người lao động thông qua phương tiện truyền thông, quảng cáo của doanh nghiệp hoặc qua giới thiệu của cơ quan chức năng của Nhà nước, của bạn bè, người thân ... trực tiếp đến doanh nghiệp hoặc chi nhánh doanh nghiệp đăng ký dự tuyển đi làm việc tại nước ngoài. - Người lao động có thể yêu cầu doanh nghiệp hoặc chi nhánh doanh nghiệp nơi mình đến dự tuyển cung cấp các điều kiện tuyển chọn như: thị trường cần tuyển lao động, số lượng cần tuyển, giới tính, độ tuổi, công việc đảm nhận, nơi làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện sức khoẻ, tay nghề, ngoại ngữ, các khoản chi phí, các quyền và nghĩa vụ của người lao động... b) Người lao động trực tiếp đăng ký dự tuyển tại địa phương nới cư trú - Người lao động có thể đăng ký dự tuyển đi làm việc ở nước ngoài tại các Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động các cấp ở địa phương (xã, huyện, tỉnh) hoặc trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Phòng Lao động- Thương binh xã hội huyện hoặc Sở LĐ-TBXH tỉnh, TP nơi mình cư trú. - Ban chỉ đạo XKLĐ phổ biến các nội dung như: số lượng cần tuyển, giới tính, độ tuổi, công việc, nơi làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện sức khoẻ, tay nghề, ngoại ngữ, các khoản chi phí, các quyền và nghĩa vụ của người lao động của từng thị trường mình đăng ký dự tuyển. Từ những nguyên tắc của 02 hình thức trên, hiện nay 100% các doanh nghiệp đang áp dụng các mô hình liên thông giữa địa phương và doanh nghiệp dịch vụ nhằm: - Thống nhất nhận thức về trách nhiệm của địa phương trong công tác xuất khẩu lao động nhằm góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương; - Tạo ra cơ chế thông thoáng về thủ tục, thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài phù hợp với điều kiện từng địa phương, đồng thời quản lý chặt chẽ hoạt động tuyển chọn lao động xuất khẩu; 52 - Đưa thông tin về xuất khẩu lao động trực tiếp đến người lao động, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trong xuất khẩu lao động; - Giúp các doanh nghiệp tuyển chọn được những người lao động có nhân thân tốt, phù hợp với yêu cầu của công việc ở nước ngoài; phối hợp với doanh nghiệp trong việc đào tạo lao động, quản lý lao động và xử lý các vấn đề phát sinh. 2.3.6. Số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là số lượng lao động đưa đi hàng năm của các doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu định lượng cơ bản, phản ánh hoạt động của doanh nghiệp trong năm và ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu phí dịch vụ, nguồn thu chủ yếu của doanh nghiệp. Hàng năm, Hiệp hội XKLĐ Việt Nam (VAMAS) đã căn cứ vào số lượng người lao động do các doanh nghiệp đưa đi; đồng thời các doanh nghiệp không vi phạm hoạt động XKLĐ dựa trên số liệu cung cấp của Cục QLLĐNN, Hiệp hội XKLĐ thì được khen thưởng. Năm 2012, Hiệp hội XKLĐ đã khen thưởng cho 08 doanh nghiệp trong năm 2012 đã đưa 1000 lao động trở lên đi làm việc ở nước ngoài và các doanh nghiệp trên không bị cơ quan chức năng nhà nước xử lý vi phạm từ mức phạt hành chính trở lên, bao gồm (xem bảng 2.5): Bảng 2.5. Danh sách các doanh nghiệp được khen thưởng năm 2012 STT Tên giao dịch Tên Doanh nghiệp Số lao động 1 TRAENCO Công ty cổ phần Traenco 2332 2 TTLC Công ty cổ phần XKLĐ, Thương mại và Du lịch 1956 3 LETCO Công ty TNHH 1 TV đào tạo và cung ứng NL 1753 4 SIMCO SDA Công ty cổ phần Simco Sông Đà 1676 5 ISALCO Công ty TNHH 1 TV vận tải biển & XKLĐ 1203 6 TRADIMEXCO Công ty TNHH 1 TV thương mại & dịch vụ xuất nhập khẩu Hải Phòng 1166 7 SONA Công ty TNHH 1 TV cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại 1101 8 VITOURCO Công ty cổ phần Du lịch và xuất nhập khẩu Vĩnh Phúc 1044 [Nguồn: Báo cáo của Cục QLLĐNN, Bộ LĐTBXH] 53 Các doanh nghiệp đưa bình quân trên 500 và dưới 1.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài hàng năm chiếm 71%, trong đó các doanh nghiệp đưa bình quân từ 100 đến 500 lao động/ năm, chiếm tỷ trọng lớn. Nguyên nhân của việc phần lớn các doanh nghiệp có số lượng lao động đưa đi ít là do kinh tế thế giới đang trong giai đoạn suy thoái, xuất khẩu hàng hóa giữa các nước giảm mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế các nước tiếp nhận lao động nước ngoài. Bên cạnh đó, xảy ra khủng hoảng chính trị tại các nước Trung đông và Bắc phi, nơi tiếp nhận số lượng lớn lao động Việt Nam sang làm việc hàng năm, dẫn đến số lượng lao động tiếp nhận của thị trường này giảm xuống hoặc ngừng hẳn. Đặc biệt như thị trường Lybia, khi chiến sự xảy ra vào đầu năm 2011, Việt Nam đã phải tổ chức sơ tán và đưa hơn 10.000 lao động về nước an toàn. Một nguyên nhân khác là trước đây các doanh nghiệp dịch vụ chạy theo số lượng lao động đưa đi, ít chú trọng đầu tư đào tạo lao động có nghề. Hàng năm, Việt Nam đưa một số lượng lớn lao động phổ thông sang các thị trường không đòi hỏi lao động có tay nghề, làm công việc giản đơn với mức lương thấp, ví dụ như Malaysia hàng năm có khoảng 30.000 lao động đi làm việc. Tuy nhiên, do là lao động giản đơn nên điều kiện làm việc không đảm bảo, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp, nên người lao động dần tẩy chay những thị trường này. Những doanh nghiệp chỉ chạy theo số lượng lao động, thường ít có sự đầu tư khai thác thị trường, đào tạo lao động có nghề vì thế cũng dễ bị ảnh hưởng từ tác động của thị trường, số lượng lao động đưa đi của các doanh nghiệp này sụt giảm, hoặc mỗi năm chỉ đưa một vài lao động đi làm việc ở nước ngoài. 2.3.7. Công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi xuất cảnh Với quan điểm xã hội hoá công tác đào tạo, tăng tính chủ động của người lao động khi có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài, tại Điều 62 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định “Người lao động có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài phải chủ động học nghề, ngoại ngữ, tìm hiểu pháp luật có liên quan”. Thực tế thời gian qua cho thấy, lao động có nghề 54 thường được bố trí làm các công việc ít nặng nhọc hơn, điều kiện làm việc tốt hơn và thu nhập cũng cao hơn, đồng thời ý thức chấp hành kỷ luật lao động, nội quy nơi làm việc và nơi ở, khả năng hoà nhập với công việc và cuộc sống của số lao động đã qua đào tạo cũng tốt hơn. Vì vậy, tăng tỷ trọng lao động có nghề đã trở thành mục tiêu phấn đấu của nhiều doanh nghiệp. Để làm được việc này, thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã chủ động phối hợp với các cơ sở dạy nghề từ Trung ương đến địa phương để tuyển chọn lao động, phối hợp mở các khoá đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho lao động trước khi xuất cảnh. Theo số liệu thống kê của Cục QLLĐNN cho thấy tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trước khi đi làm việc tại các thị trường là khác nhau, phản ánh yêu cầu của từng thị trường. Nếu như tại thị trường Nhật bản, người lao động trước khi đi làm việc đã qua đào tạo chiếm 70% - 80%; tại thị trường Châu Âu, tỷ lệ này là 92% - 100%; thì tại thị trường Malaysia, tỷ lệ người lao động đã qua đào tạo chỉ chiếm từ 5,2% đến 12,5%. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có trình độ chuyên môn cao có mức thu nhập cao hơn những người đi làm việc không qua đào tạo. Mức lương trung bình của người lao động đi làm việc tại thị trường Nhật Bản từ 900 Đôla Mỹ đến 1.500 Đôla Mỹ, trong khi mức lương trung bình của người lao động đi làm việc tại Malaysia từ 180 Đôla Mỹ đến 350 Đôla Mỹ, ngoại trừ một số trường hợp doanh nghiệp khai thác được hợp đồng đòi hỏi kỹ thuật chuyên môn cao, người lao động làm việc tại Malaysia có mức thu nhập từ 600 Đôla Mỹ đến 900 Đôla Mỹ (xem bảng 2.6). Có thể thấy việc doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo tay nghề của người lao động, sẽ giúp doanh n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf000000272645_6185_1951730.pdf
Tài liệu liên quan