Thực trạng và giải pháp chính sách tiền tệ ở Việt Nam

A. LỜI MỞ ĐẦU. 1

B. NỘI DUNG. 2

Chương I. Cơ sở lý thuyết về chính sách tiền tệ Quốc gia. 2

I. Khái niệm, vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ . 2

1. Khái niệm chính sách tiền tệ. 2

2. Vị trí của chính sách tiền tệ. 2

3. Nhiệm vụ của chính sách tiền tệ. 2

II. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. 6

1. Công ăn việc làm cao. 6

2. Tăng trưởng kinh tế. 7

3. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ. 7

4. Quan hệ giữa các mục tiêu. 8

III. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 9

1. Các loại chính sách tiền tệ:. 9

2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 9

2.1. Các công cụ gián tiếp . 9

2.2. Các công cụ trực tiếp. 12

IV. Vai trò và nội dung của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở. 15

1. Thế nào là một nền kinh tế mở. 15

2. Ảnh hưởng của toàn cầu hoá đến cơ chế tác động của chính sách tiền tệ. 15

3. Sự cần thiết phải thay đổi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở ở Việt Nam. 16

Chương II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM. 18

I. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam. 18

1. Nước ta tiến hành mở cửa với điểm xuất phát thấp. 19

2. Tình hình sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, thành tựu và hạn chế. 19

3. Khái quát hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua. 25

II. Những vấn đề đặt ra trong điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới 27

1. Phương hướng cơ bản để tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ. 27

2. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNNVN. 28

C. KẾT LUẬN. 31

 

 

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 6716 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vay hết số tiền có thể cho vay, tức là dự trữ vượt mức bằng không. - Các khoản tiền gửi do các NHTM tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống Ngân hàng. Nếu với tỷ lệ dự trữ pháp định là 10% thì lượng tiền gửi sẽ tăng lên 10 lần và số tín dụng có khả năng phát ra do hệ thống NHTM đó là 9 lần số tiền gửi nhận được đầu tiên. Để khống chế hoặc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế theo ý muốn, NHTƯ cần quy định tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khi tỷ lệ dự trữ pháp định tăng lên thì khả năng tín dụng giảm và ngược lại. Tuy nhiên, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây nên lộn xộn không thể kiểm soát được của hệ thống NHTM như: NHTƯ muốn nhanh chóng giảm lượng tiền cung ứng nên đã nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% làm cho các NHTM nhận thấy rằng họ không có đủ dự trữ để đáp ứng yêu cầu của NHTƯ đề ra và không có đủ dự trữ để đáp ứng các hoạt động hàng ngày của họ. Vì thế lúc này NHTM sẽ tìm cách bán chứng khoán, thu hồi các món vay, vay từ các Ngân hàng khác… Nếu chỉ một Ngân hàng làm như vậy thì không sao nhưng nhiều Ngân hàng đều làm như vậy thì hệ thống Ngân hàng sẽ xảy ra tình trạng tranh giành tính thanh khoản, gây nên lộn xộn trong hệ thống Ngân hàng và có thể gây ra hoảng loạn Ngân hàng. Vì vậy, công cụ này không được khuyến khích sử dụng thường xuyên, nếu có sử dụng thì thay đổi với tỷ lệ nhỏ. 2.2. Các công cụ trực tiếp: Đây là loại công cụ được NHTƯ sử dụng trực tiếp để tác động vào khối lượng cung, cầu tiền tệ của nền kinh tế mà không cần thông qua loại công cụ nào khác, nó bao gồm: 2.2.1. Ấn định lãi suất: * NHTƯ ấn đinh trực tiếp mức lãi suất cho vay để các NHTM áp dụng với các đối tượng cho vay. Nếu muốn tăng khối lượng cho vay thì NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn, và nếu thấy cần hạn chế đầu tư thì NHTƯ ấn định mức lãi suất cao. - Ưu điểm của biện pháp này là NHTƯ có thể tác động trực tiếp vào các dự án kinh tế nào có lợi nhuận cao nhất mới được vay vốn Ngân hàng và như vậy cũng có nghĩa là loại bỏ các dự án kinh tế có lợi nhuận thấp mà theo chuyên gia Ngân hàng thì đầu tư vào các dự án đó không có lợi. Để có thể thực hiện được các biện pháp này có hiệu quả đòi hỏi Ngân hàng phải nắm được trong tay các dự án đầu tư từ trước để ấn định được khối lượng tín dụng phù hợp. - Nhược điểm của biện pháp này là: + Nhược điểm thứ nhất của nó là nếu lãi suất Ngân hàng được ấn định không sát đúng với nền kinh tế thì có thể xảy ra 2 hiện tượng sau: Lãi suất Ngân hàng quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tệ tăng nhanh hơn dự đoán và Ngân hàng sẽ lúng túng khi đáp ứng. Khi lãi suất Ngân hàng quá cao sẽ làm cho cầu tiền tệ giảm đi, đầu tư suy giảm mà nếu Ngân hàng không điều chỉnh kịp sẽ làm bỏ lỡ cơ hội đầu tư. + Nhược điểm thứ hai là tính linh hoạt của thị trường tiền tệ sẽ bị suy giảm, các NHTM sẽ gặp khó khăn khi vốn huy động nhiều nhưng không cho vay được. * NHTƯ cũng có thể áp dụng lãi suất tiền gửi quy định cho các NHTM và các định chế tài chính phải thực hiện. Biện pháp này cũng có ưu nhược điểm sau: - Ưu điểm: là ngay lập tực hệ thống Ngân hàng trong một thời hạn ngắn có thể huy động được một lượng tiền gửi lớn nếu lãi suất tiền gửi cao hơn lợi nhuận kinh doanh, hoặc hạn chế việc gửi tiền bằng cách quy định lãi suất thấp, buộc người có tiền phải sử dụng các hình thức sinh lợi khác như mua bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu... - Nhược điểm: Các NHTM cũng không còn linh hoạt trong kinh doanh của mình mà phải tuân theo các quy định của NHTƯ. Hơn nữa nếu lãi suất ấn định không phù hợp với thực tế thì có thể xảy ra hậu quả là, hoặc người có tiền tìm cách chuyển tiền đến Ngân hàng để hưởng lợi tức. Vì vậy, đầu tư sẽ suy giảm khi gửi tiền ổn định và ít rủi ro, hoặc người có tiền sẽ không gửi tiền ở Ngân hàng nữa mà đầu tư vào động sản, dự trữ vàng nếu vàng có khuynh hướng tăng giá... * Chúng ta có thể thấy rằng ấn định lãi suất cho cả 2 trường hợp như trên là rất khó chính xác và khó có thể bám sát được diễn biến hàng ngày, hàng giờ của thị trường tiền tệ. Để khắc phục tình trạng này, nếu NHTƯ muốn bảo vệ quyền lợi của các Ngân hàng, NHTƯ ấn định mức lãi suất cao nhất của lãi suất tiền cho vay, còn sự biến động dưới mực cao nhất đó do NHTM tự thích ứng với thị trường. Nếu nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của NHTM, thì NHTƯ thường quy định mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay. NHTƯ muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả. .Lãi suất là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, nó biểu hiện sự tác động của cung - cầu tiền tệ và quyết định khối lượng đầu tư của nền kinh tế, tức là quyết định đến sản lượng, công ăn việc làm, giá cả và lạm phát. Sự nhạy cảm của lãi suất đối với đầu tư là rất lớn, vì vậy mà ít có Nhà nước nào quy định trực tiếp lãi suất Ngân hàng. 2.2.2. Ấn định hạn mức tín dụng: Đây là biện pháp mà NHTƯ ấn định một khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định rồi sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế. Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và chỉ tiêu lạm phát dự kiến hàng năm, ngoài ra còn dựa vào một số tín hiệu thị trường khác như: tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ lưu thông tiền tệ... Trên cơ sở đó hạn mức tín dụng dược phân bổ cho các NHTM, cho từng thời kì phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ. Để kiểm soát mức tăng trưởng quá nóng của tín dụng trong nền kinh tế, NHTƯ quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM.Trong phần lớn các trường hợp, những hạn mức riêng này được xác địn căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống Ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tối đa cho nền kinh tế bằng hạn mức tín dụng được quy định. Hiện nay một số nhà nghiên cứu của Việt Nam đang cho đây là biện pháp hay vì nó là một kế hoạch chắc chắn khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng đối với nền kinh tế hàng hoá, thì xác định một khối lượng tín dụng một cách chắc chắn như vậy là một điều khó thực hiện được. Mà có chăng, đó chỉ là dự đoán có thể xảy ra trong tương lai để chuẩn bị các điều kiện cần thiết thực hiện nó, nhưng lại dựa trên yêu cầu là để cho quy luật cung cầu được tự do hoạt động chứ không bắt ép nền kinh tế phải nhận một khối lượng tín dụng đã định sãn. Hơn nữa việc ấn định hạn mực tín dụng trực tiếp như vậy chỉ có thể thực hiện được trong nền kinh tế chỉ có hệ thống Ngân hàng quốc doanh, có nghĩa là Ngân hàng phải thực hiện các chỉ tiêu tín dụng theo hạn mực mà NHTƯ đã cấp. Nhưng trong nền kinh tế thị trường việc vay vốn và cho vay vốn luôn luôn bị quy luật cung cầu chi phối cho nên biện pháp này không còn tác dụng như trong nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. IV. Vai trò và nội dung của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở 1. Thế nào là một nền kinh tế mở Nền kinh tế mở là nền kinh tế có trao đổi thương mại và chu chuyển vốn giữa nước này với nước khác. Mức độ mở cửa của một nền kinh tế có thể biểu hiện bởi chỉ số tổng giao dịch ngoại hối hoặc tỷ lệ giữa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá với GDP. Nền kinh tế mở kết nối với thị trường thế giới theo hai cách: Thị trường hàng hoá và thị trường tài chính thế giới biểu hiện cụ thể là xuất khẩu ròng (NX, phần chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu) và đầu tư nước ngoài ròng (NFI, phần chênh lệch giữa lượng tài sản nước ngoài do dân cư trong nước mua và lượng tài sản trong nước do người nước ngoài mua). 2. Ảnh hưởng của toàn cầu hoá đến cơ chế tác động của chính sách tiền tệ Điều hành chính sách tiền tệ đó là quá trình kiểm soát cung tiền, tín dụng của NHTƯ bằng tổng thể các biện pháp nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là ổn định hệ thống tiền tệ, ổn định giá cả ở mức hợp lý, qua đó góp phần tăng trưởng kinh tế bề vững. Chính vì vậy mà hội nhập kinh tế thế giới mang lại không ít những cơ hội và thách thức cho điều hành, thực thi chính sách tiền tệ của NHTƯ. Cụ thể : - Cơ hội Đối với NHTƯ, hội nhập quốc tế tạo cơ hội để nâng cao hơn nữa năng lực và hiệu quả điều hành tiền tệ: đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá dựa trên cơ sở thị trường. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các cam kết xây dựng và triển khai chính sách ổn định hơn của chính phủ, phối hợp và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Hội nhập kinh tế trong hoạt động Ngân hàng sẽ mở ra các cơ hội tăng cường phối hợp giữa NHTƯ trong nước và ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách, chia sẻ thông tin và phương pháp hành động trong ngăn chặn và xử lý rủi ro, qua đó sẽ có tác dụng góp phần bảo đảm an toàn trong hệ thống Ngân hàng và hạn chế sự biến động của thị trường. Hội nhập quốc tế sẽ buộc các Ngân hàng phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường và minh bạch hơn. Nâng cao tính cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động Ngân hàng sẽ khuyến khích tạo ra những Ngân hàng có quy mô lớn về tài chính kinh doanh có hiệu quả hơn, các Ngân hàng yếu kém sẽ bị đào thải hoặc phải vươn lên nếu muốn tồn tại. Do vậy, khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng sẽ được nâng cao. Đây là động lực chính thúc đẩy cải cách của mỗi Ngân hàng và toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Hội nhập quốc tế thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và năng lực hoạt động của các cơ quan tài chính. NHTƯ cũng phải tính đến việc cải cách căn bản năng lực hoạt động, xây dựng và thực thi chính sách, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế. Hội nhập quốc tế đòi hỏi phải loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTMNN. - Thách thức trong điều hành tài chính tiền tệ Kinh nghiệm quốc tế cho thấy về dài hạn, hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức nhất định trong điều hành chính sách tiền tệ: Những diễn biến trên thị trường hàng hoá và tài chính toàn cầu sẽ có ảnh hưởng nhiều hơn tới quá trình hoạch định chính sách của NHTƯ, như mức chênh lệch giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài sẽ là một nhân tố quan trọng cần xem xét tới khi điều hành các công cụ chính sách tiền tệ. NHTƯ sẽ phải chú trọng nhiều hơn tới công tác nghiên cứu dự báo, xác định những biến động trên thị trường quốc tế có khả năng ảnh hưởng hay lây lan tới thị trường tài chính trong nước và đưa ra quyết định kịp thời về các phản hồi chính sách cần thiết để giảm thiểu những tác động bất lợi đối với nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính trong nước nói riêng. Việc mở cửa thị trường tài chính nội địa sẽ làm tăng tủi ro thị trường do các tác động từ bên ngoài, hạn chế khả năng tận dụng năng lực tỷ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và quốc tế. Hệ thống Ngân hàng trong nước cũng phải đối mặt lớn hơn với rủi ro khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính, khu vực, sự lây truyền của khủng hoảng. 3. Sự cần thiết phải thay đổi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở ở Việt Nam. Qua các phân tích trên, chúng ta thấy những thuận lợi và các thách thức của toàn cầu hóa kinh tế đối với Việt Nam trong quá trình phát triển, toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng lớn đến tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt đối với chính sách thương mại và chính sách tiền tệ. Hội nhập quốc tế thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính. Cơ quan quản lý hoạt động Ngân hàng - NHNN và Bộ Tài chính cũng phải tính đến việc cải cách căn bản năng lực hoạt động, xây dựng và thực thi chính sách, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế. Hội nhập quốc tế đòi hỏi phải loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTMNN, điều này tạo ra cho lãnh đạo các NHTMNN có thêm động lực để tự cải cách, tăng cường năng lực cạnh tranh bằng chính mình, hạn chế trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Tất cả các biện pháp cải cách vĩ mô và vi mô nhằm tạo lập môi trường hoạt động Ngân hàng an toàn, hiệu quả, hệ thống tiền tệ Ngân hàng có khả năng thích ứng cao đối với môi trường toàn cầu. Luồng vốn tự do luân chuyển, sự tiếp xúc với thị trường vốn quốc tế trong toàn cầu hoá kinh tế mang lại cho quốc gia cả lợi ích và rủi ro. Toàn cầu hoá tài chính mang lại lợi ích lớn cho các nước lớn có thu nhập trung bình trong những năm gần đây, nhưng nó cũng gắn liền với khủng hoảng tài chính với các phí tổn to lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng trong dài hạn tính rủi ro này sẽ được giảm xuống do việc đa dạng hoá danh mục tài sản, và sự phát triển lành mạnh hơn ở khu vực tài chính. Các nước cần có các thể chế chính sách tốt hơn để có thể tránh né rủi ro và thu được lợi ích từ sự hội nhập tài chính. Nếu không có một hệ thống tài chính trong nước vững mạnh thì sự hội nhập vào thị trường vốn quốc tế có thể dẫn tới thảm hoạ như đã từng xảy ra với Thái Lan, Indonêxia và Hàn Quốc vào năm 1997. Điều này đòi hỏi NHTƯ phải đẩy mạnh việc đổi mới ,nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, xác định rõ các mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và cơ chế truyền tải tác động của chính sách tiền tệ đến mục tiêu chính sách tiền tệ. Việt Nam vừa mới gia nhập WTO, thị trường tài chính - tiền tệ chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi lớn. Do vậy, để tránh tình trạng lúng túng, bị động, ngay từ bây giờ, chúng ta phải tiến hành nghiên cứu đưa ra các dự báo để có cơ sở tổ chức hoạt động và quản lý thị trường này có hiệu quả. Do vậy, đối với các Ngân hàng trong nước, việc chiếm lĩnh và duy trì thị phần, thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ trở nên khó khăn hơn nếu không có những đổi mới và thích ứng cần thiết. Xác lập một khuôn khổ chính sách tiền tệ hoàn chỉnh, lành mạnh với các nhóm mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian, mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ và một cơ chế chuyển tải tác động chính sách tiền tệ hiệu quả, hoạt động ổn định trên nền tảng dữ liệu kinh tế vĩ mô đầy đủ, có cùng chất lượng là nhiệm vụ quan trọng hiện nay nhằm nâng cao hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ, từng bước đưa NHNNVN trở thành một NHTƯ hiện đại trong khu vực và thế giới. Chương II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM I. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam Nước ta tiến hành mở cửa với điểm xuất phát thấp Năm nội dung cơ bản của đối mới kinh tế của Việt Nam: Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; Chuyển một nền kinh tế khép kín, nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế và có hiệu quả; Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con người; Từng bước đổi mới hệ thống chính trị. UNDP coi Việt Nam là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đượng đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Đã có nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất, tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, chính sách tiền tệ và ngoại thương. Chính sách đổi mới mở ra nhiều phương thức tổ chức và quản lý kinh tế mới mẻ, góp phần cải thiện đời sống con người Việt Nam. Tuy nhiên, khi nói về con đường tương lai của Việt Nam và làm thế nào để duy trì đà thành công của mình thì vẫn còn rất nhiều thách thức, bởi vì điểm xuất phát của Việt Nam thấp, trình độ tổ chức quản lý còn nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; Các nền kinh tế trong khu vực cải cách nhanh hơn như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Hồng Kông… Chính vì vậy muốn cạnh tranh thành công trong tương lai, Việt Nam không chỉ chạy mà phải chạy nhanh hơn các đối thủ, tức là phải mở cửa, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh hơn nữa… Có thể nhận thấy các Ngân hàng Việt Nam đang phải đứng trước cuộc đua không cân sức đối với các Ngân hàng nước ngoài trong một tương lai gần. Ðặc điểm quan trọng của NHTMVN là quy mô tài sản tự có rất nhỏ. Các NHTMNN dù được giao vai trò chủ đạo, chiếm tới 73-75% thị phần nguồn vốn và tín dụng nhưng tổng nguồn vốn điều lệ của các Ngân hàng hiện nay cũng chưa vượt quá 800 triệu USD, chưa bằng vốn của một Ngân hàng cỡ vừa trên thế giới. Các NHTM cổ phần còn "bi đát" hơn với số tài sản manh mún, yếu ớt, bình quân chưa đến 10 triệu USD/Ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ an toàn của một Ngân hàng phải đạt 8% (tài sản tự có/tổng tài sản có của Ngân hàng). Nhưng với thực trạng trên, tỷ lệ an toàn của các Ngân hàng mới chỉ đạt mức dưới 5%. Đánh giá mức độ hội nhập quốc tế của thị trường tiền tệ Việt Nam: Xét trên những thoả thuận và nguyên tắc đạt được trong khuôn khổ của GATS, hiện trạng về mở cửa thị trường tiền tệ của Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế ở một số mặt. Đó là, thị trờng tiền tệ của Việt Nam đã có sự tham gia rộng rãi của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh. Tính đến năm 2002, đã có 6 NHTMNN (kể cả Ngân hàng phục vụ người nghèo và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long), 47 NHTM cổ phần, 8 công ty cho thuê tài chính và 959 quỹ tín dụng nhân dân với mạng lới rộng khắp trong cả nước. Ngoài ra, Việt Nam đã có 31 chi nhánh của 26 Ngân hàng nước ngoài và 4 Ngân hàng liên doanh. Nhiều chi nhánh của các Ngân hàng nổi tiếng như ANZ - Australia New Zeland Bank (úc), Citi Bank (Hoa Kỳ), Standard Charter Bank (Anh), ABN-Amro (Hà lan)...đã có mặt tại Việt Nam. Với mức độ tham gia như vậy, thị trường tiền tệ của Việt Nam có vẻ là thông thoáng không kém gì các quốc gia khác trong khu vực, nơi đã có cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển hơn nước ta nhiều lần. Sự có mặt của các Ngân hàng nước ngoài đã góp phần làm phong phú thêm và sôi động hơn thị trường tiền tệ, tạo nên môi trường cạnh tranh mới, phá dần thế độc quyền trên thị trường tiền tệ ở Việt Nam; thông qua đó quốc tế hoá hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Như vậy có thể nói, hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ hội và thuận lợi, nhưng cũng sẽ nảy sinh không ít thách thức cho điều hành chính sách tiền tệ và quản lý hoạt động Ngân hàng. Vì vậy, đòi hỏi NHNN phải nỗ lực cải cách với những bước đi và giải pháp thích hợp. 2. Tình hình sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, thành tựu và hạn chế 2.1 Lãi suất: Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. ở Việt Nam NHTƯ đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhắm tác động tích cực đến nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, có thể thấy rõ tính linh hoạt của chính sách lãi suất qua các thời điểm: - Trước ngày 1/6/2002 NHNNVN thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Đồng Việt Nam, mức lãi suất cơ bản đựơc công bố trong các tháng đầu năm 2002 là 0,6%/Tháng. NHNN cũng đã rất mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất đối với ngoại tệ từ tháng 6/2001. Chính sách lãi suất như vậy là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và bám sát với diễn biến của thị trường tiền tệ quốc tế. - Từ ngày 1/6/2002 NHNN quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận Đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng. Đây là một sự “cởi trói” cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các TCTD chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới đã tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các TCTD. Nếu như với  cơ chế lãi suất cơ bản, trong các tháng đầu năm của năm 2002 lãi suất huy động vốn dừng lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/Tháng, thì từ khi áp dụng cơ chế lại suất thoả thuận từ tháng 6/2002 và nhất là trong các tháng 8 và 9/2002 lãi suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới 0,7%, thậm chí 0,72%/Tháng - Mức lãi suất cao nhất trong vòng gần 2 năm qua. Không dừng lại ở đó, các tháng đầu năm 2003 do nhu cầu vay vốn trên thị trường vẫn cao, các NHTM, các TCTD tiếp tục lao vào cuộc cạnh tranh huy động vốn qua các biện pháp nâng lãi suất huy động; Thực hiện các hình thức khuyến mãi rầm rộ và hấp dẫn. Đã xuất hiện diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là lãi suất nội tệ tăng lên quá cao, trong khi đó lãi suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp. Thị trường tiền tệ VND nóng lên, tuy vậy vẫn không tác động tích cực đến vấn đề tiết kiệm và đầu tư. Thực tế trên cho thấy các NHTM và các TCTD đã vào cuộc rất nhanh với cơ chế mới, theo sát diễn biến của thị trường, năng động trong kinh doanh để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nhưng với lãi suất quá nóng sẽ tiềm ẩn những rủi ro cho các TCTD và khách hàng. Đối với các TCTD chi phí cao, lợi nhuận giảm thậm chí thua lỗ, đối với các doanh nghiệp chi phí vốn cao, đẩy giá thành lên cao sẽ giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Để tăng cường vai trò chủ động của NHTW trong điều hành chính sách tiền tệ việc tăng khả năng kiểm soát mặt bằng lãi suất là yếu tố quan trọng nhất ở Việt Nam trong thời gian qua NHTW cũng đã cố gắng sử dụng công cụ lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Cho đến cuối năm 2002, NHNNVN đã thiết kế đủ hệ thống lãi suất chủ đạo bao gồm: Cặp lãi suất tái suất vốn, lãi sất cơ bản và hệ thống lãi suất của phương tiện thường xuyên gắn liền với hoạt động cho vay qua đêm ( Quyết định 1085/2002/QĐ-NHNN) và lãi suất cho số dư tiền gửi thường xuyên của các TCTD tại NHNN ( Quyết định 1284/2002/QĐ-NHNN). Trong thực tế, mặc dù NHNN công bố lãi suất cơ bản nhưng nó ít tác động đến lãi suất thị trường bởi vì nhu cầu vay vốn là rất lớn khách hàng chấp nhận vay vốn với lãi suất cao, các TCTD đua nhau tăng lãi suất huy động vốn để cho vay, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng cũng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường vốn, lãi suất trái phiếu kho bạc được đẩy lên cao, lãi suất trái phiếu địa phương tăng vọt… điều đó làm cho thị trường tiền tệ nóng lên NHNNVN khó kiểm soát được lãi suất thị trường. - Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu: đây là cửa sổ chiết khấu rất quan trọng để tăng hoặc giảm khả năng cho vay của các NHTM làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Trong thời gian vừa qua lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đã được NHNN áp dụng phù hợp với diễn biến trên thị trường tiền tệ, do tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ quá nóng từ tháng 8/2003, NHNN đã quyết định giảm đáng kể lãi suất tái cấp vốn từ 6,0%/năm xuống 5,0%/năm; Lãi suất tái chiết khấu từ 5,0%/năm xuống 4,2%/năm ( quyết định 833/2003/QĐ-NHNN). - Bám sát diễn biến thị trường tiền tệ, trong năm 2005 NHNN đã điều chỉnh tăng một số loại lãi suất chủ đạo. Cụ thể lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm, lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam là 8,25%/năm ; Lãi suất tiền gửi không kì hạn tăng lên 0,5%/năm, tiền gửi có kì hạn đến 6 tháng là 1,2%/năm và lãi suất tiền gửi có kì hạn trên 6 tháng là 5,1%/năm. - Với phương châm điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, đồng thời nhằm hạn chế sức ép tăng lãi suất, đặc biệt là lãi suất của đồng đôla Mỹ trên thị trường quốc tế, từ đầu năm 2006 đến nay, NHNNVN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất chủ đạo. Nhờ vậy, tính đến cuối tháng 6/2006, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay bằng VND của các tổ chức tín dụng chỉ tăng nhẹ so với đầu năm (khoảng 0,12-0,24%/năm), trong đó lãi suất cho vay tăng thấp hơn lãi suất huy động vốn. Lãi suất VND tiếp tục được duy trì ở mức hợp lý, đảm bảo chênh lệch dương so với lạm phát khoảng 2%/năm; đồng thời, đảm bảo cho người gửi tiền bằng VND được hưởng mức lãi suất cao hơn so với gửi tiền bằng USD khoảng 4%/năm. Một thực tế đáng quan tâm nữa là lãi suất huy động vốn của NHTM này tương đương hoặc cao hơn lãi suất cho vay của NHTM khác. Bởi vậy nếu các NHTM cứ tăng lãi suất trung và dài hạn lên, thì vốn từ Ngân hàng có lãi suất thấp hơn sẽ chạy sang Ngân hàng có lãi suất cao hơn và nếu phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Đô thị với lãi suất cao, thì chủ yếu hút vốn từ các NHTM đầu tư vào đó, ảnh hưởng đến việc cho vay vốn trung và dài hạn của Ngân hàng cho khách hàng và các dự án. Thực trạng này cho thấy thị trường liên Ngân hàng chưa phát triển, chưa có tác dụng điều hoà lãi suất trong nền kinh tế. Từ đó đòi hỏi NHNN phải có các giải pháp để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp. 2.2. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở Ngày 12/7/2000, NHNNVN chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động, đây là một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ Quốc tế. Từ tháng 5/2002 nghiệp vụ thị trường mở được đưa vào giao dịch hàng tuần, quy mô và doanh số ngày càng tăng, lãi suất ngày càng linh hoạt. Trong các hình thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở thì việc NHNN mua các giấy tờ có giá là chủ yếu( NHNN bơm tiền ra); chiếm tỷ lệ khoảng từ 71% lên trên 90%. Như vậy, đây chính là một “kênh” quan trọng của NHNN nhằm mục tiêu điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và điều chỉnh lượng tiền cung ứng qua các kênh khác. Trong năm 2003, số lượng thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là bốn NHTM quốc doanh, còn các NHTM

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0968.doc
Tài liệu liên quan