Tiểu luận Các nguồn tài trợ cho cán cân vãng lai

Phá giá làm cho tỉ giá danh nghĩa tăng nên làm tỉ giá thực tăng, từ đó cải thiện được sức cạnh tranh thương mại quốc tế, nghĩa là kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm nhưng chưa chắc làm cán cân vãng lai cải thiện do trong cán cân vãng lai ta quan tâm đến giá trị xuát nhập khẩu chứ không phải là khối lượng. Phương pháp tiếp cận hệ số co giãn sẽ giúp chúng ta xem xét được trong điều kiện như thế nào thì cán cân vãng lai được cải thiện khi phá giá tiền tệ.

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các nguồn tài trợ cho cán cân vãng lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trong thu hút vốn FDI. Trong giai đoạn 2001- 2005 cam kết đầu tư FDI bình quân tại Việt Nam đạt trên 3 tỷ USD/năm, cam kết nguồn vốn ODA bình quân đạt gần 3 tỷ USD/năm. Trong đó giải ngân FDI và ODA trung bình khoảng 1,5 tỷ USD/năm. Đặc biệt năm 2007 giả ngân FDI là 6,55 tỷ USD tăng mạnh so với những năm trước. trong năm 2008, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đạt mức kỷ lục 64 tỷ USD, gần gấp 3 lần năm 2007, trong đó 60,3 tỷ USD là vốn đầu tư đăng ký mới, 3,7 tỷ USD là vốn đăng ký tăng thêm. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 54,1% tổng vốn đăng ký tương đương 32,6 tỷ USD; lĩnh vực dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%. Tuy nhiên con số trong khoản mục đầu tư trực tiếp nước ngoài ròng thì chúng ta chỉ tính đến con số giải ngân thực tế. Đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoại mở rộng sang các nước Nga, Mĩ, Đức và các nước trong khu vực vào các lĩnh vực khai khoáng, chế biến nông sản, thương mại…Tuy nhiên so với luồng vốn FDI thu hút vào Việt Nam thì đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài không đáng kể. Đáng chú ý là thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển, trong đó giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài vào chứng khoán do người cư trú Việt Nam phát hành cũng góp phần làm tăng cung ngoại tệ. Cầu ngoại tệ cho các mục đích chi dịch vụ, chi thu nhập đầu tư vẫn tăng nhưng tốc độ tăng không nhanh bằng tốc độ tăng của cung ngoại tệ. Nguồn: Thời báo kinh tế - Kinh tế VN; Tổng cục thống kê; Bộ kế hoạch và đầu tư FDI giảm mạnh trong năm 2009: Trong năm 2009, vốn FDI đăng ký vào giải ngân chắc chắn sẽ suy giảm so với năm 2008. Nhìn vào cơ cấu vốn đăng ký FDI năm 2008 có thể thấy rằng Malayxia, Đài Loan, Nhật Bản và Xingapo đã chiếm tới 80% vốn đăng ký. Nền kinh tế các nước này dự báo sẽ gặp nhiều khó khăn hơn nữa trong năm 2009, cộng với việc vốn tự đó của các dự án đăng ký chỉ chiếm khoảng 30% giá trị dự đăng ký. Thực tế tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI suy giảm mạnh, đạt 10,453 tỷ USD và chỉ bằng 18,4% so với cùng kỳ năm ngoái, Cục Đầu tư nước ngoài công bố ngày 25/8. Hai tháng trước, trung bình mỗi tháng có thêm hơn 1 tỷ USD bổ sung vào vốn FDI cả nước nhưng riêng tháng 8, cả nước chỉ thu hút được thêm 350 triệu USD vốn FDI. b. Vay dài hạn Đặc biệt năm 2005 lần đầu Việt Nam phát hành 750 triệu USD trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế nên khoản đầu tư vào giấy tờ có giá thặng dư 750 triệu USD. Đây cũng là một nguồn quan trọng bổ sung ngoại tệ cho Việt Nam đồng thời cũng tăng uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và có thể tạo điều kiện, tạo kinh nghiệm cho các đợt phát hanhf tiếp theo. Tuy nhiên, nó tạo áp lực trả nợ lên Việt Nam trong những năm sau này nếu chúng ta không đảm bảo nguồn dự trữ ngoại hối đủ lớn. Chính phủ tiếp tục thực hiện việc phát hành trái phiếu quốc tế trong năm 2009-2010 và giao Bộ Tài chính lựa chọn thời gian cụ thể thích hợp. Bộ Tài chính được chủ động xác định thời hạn và lãi suất của trái phiếu trong quá trình chào bán và định giá trái phiếu với điều kiện đảm bảo lãi suất trái phiếu thời hạn 10 năm không quá 7%/năm (lãi suất của các trái phiếu có kỳ hạn khác tương ứng với điều kiện trên). Số tiền thu được từ việc bán trái phiếu quốc tế để hoàn trả ngân sách nhà nước 700 triệu USD, số còn lại giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp, có khả năng trả được nợ, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định trong thời gian chuẩn bị phát hành. Việc phát hành trái phiếu này tuân thủ theo Nghị quyết 7/2007/NQ-CP ngày 1/6/2007 và Nghị quyết 54/2007/NQ-CP của Chính phủ. Theo nội dung của 2 Nghị quyết trên, Việt Nam phát hành 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế. Kỳ hạn trái phiếu quốc tế phát hành trong năm 2007 mở rộng từ 10-30 năm, trong đó ưu tiên kỳ hạn 15 và 20 năm. Số trái phiếu quốc tế phát hành theo 2 Nghị quyết trên được dành cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng công ty Lắp máy Việt Nam vay lại để thực hiện đầu tư các Dự án: Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Dự án mua tàu vận tải, Dự án Thủy điện Xê Ca Mản 3 và Nhà máy thủy điện Hủa Na. Tính đến ngày 9/9, đã có 40 đợt phát hành trái phiếu bằng tiền đồng và 2 đợt phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ do Chính phủ bảo lãnh phát hành trong năm 2009. Tuy nhiên, mới chỉ có 2.310 tỷ đồng và 230 triệu USD được huy động. Có 36 đợt phát hành trái phiếu tiền đồng hoàn toàn thất bại khi không thu được một đồng nào. Lần phát hành gần đây nhất nối dài chuỗi phiên phát hành không thành công là ngày 9/9, do Công ty Đầu tư Phát triển Đường cao tốc Việt Nam phát hành 1.000 tỷ đồng nhu cầu trái phiếu chia đều cho hai kỳ hạn 3 năm và 5 năm hoàn toàn không được bán ra phần nào. Phần lớn số tiền phát hành (2.000 tỷ đồng) được tập trung ở kỳ hạn 2 năm (kỳ hạn ngắn nhất) thông qua Ngân hàng Chính sách Xã hội, phát hành trong tháng 6 với lãi suất bình quân là 8,93%/năm. Nguyên nhân trực tiếp dễ nhận thấy của sự thất bại trong huy động vốn bằng trái phiếu của Chính phủ là lãi suất không hấp dẫn. Trong hầu hết các đợt phát hành, lãi suất trần mà tổ chức phát hành đưa ra đều thấp hơn lãi suất thấp nhất mà các nhà thầu đăng ký. Tính trung bình qua các đợt phát hành, mức chênh lệnh này là 0,88%/năm. Thông thường, trái phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán phi rủi ro về mặt thanh khoản trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, nếu lãi suất của loại công cụ nợ này không đủ lớn để chiến thắng được mức bù rủi ro lãi suất mà thị trường yêu cầu thì các nhà đầu tư sẽ không mặn mà với việc “ôm” vào loại chứng khoán này. Rủi ro lãi suất trong giai đoạn hiện nay chủ yếu là khả năng giảm lãi suất thực do lạm phát có thể xảy ra. Các thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Trong thời gian vừa qua cũng như hiện nay, các ngân hàng thương mại cạnh tranh khá quyết liệt trong lĩnh vực huy động tiền gửi nhằm tài trợ cho các khoản tín dụng mở rộng theo mục tiêu gói kích thích kinh tế của Chính phủ và để đề phòng khả năng lạm phát có thể xảy ra. Cuộc cạnh tranh này đã đẩy mặt bằng lãi suất huy động lên cao và vô hình chung đẩy lãi suất yêu cầu của các tổ chức này đối với lãi suất trái phiếu lên cao. Vậy tại sao các tổ chức phát hành vẫn cứ “khăng khăng” giữ mức lãi suất không hấp dẫn với các nhà đầu tư qua nhiều lần “kiên trì” tổ chức đấu thầu, nhưng không thành. Một số chuyên gia phân tích kinh tế cho rằng Chính phủ không sẵn sàng với mức lãi suất huy động trái phiếu đủ cao do chi phí cơ hội từ việc chậm giải ngân lớn. Thực tế, theo thông tin từ ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong sáu tháng đầu năm 2009, Chính phủ mới chỉ giải ngân được khoảng 27% so với kế hoạch 37.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ ban đầu. Tình trạng chậm giải ngân trong lĩnh vực đầu tư công xưa nay vẫn tồn tại dai dẳng do những bất cập cố hữu về cơ chế. Tuy nhiên hiện nay đang là giai đoạn đặc biệt, một số vướng mắc có thể được giải quyết đặc cách nhằm khai thông cho dòng vốn chảy nhanh nhất vào khu vực sản xuất qua đó kích thích cả tổng cầu và tổng cung. Có ý kiến cho rằng, để giải quyết tình thế cấp thiết, trong ngắn hạn, Chính phủ nên chấp nhận mức lãi suất cao nhằm huy động được vốn cho các gói kích thích kinh tế. Nhu cầu huy động vốn để tài trợ cho các gói kích thích kinh tế là không hạn chế. Trong số các kênh huy động tiền để tài trợ cho mục tiêu cấp thiết trên, phát hành trái phiếu là kênh tối ưu hơn cả so với phát hành tiền do tính chất “tiện ích kép” của nó, đó là vừa huy động được tiền, vừa góp phần kìm chế lạm phát do không làm tăng tổng phương tiện thanh toán. Tuy nhiên, Chính phủ không thể huy động trái phiếu bằng mọi giá do có sự xung đột với mục tiêu kích thích tín dụng của chính sách tiền tệ hiện nay. Cùng với gói hỗ trợ lãi suất, việc duy trì lãi suất cơ bản 7%/năm đối với cho vay kinh doanh là để tạo mặt bằng chi phí vốn thấp cho các doanh nghiệp. Đây chính là rào cản đối với lãi suất trái phiếu. Chính phủ không thể áp dụng hai hệ thống lãi suất thiếu thống nhất cũng giống như người ta không thể duy trì hai mực nước chênh lệch giữa hai bình thông nhau. Mặt khác, Chính phủ cũng không thể làm điều duy ý chí là “đông cứng” thị trường tài chính. Biết trước những bất cập nan giải đối với lãi suất trái phiếu, các nhà phát hành trái phiếu Chính phủ vẫn kiên trì tổ chức đấu thầu với “hi vọng” sẽ “khớp” được với danh mục đầu tư của một nhà thầu nào đó. Trong lúc đang cần vốn để kích thích kinh tế nhưng thất bại trong việc huy động bằng phát hành trái phiếu, Chính phủ đã đạt được thỏa thuận vay 500 triệu USD từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Khoản cho vay này đã được ADB chính thức phê duyệt hôm 15/9/2009. Thủ tướng Chính phủ cũng đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu phương án giải ngân khoản vay có thời hạn 5 năm này. Ngoài việc góp phần bổ sung nguồn vốn cho gói kích thích kinh tế, khoản ngoại tệ 500 triệu USD này cũng được hy vọng sẽ góp phần vào việc bình ổn thị trường ngoại hối vẫn còn chưa “hạ nhiệt”. Năm 2008 giải ngân ODA ước tính đạt 1,227 tỉ USD và 6 tháng đầu năm 2009, giải ngân ODA đạt 1,27 tỷ USD. Theo trang web dddn.com.vn Hội nghị Tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) lần thứ 15 (diễn ra ngày 4-5/12/2008) cho biết mức cam kết ODA được nhóm các nhà tài trợ quốc tế đưa ra cho Việt Nam trong năm 2009 đạt 5,014.67 tỷ USD, thấp hơn mức cam kết đưa ra năm ngoái là 8%. Sở dĩ các nhà tài trợ vẫn đưa ra những tín hiệu tích cực về cam kết ODA cho Việt Nam là do các nhà tài trợ đều đánh giá Việt Nam sử dụng khá hiệu quả nguồn vốn này. Một báo cáo của Vụ Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) vừa được công bố, cho biết Việt Nam luôn theo đuổi chính sách quản lý nợ thận trọng. Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến quản lý vay, trả nợ nước ngoài; xây dựng và quản lý hệ thống chỉ tiêu nợ, thu thập, báo cáo thông tin nợ, bảo lãnh, cho vay lại... Vì vậy, các chỉ số nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2000 đến nay luôn trong giới hạn an toàn, được WB và IMF đặt trong danh sách nhóm các nước có mối nguy thấp về nợ nước ngoài. c. Cán cân vốn ngắn hạn Cán cân ngắn hạn bao gồm nhiều hạng mục phong phú và chủ yếu là: tín dụng thương mại ngắn hạn, hoạt động tiền gửi, mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn, kinh doanh ngoại hối… Triệu USD 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009* Vay ngắn hạn(8) -118 -29 -22 7 26 -54 46 -30 79 261 0,270 Cán cân vốn ngắn hạn thặng dư có thể do: tín dụng thương mại quốc tế, tín dụng ngân hàng quốc tế (các hình thức tài trợ ngoại thương của các ngân hàng thương mại), trái phiếu thương mại ngắn hạn (Những công ty lớn có mức tín dụng cao thường bán trái phiếu thương mại ngắn hạn để cấp vốn cho các nhu cầu trước mắt của mình. Đây là một giải pháp có chi phí thấp hơn thay cho việc vay ngân hàng ngắn hạn. Trái phiếu thương mại ngắn hạn là một giấy bảo lãnh nợ ngắn hạn, nhìn chung có thời hạn thanh toán từ 2 đến 270 ngày. Hầu hết trái phiếu này được bán ở mức chiết khấu so với mệnh giá của nó và có thể khôi phục mệnh giá khi đến hạn. Sự khác biệt giữa giá bán chiết khấu và mệnh giá tượng trưng cho lãi dành cho người mua trái phiếu. Các nhà đầu tư có các khoản dư tiền mặt tạm thời thường là người mua trái phiếu thương mại ngắn hạn. Đối với họ đây là cách an toàn hợp lý để sinh lợi trên tiền nhàn rỗi của họ). Tuy nhiên Việt Nam chưa phát triển trong hoạt động tín dụng (cơ sở hạ tầng của tín dụng VN chưa đáp ứng được các quy chuẩn tiên tiến để tham gia các phương thức hoạt động tín dụng bậc cao), vì vậy, xét trên khía cạnh bù đắp cho thâm hụt CA, luồng vốn ngắn hạn chảy vào Việt Nam dựa trên các nguồn: Tín dụng thương mại quốc tế Là hoạt động tài trợ ngoại thương giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Công cụ của tín dụng thương mại như hối phiếu, kỳ phiếu… Tín dụng của doanh nghiệp xuất khẩu đối với doanh nghiệp nhập khẩu. Ví dụ: một nhập khẩu giày Việt Nam nhận lô giày trị giá 3.000 USD từ một nhà xuất khẩu Trung Quốc với thời hạn thanh toán trong 60 ngày. Sau 60 ngày, hóa đơn mới đến hạn. Tức là, nhà cung ứng đã cấp vốn cho phần hàng đó mà không tính phí, đối với nhà nhập khẩu thì đây là một vụ thỏa thuận tốt hơn là dùng hạn mức tín dụng ngân hàng hay một hình thức khác phải trả lãi suất. Tín dụng của doanh nghiệp nhập khẩu đối với doanh nghiệp xuất khẩu: ứng trước tiền hàng. Tiền gửi Triệu USD 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009* Tiền gửi ròng -787 -2,088 -1,197 624 1,372 35 -634 -1,535 2,623 1,700 1,100 Tiền gửi trong tài khoản vốn biến động thất thường, đây không phải là nguồn bù đắp thường xuyên chủ yếu cho thâm hụt cán cân vãng lai. Dựa vào số liệu trên, có thể thấy lượng tiền gửi của nước ngoài ở Việt Nam âm trong các năm từ 1999 đến 2001, 2005-2006, trong khi dương trong các năm 2002-2004 và đặc biệt năm 2007 và quý 1 năm 2008 tăng mạnh. Cụ thể, năm 2007 là 2,623 tỷ USD (chiếm 3,7% GDP) và quý 1/2008 là 3,302 tỷ USD (chiếm tới 17,9% GDP). Trong năm 2008, chúng ta chứng kiến sự suy giảm dòng tiền gửi từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, trong năm 2008, lượng tiền gửi từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển giảm từ mức 2% của năm 2007 xuống mức 1,8% GDP của cac nước đang phát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó, ước tính lượng tiền gửi trong năm 2008 cũng chỉ vào khoảng 1,8% GDP (bằng một nửa tỷ lệ năm 2007), tương đương 1,57 tỷ USD. Dự báo cả năm 2009, lượng tiền gửi vào Việt Nam đạt khoảng 1,1 tỷ USD. d. Chuyển giao vốn một chiều - Các khoản viện trợ không hoàn lại cho mục đích đầu tư - Các khoản nợ được xóa (Một vài VD tiêu biểu) Tháng 12/2000, theo thỏa thuận được ký kết, Bỉ sẽ thực hiện xóa nợ cho Việt Nam khoảng 21,8 triệu USD, tương đương với 75% tổng số dư nợ. Phần nợ 25% còn lại, tương đương 7,28 triệu USD sẽ được chuyển đổi thành viện trợ để Việt Nam lập một quỹ đối ứng, sử dụng cho các dự án được Vương quốc Bỉ viện trợ trong khuôn khổ chương trình hợp tác phát triển giữa hai nước giai đoạn 2001-2003. Các lĩnh vực mà Chính phủ Bỉ ưu tiên viện trợ theo chương trình hợp tác song phương là xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ nông nghiệp và phát triển nông thôn, cải cách hành chình, y tế và giáo dục. Năm 2002, Chính phủ Italia đã xóa nợ cho Việt Nam 40 tỷ Lia (khoảng trên 20 triệu EURO) trong tổng số 54 tỷ Lia nợ của các dự án thuộc giai đoạn 90-92 và ký thêm 6 dự án mới trị giá 17 triệu Euro (trong đó 3,5 triệu cho không và 13,5 triệu vay ưu đãi, lãi suất từ 0,25% đến 0,5%/năm, thời hạn trả 35 năm, ân hạn 15 năm). 1.3. OFB Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hôm 29/7 tuyên bố, đến trước năm 2014 sẽ cung cấp cho các nước nghèo khoản vay lên đến 17 tỷ USD, nhằm trợ giúp những nước này ứng phó với bão tố tài chính. IMF nới lỏng việc cho vay TT - Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra những cải cách lớn trong cách thức và thủ tục cho vay với 185 nước thành viên. Đây được coi là một phần trọng tâm trong nhiệm vụ của tổ chức này giúp bình ổn tài chính toàn cầu. Trong một động thái mà AFP đánh giá là “đột phá”, IMF đã công bố chương trình Hạn mức tín dụng linh hoạt (FCL) không bao gồm điều kiện, không giới hạn số tiền được vay và có thể được vay bất cứ lúc nào, được dùng để đối phó khủng hoảng hay như “một phương tiện ngăn ngừa” khủng hoảng. FCL sẽ thay thế chương trình Công cụ thanh khoản ngắn hạn (SLF) cũ. Theo những điều khoản của FCL, thời gian trả nợ vay được nới rộng từ ba tháng tới năm năm, thay vì tối đa là chín tháng như SLF. Ngoài việc tác động vào K và OFB để cải thiện CA, chúng ta có thể để cho CA tự cải thiện bằng cách phá giá nội tệ Phá giá nội tệ để CA tự cải thiện. Chúng ta biết cán cân vãng lai bao gồm: cán cân thương mại, cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập và cán cân chuyển giao vãng lai một chiều. Song, Yếu tố tỉ giá thay đổi khi phá giá nội tệ hầu như ko ảnh hưởng cán cân thu nhập và cán cân chuyển giao vãng lai một chiều, do đó khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố tỷ giá lên cán cân vãng lai, chúng ta coi cán cân thương mại và cán cân dịch vụ chính là cán cân vãng lai. Xem xét vấn đề này theo 2 phương pháp tiếp cận: Phương pháp tiếp cận hệ số co giãn Phương pháp tiếp cận chi tiêu. Phương pháp tiếp cận hệ số co giãn – Điều kiện Marshall Lerner Giả định: cung hàng hóa xuất khẩu có hệ số co giãn hoàn hảo cầu hàng hóa nhập khẩu cũng có hệ số co giãn hoàn hảo. Cán cân vãng lai chỉ bao gồm cán cân thương mại và cán cân dịch vụ. Tỉ giá được yết theo phương pháp trực tiếp. Phá giá làm cho tỉ giá danh nghĩa tăng nên làm tỉ giá thực tăng, từ đó cải thiện được sức cạnh tranh thương mại quốc tế, nghĩa là kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm nhưng chưa chắc làm cán cân vãng lai cải thiện do trong cán cân vãng lai ta quan tâm đến giá trị xuát nhập khẩu chứ không phải là khối lượng. Phương pháp tiếp cận hệ số co giãn sẽ giúp chúng ta xem xét được trong điều kiện như thế nào thì cán cân vãng lai được cải thiện khi phá giá tiền tệ. Nội dung của phương pháp này là phân tích hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân vãng lai khi phá giá tiền tệ là: nhân tố là cải thiện cán cân vãng lai và nhân tố làm xấu đi cán cân vãng lai. 2.1.1. Hệ số co giãn nhập khẩu và xuất khẩu Cán cân vãng lai tính bằng nội tệ: CAVND = P.XQ – E.P* .MQ (1) P : giá của hàng hóa trong nước tính bằng nội tệ XQ: khối lượng xuất khẩu E: tỉ giá MQ: khối lượng nhập khẩu. Với X: giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ (PXQ) M: giá trị nhập khẩu tính bằng ngoại tệ (P*MQ) Ta có thể viết lại: CA = X – E.M (2) Đạo hàm hai vế có: dCA = dX – E.dM – M.dE (3) Chia 2 vế cho sự thay đổi tỉ giá dE có: (4) Hệ số co dãn xuất khẩu: Ta có: là hệ số co dãn xuất khẩu ® dX = (5) Hệ số co dãn nhập khẩu: là hệ số co dãn nhập khẩu ® (6) Thay (5) và (6) và (4) ta được: ® (7) Giả sử trạng thái ban đầu của cán cân vãng lai là cân bằng: X – E.M = 0 hay X/EM = 1 (7) được viết lại là: (8) Phương trình (8) là điều kiện Marshall-Lerner. Điều kiện này được phát biểu như sau: Nếu trạng thái xuất phát của cán cân vãng lai là cân bằng thì khi phá giá nội tệ sẽ dẫn đến: Cải thiện được cán cân vãng lai, tức là dCA/dE >0 chỉ khi tổng hệ số co dãn nhập khẩu và hệ số co dãn xuất khẩu lớn hơn 1, nghĩa là: >1 Thâm hụt cán cân vãng lai, tức dCA/dE <0 khi <1 Ví dụ minh họa cho điều kiện Marshall – Lerner : Giả thiết : Việt Nam và Mỹ quan hệ ngoại thương với nhau Eo = 15000 ( tỷ giá trước khi phá giá tiền tệ) E1= 18000 ( tỷ giá sau khi phá giá tiền tệ) Pxk = 2000 VND = const Pnk = 2 USD = const Xét sự thay đổi của CA trước và sau khi phá giá. Trước khi phá giá : Eo = 15000, CA=0 Tiêu chí Số lượng Giá CA- VND CA- USD Xuất khẩu VN 150 2000 VND 300000 VND 20 USD Nhập khẩu VN 10 2 USD 300000 VND 20 USD CA 0 0 Khả năng 1: Phá giá VND, từ Eo = 15000 đến E1= 18000, làm cho CA<0 Tiêu chí Số lượng Giá CA- VND CA- USD Xuất khẩu VN 160 2000 VND 320000 VND 17,78 USD Nhập khẩu VN 9 2 USD 324000 VND 18 USD CA - 4000 VND - 0,22 USD Hệ số co giãn : = 0.355, = 0,578, +=0,993<1→ CA<0 Khả năng 2: Phá giá VND, từ Eo = 15000 đến E1= 18000, làm cho CA=0 Tiêu chí Số lượng Giá CA- VND CA- USD Xuất khẩu VN 162 2000 VND 324000 VND 18 USD Nhập khẩu VN 9 2 USD 324000 VND 18 USD CA 0VND 0 USD Hệ số co giãn: = 0,422, = 0,578, +=1 → CA= 0 Khả năng 3: Phá giá VND, từ Eo = 15000 đến E1= 18000, làm cho CA>0 Tiêu chí Số lượng Giá CA- VND CA- USD Xuất khẩu VN 180 2000 VND 360000 VND 20 USD Nhập khẩu VN 8 2 USD 288000 VND 16 USD CA +72000 VND + 4 USD Hệ số co giãn: = 1, = 1,222, +>1 → CA> 0 Các hệ số co giãn trong bảng trên được tính dựa vào CTTQ sau: Trong đó: Vo : biến số trước khi xảy ra thay đổi V1 : biến số sau khi xảy ra thay đổi  : hệ số thay đổi của biến số Từ đây , ta hình thành được công thức tính hệ số nhập khẩu và xuất khẩu như sau : Công thức tính hệ số co giãn xuất khẩu : = Trong đó : E0 : mức tỉ giá trước khi phá giá tiền tệ E1 : mức tỉ giá sau khi phá giá tiền tệ X0 : giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ trước khi phá giá X1 : giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ sau khi phá giá Công thức tính hệ số co giãn nhập khẩu Trong đó : E0 : mức tỉ giá trước khi phá giá tiền tệ E1 : mức tỉ giá sau khi phá giá tiền tệ M0 : giá trị nhập khẩu tính bằng ngoại tệ trước khi phá giá M1 : giá trị nhập khẩu tính bằng ngoại tệ sau khi phá giá Áp dụng công thức (1.1) và (1.2) vào số liệu bảng trên ta tính hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu, và tổng của chúng với mỗi khả năng như sau : Khả năng 1 : E0= 15000, E1= 18000, X0= 300000, X1= 320000, M0=20, M1= 18. Thay số liệu vào (1.1) và (1.2) ta có: = += 0,355 + 0,578 = 0,933 < 1 Khả năng 2 : E0= 15000, E1= 18000, X0= 300000, X1= 324000, M0=20, M1= 18. Thay số liệu vào (1.1) và (1.2) ta có: =0,422 += 0,422+ 0,578 = 1 Khả năng 3: E0= 15000, E1= 18000, X0= 300000, X1= 360000, M0=20, M1= 16. =1 += 1+1.222 = 2,222> 1 Kết luận: Từ ví dụ trên ta thấy sau khi phá giá tiền tệ, CA có thể tồn tại ở cả 3 trạng thái lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng 0. 2.1.2. Hiệu ứng giá cả và hiệu ứng khối lượng Ta cần phải xem xét 2 yếu tố tác động trực tiếp đến giá trị xuất nhập khẩu chứ ko chỉ xem xét riêng về mặt khối lượng hàng hóa xnk. a,Hiệu ứng giá cả Để hiểu rõ hơn về bản chất của hiệu ứng giá cả, ta phân tích cán cân vãng lai tính bằng VND và $ như sau: Cán cân vãng lai tính bằng VND CAVND = P.XQ – E.P* .MQ Khi phá giá, E tăng do đó E.P* tăng, hay giá cả hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng. Theo phương trình trên, CAVND giảm. Cán cân vãng lai tính bằng $: CAUSD = P/E. XQ – P*.MQ Khi phá giá đồng nghĩa với E tăng, làm cho P/E giảm tức giá cả hàng xuất khẩu bằng ngoại tệ giảm, thay vào phương trình ta có CAUSD giảm. Ví dụ: Nghiên cứu tiếp ví dụ của phương pháp tiếp cận hệ số co dãn nhằm làm rõ sự thay đổi của giá cả XK bằng ngoại tệ và giá cả NK bằng nội tệ như sau: Tỷ giá ban đầu E0 = 15.000 VND/USD Giá của 1 đv hàng XK P =2.000 VND Giá của 1 đv hàng NK P* = 2 USD Tỷ giá sau khi phá giá E1 = 18.000 VND/USD Ta có: Trước khi phá giá, mỗi đơn vị XK thu được 2000/15000 USD Sau khi phá giá, chỉ còn 2000/18000 USD. à XK trở nên rẻ hơn Trước khi phá giá, mỗi đv NK có giá 2.15000 = 30.000 VND Sau khi phá giá, mỗi đv NK có giá 2.18000 = 36.000 VND. à NK trở nên đắt hơn Như vậy, hiệu ứng giá cả (việc xuất rẻ, nhập đắt ) làm cho cán cân vãng lai xấu đi. b,Hiệu ứng khối lượng Để hiểu rõ bản chất hiệu ứng khối lượng, phân tích cán cân vãng lai tính bằng VND và USD như sau: Cán cân vãng lai tính bằng VND: CAVND = P.XQ – E.P* .MQ Phá giá tức là E tăng làm giá cả hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng mà giá hàng hóa trong nước tính bằng nội tệ không đổi theo giả thiết. Từ đó sẽ hạn chế nhập khẩu. Khối lượng nhập khẩu giảm, tức MQ giảm. Cán cân vãng lai tính bằng USD: CAUSD = P/E. XQ – P*.MQ Phá giá làm cho giá cả hàng hóa xuất khẩu tính bằng nội tệ giảm với điều kiện giá cả hàng hóa nước ngoài tính bằng ngoại tệ không đổi sẽ kích thích xuất khẩu. Khối lượng xuất khẩu tăng, tức là XQ tăng. Phá giá làm MQ giảm và XQ tăng làm cho CA tăng. Như vậy hiệu ứng khối lượng là nhân tố làm cho CA cải thiện sau khi phá giá tiền tệ. c,Hiệu ứng ròng lên CA Hiệu ứng ròng của CA phụ thuộc vào tính trội của hiệu ứng khối lượng hay hiệu ứng giá cả. Có 3 khả năng có thể xảy ra: Hiệu ứng giá cả trội hơn thì CA xấu đi do khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm không bù đắp cho giảm giá trị xuất khẩu tính bằng ngoại tệ và tăng giá trị nhập khẩu tính bằng nội tệ: < 1 Trung hòa hai hiệu ứng thì ko làm thay đổi CA : Khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm vừa đủ để bù đắp cho giảm giá trị của xuất khẩu tính bằng ngoại tệ và tăng giá trị nhập khẩu tính bằng nội tệ: = 1 Hiệu ứng khối lượng trội hơn CA đc cải thiện do khối lượng hàng xuất khẩu tăng và lượng nhập khẩu giảm thừa để bù đắp cho hiệu ứng giá cả: >1 Khi phá giá nội tệ đề mong muốn cải thiện được CA cho nên để phá giá thành công thì phải đáp ứng điều kiện Marshall-lerner là >1. Trong ngắn hạn, khối lượng nhập khẩu và xuất khẩu không nhiều thay đổi ( không co giãn) nên hiệu ứng giá cả trọi hơn so với hiệu ứng khối lượng nên CA bị xấu đi trong ngắn hạn sau khi phá giá. Sau một thời gian nhất định ( từ 6 tháng trở đi) khối lượng xuất khẩu bắt đầu tăng và khối lượng nhập khẩu bắt đầu giảm, hiệu ứng khối lượng dần dần trội hơn so với hiệu ứng giá cả vì thế CA được cải thiện dần. Nguyên nhân khối lượng xuất khẩu và nhập khẩu không co dãn trong ngắn hạn mà cô dãn trong dài hạn là: Phản ứng của người sản xuất diễn ra chậm: Tuy phá giá tiền tệ tạo điều kiện cạnh tranh cho xuất khẩu nhưng nhà sản xuất cần phải có thời gian để mở rộng sản xuất hàng xuất khẩu. Các hợp đồng nhập khẩu đã kí từ trước không dễ để hủy bo trong ngắn hạn. Phản ứng của người tiêu dung diễn ra chậm: bởi vì họ cần thời gian để thay đổi thói quen tiêu dùng. Cả người tiêu dùng trong và ngoài nước đều cần thời gian vì họ lo lắng về các vấn đề: c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác nguồn tài trợ cho cán cân vãng lai - bài thảo luận tài chính quốc tế.doc
Tài liệu liên quan