Tiểu luận Công nghệ trong ngành nông nghiệp Việt Nam

Gia nhập WTO đem lại nhiều cơ hội cho Việt Nam. Trước hết chúng ta có nhiều thuận lợi hơn cho việc tiếp cận thị trường nông sản thế giới (có kim ngạch tới 548 tỷ USD/năm) do hưởng lợi từ mức thuế suất thấp, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ, thị trường xuất khẩu sẽ ngày càng được ổn định. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đem lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến nông sản, từ đó mà nâng cao được năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Tiếp cận thị trường nhiều hơn , ta dễ dàng nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thế giới. Chúng ta có thể dự báo được thị trường cho hàng xuất khẩu dài hạn trong tương lai, góp phần tạo thuận lợi cho việc hoạch định các chính sách về đầu tư và phát triển sản xuất công - nông nghiệp trong đó bao gồm chính sách về công nghệ. Nông dân sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế xuất khẩu, khi nào mặt hàng nào có thuế bằng 0% để định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về chất lượng và giá cả.

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4490 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Công nghệ trong ngành nông nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chè Thái Nguyên, Suối Giàng, trái cây, rau trồng theo kỹ thuật công nghệ cao, chăn nuôi lợn thịt hướng nạc... bước đầu có bước chuyển biến tích cực nên sản phẩm xuất khẩu năm qua đã tăng khá nhanh so với khi chưa vào WTO. Nhờ đó, các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu tăng chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giá cả thấp hơn để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. III/ Hiện trạng phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam Nông nghiệp công nghệ cao đã đạt được khá nhiều thành tựu trong năm vừa qua nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật nước ngoài sao cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Ở nước ta, các cơ quan nghiên cứu đã hoàn thiện nhiều quy trình, tiến bộ kỹ thuật, công nhận hàng chục giống rau, hoa mới, thích hợp cho vụ sớm và trái vụ. Các nghiên cứu về giá thể sản xuất rau, hoa giống theo quy mô công nghiệp không dùng đất, sử dụng bạt che phủ đất và tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa cũng đã được thử nghiệm bước đầu cho kết quả tốt. Ngoài ra còn nhiều nghiên cứu khác thuộc lĩnh vực giống, bảo vệ thực vật, phân bón, thuỷ lợi, chăn nuôi bước đầu đã có những kết quả ứng dụng trong sản xuất. Nhiều công nghệ cao (công nghệ sinh học, vật liệu mới…) đã được các doanh nghiệp ứng dụng trong sản xuất. Một số khu Nông nghiệp công nghệ cao của Nhà nước, của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã hình thành và phát triển. Khu Nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội và Hải Phòng, do chúng ta nhập khẩu “trọn gói” từ nhà màng, thiết bị bên trong cho đến kỹ thuật canh tác. Việc đánh giá hiệu quả toàn diện các mô hình này cần sớm được tiến hành cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên, có một số vấn đề mà chúng ta cần cân nhắc: Việc nhập trọn gói như vậy sẽ rất đắt và phụ thuộc; các khu Nông nghiệp công nghệ cao này đều thiếu cán bộ có trình độ giỏi về công nghệ. Qua việc xây dựng và vận hành khu Nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội và Hải Phòng có thể rút ra một số bài học: Khi xây dựng cần hết sức quan tâm tới điều kiện tự nhiên như đất đai, mực nước ngầm, nguồn nước tưới, giao thông; lưu ý trong khi quản lý và khai thác mô hình. Thực tế cho thấy có rất nhiều vấn đề chúng ta phải nghiên cứu cho quy trình canh tác trong nhà lưới, nhà màn (quản lý và xử lý giá thể, quản lý và xử lý dịch hại, quản lý và điều tiết tưới tiêu, làm mát, kể cả việc quản lý về dinh dưỡng...). Vì hai khu Nông nghiệp công nghệ cao trên là nhập trọn gói các quy trình kỹ thuật, trang thiết bị máy móc... nên khi đưa vào điều kiện Việt Nam còn nhiều bất cập (mưa, nắng, bão, mùa vụ, tập quán tiêu thụ, dịch bệnh phát sinh, bảo dưỡng, duy tu các trang thiết bị...). Trong lĩnh vực chăn nuôi, tại thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Bò sữa đã đầu tư chuồng trại khá hoàn chỉnh, có hệ thống phun sương, chuồng ép có khả năng tự động 50% để gieo tinh nhân tạo, khám thai, điều trị phẫu thuật; xây dựng đồng cỏ thâm canh 300 ha, 4 hố ủ chua có sức chứa 3.000 tấn thành phẩm, khu vắt sữa gồm 6 máy (công suất 15 con /máy). Xu hướng nâng quy mô chăn nuôi lên thành trang trại tập trung và ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi bò sữa là một hình thức chuyển dịch cơ cấu và chuyển dịch cấu trúc trong bản thân ngành chăn nuôi đang được hình thành và phát triển tại thành phố. IV/ Một số điểm mạnh và điểm yếu của nông nghiệp Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực công nghệ Một số ưu điểm nổi bật : Các vùng sản xuất nông sản hàng hoá quy mô lớn, chuyên canh và thâm canh cao như lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, cây ăn trái ở đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ; cây cà phê và cao su ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, cây chè ở miền núi phía Bắc, thuỷ sản ở Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã có bước chuyển đổi quy trình sản xuất theo hướng không chạy theo năng suất, số lượng mà quan tâm hơn đến chất lượng, độ sạch và chi phí sản xuất để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Chính các vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung đó đã cung cấp nông sản hàng hoá và xuất khẩu cho cả nước và là dấu hiệu của nền nông nghiệp hàng hoá lớn đã và đang hình thành. Sau một năm vào WTO, nhận thức của các ngành, các cấp về nông nghiệp đã có bước chuyển tích cực theo hướng quan tâm nhiều hơn, đầu tư tập trung hơn cho các khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản để tăng hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân. Hàng loạt cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp đã được ban hành hỗ trợ nông nghiệp phù hợp với cam kết WTO. Đó là chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong mức hạn điền, bỏ thuỷ lợi phí, giảm các khoản đóng góp cho nông dân, khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến nông sản, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ sau thu hoạch, nông nghiệp công nghệ cao vùng ven thành phố lớn. Theo cam kết WTO, mức và đối tượng đầu tư cho nông nghiệp được điều chỉnh tập trung vào những lĩnh vực mà WTO khuyến khích như mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, đào tạo nghề cho nông dân, công nghệ sau thu hoạch.. Nông nghiệp Việt Nam đã mang dáng dấp của một nền sản xuất hàng hoá có những nét hiện đại, đáp ứng tương đối đầy đủ các yêu cầu của thị trường. Mặc dù từ tháng 11 năm 2006 đến nay, thiên tai, bão lũ lớn xảy ra liên tiếp trên phạm vi cả nước, sâu bệnh, dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng gia súc, lợn tai xanh... tàn phá nặng nề, gây hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản; giá cả phân bón vật tư nông nghiệp tăng cao, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, tốc độ tăng trưởng khá cao. Theo Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng khu vực này năm 2007 vẫn đạt 4,3%, trong đó nông nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp tăng 1,1% và thuỷ sản tăng 9,8%, cao hơn năm 2006. Sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong nước 1 năm qua vẫn đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia trong mọi tình huống. Nông sản hàng hoá vẫn đáp ứng đầy đủ nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như mía đường, rau quả, lúa gạo, chè. Các hợp đồng xuất khẩu đã ký kết với khách hàng được thực hiện từ đầu năm theo đúng cam kết WTO. C ó được điều đó là do khoa học kỹ thuật ở Việt Nam hiện đã đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu của nền nông nghiệp hàng hoá gắn với xuất khẩu. Công nghệ sinh học, tưới tiêu, làm đất, phân bón, bảo quản, sau thu hoạch... ngày càng tiến bộ và đã góp phần tích cực vào thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi theo yêu cầu thị trường. Cùng với những mặt ưu điểm, nông nghiệp Việt Nam còn những mặt hạn chế: Sau 1 năm vào WTO, vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Tính chung 10 tháng đầu năm 2007, cả nước mới thu hút được 1,66 tỉ USD đầu tư vào khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản, chiếm 1,47% tổng vốn FDI,tăng không đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Điều đó cho thấy tác động của WTO vào thu hút vốn FDI ở khu vực này chưa có gì khởi sắc. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có công nghệ hiện đại vẫn chưa được các nhà đầu tư quan tâm. Nhiều lợi thế chưa được khai thác hợp lý. Lợi thế của nông nghiệp Việt Nam là chi phí lao động thấp so với các nước khác trong khu vực. Lợi thế này nếu được phát huy sẽ là yếu tố giảm giá thành nông sản, tăng sức cạnh tranh trên thị trường sau khi gia nhập WTO. Bên cạnh chi phí vật chất, chi phí lao động sống lại rất thấp do giá trị ngày công trong nông thôn không cao, thu nhập của lao đông nông nghiệp nói chung thấp. Tiềm năng đất đai cũng là thế mạnh của nông nghiệp Việt Nam nhưng chưa được khai thác hợp lý. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, lại giảm dần do đô thị hoá và công nghiệp hoá. Sản xuất nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình nông dân cá thể, phổ biến là tự cung tự cấp, rất khó khăn cho cơ giới hoá và thuỷ lợi hoá nên tỷ suất hàng hoá còn thấp. Sản xuất nông nghiệp chưa gắn chặt với chế biến và thị trường tiêu thụ. Chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng nông nghiệp chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng đất đai, nguồn nước, lao động. Sản xuất lúa là ngành chủ lực của nông nghiệp cả nước nhưng sau 1 năm gia nhập WTO vẫn phát triển không đồng đều. Trong khi năng suất, sản lượng và chất lượng lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng tăng khá nhanh thì 6 vùng còn lại đều tăng chậm và giảm trong năm 2007. Cơ cấu giống lúa vẫn còn mang nặng tính truyền thống, chậm chuyển đổi sang sản xuất hàng hoá. Chất lượng lúa gạo tuy có tiến bộ song về cơ bản vẫn còn khoảng cách xa với yêu cầu thị trường. Số lượng và tỷ lệ diện tích gieo cấy các giống lúa gạo chất lượng cao, gạo thơm còn quá ít. Ngay cả gạo thơm Việt Nam sản xuất cũng có nhược điểm là giữ mùi không lâu. Lúa hè thu ở đồng bằng sông Cửu Long có sản lượng lớn lại thu hoạch vào mùa mưa, nhưng tỷ lệ được phơi sấy năm mới chỉ đạt 31% do đó chất lượng không cao. Tỷ lệ thất thoát trong và sau thu hoạch còn lớn 10-13%. Tình hình sản xuất các nông sản khác cũng tương tự. Đa số các khu Nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) vẫn phải sử dụng các hạt giống của những công ty bán và chuyển giao công nghệ. Các giống trong nước chưa có kết quả tốt, chưa xác định được bộ giống phù hợp để chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm có chất lượng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm có giá bán không cao, do vậy chưa khuyến khích được sản xuất phát triển. Đầu tư cơ sở vật chất (nhà kính, nhà lưới, giàn che...) giá thành cao nên nhiều doanh nghiệp khó chấp nhận. Nhiều thiết bị, công nghệ nhập tỏ ra chưa phù hợp với điều kiện ở nước ta. Điều kiện cách ly chưa tuyệt đối đã ảnh hưởng rất lớn tới năng suất cây trồng. Tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức để phục vụ sản xuất, việc sử dụng các kỹ thuật khai thác gây phá huỷ tự nhiên vẫn diễn ra thường xuyên chưa được kiểm soát ,đe doạ sự đa dạng sinh học và các nguồn gen quý. Các giống cây và con ngoại lai trước khi nhập về chưa được xem xét nghiên cứu kỹ, gây ra thiệt hại cho các giống địa phương như ốc bươu vàng, bèo Nam Mỹ… Chưa xác định được định mức kinh tế - kỹ thuật cho từng loại cây trồng trong từng thời vụ cụ thể. Sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa có vùng chuyên canh sản xuất cung cấp khối lượng nông sản lớn, khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn thấp. Giá thành sản xuất tăng, dịch bệnh diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của người chăn nuôi. Đặc biệt trong đợt rét đậm rét hại lịch sử tại miền Bắc đầu năm 2008 vừa qua, do sự chủ quan của người nông dân và sự thiếu chính xác, cụ thể của công tác dự báo thời tiết mà tính đến ngày 18/2/2008 đã có hơn 52000 con gia súc bị chết, 146.150 ha lúa, 9.500 ha mạ bị hỏng hoàn toàn vì rét, thiệt hại lên tới 400 tỷ đồng. Nếu trước đó người dân mua bảo hiểm cho gia súc thì ngân sách Nhà nước đã không phải hỗ trợ nhiều, nhưng việc này còn rất xa lạ với ng ười nông dân và chưa có mô hình bảo hiểm nào như vậy tiêu biểu trong thời gian qua. Một số nguyên nhân của những bất cập trong sản xuất nông nghiệp sau 1 năm Việt Nam gia nhập WTO là: - Quy hoạch sản xuất không xuất phát từ điều tra thị trường nên chưa có vùng chuyên canh, thâm canh phù hợp với yêu cầu sản xuất nông sản hàng hoá lớn. Việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn nặng tính tự phát và chưa có sự ràng buộc giữa người sản xuất với người tiêu thụ. - Sản xuất quá manh mún, quy mô quá nhỏ theo hộ gia đình nên rất khó khăn cho áp dụng tiến bộ kỹ thuật thâm canh, thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản. - Sự bất cập giữa sản xuất tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng không tăng, không gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm - Chưa xây dựng được hệ thống dự báo thị trường, hệ thống tiêu chuẩn chất lượng hiện tại không phù hợp với các thị trường xuất khẩu chủ yếu. Việc sản xuất chủ yếu vẫn là tự phát, thiếu sự phối hợp với cơ quan dự báo thời tiết, không quan tâm đến nhu cầu thị trường…. V/ Cơ hội và thách thức Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực: Cơ hội. Gia nhập WTO đem lại nhiều cơ hội cho Việt Nam. Trước hết chúng ta có nhiều thuận lợi hơn cho việc tiếp cận thị trường nông sản thế giới (có kim ngạch tới 548 tỷ USD/năm) do hưởng lợi từ mức thuế suất thấp, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ, thị trường xuất khẩu sẽ ngày càng được ổn định. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đem lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến nông sản, từ đó mà nâng cao được năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Tiếp cận thị trường nhiều hơn , ta dễ dàng nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thế giới. Chúng ta có thể dự báo được thị trường cho hàng xuất khẩu dài hạn trong tương lai, góp phần tạo thuận lợi cho việc hoạch định các chính sách về đầu tư và phát triển sản xuất công - nông nghiệp trong đó bao gồm chính sách về công nghệ. Nông dân sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế xuất khẩu, khi nào mặt hàng nào có thuế bằng 0% để định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về chất lượng và giá cả. Thêm vào đó người nông dân nước ta cũng sẽ được lợi từ việc chuyển đổi các bí quyết công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng, đem vào công nghệ mới của các tập đoàn đa quốc gia, tiên tiến để thúc đẩy ngành chế biến nông sản, nhờ đó giúp mở mang những vùng đất hoang hóa, sản xuất những sản phẩm nông nghiệp độc đáo mà những công ty này đang có thị trường, đưa hàng nông sản Việt Nam ra thị trường thế giới nhiều hơn. Nông dân nghèo canh tác ở các vùng khó khăn sẽ có cơ may phát triển nhờ có những giống mới do các công ty quốc tế áp dụng công nghệ sinh học tạo ra, hoặc tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn máy móc vật tư phân bón phong phú, rẻ và chất lượng của thế giới phục vụ cho sản xuất. Mặc dù chúng ta ph ải cắt giảm trợ cấp nông sản xuất khẩu, nhưng một số loại trợ cấp vẫn được bảo lưu. Trừ việc trợ cấp cho xuất khẩu hàng nông sản gạo, cafe, hạt tiêu... chúng ta lại có quyền hỗ trợ n ông dân ở mức lớn. Mức hỗ trợ nông nghiệp có thể lên đến 10% giá trị nông sản là maximum. Ví dụ, hàng nông sản mỗi năm làm ra 12 tỷ đô la. Thì chúng ta sẽ có một khoản tiền tương đương với 1,2 tỷ đô la để hỗ trợ cho nông nghiệp. Ngoài ra còn có quyền dành ngân sách 4.000 tỷ đồng để hỗ trợ hàng năm. Như vậy là có khoảng 20,000 tỷ đồng để hỗ trợ nông dân mỗi năm. Bao gồm: hỗ trợ giống, vốn, chính sách khuyến nông, vận tải, xây dựng các mô hình phát triển nông nghiệp. Việc nhà nước phát triển hạ tầng nông thôn thì nhà nước vẫn không hề cấm, WTO không hạn chế m à còn tranh thủ được sự hỗ trợ của các định chế tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc Tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)... Thách thức. 1. Cạnh tranh khốc liệt trong và ngoài nước, đòi hỏi về an toàn và chất lượng ngày càng tăng Một khi gia nhập WTO, thị trường Việt Nam sẽ phải mở cửa cho hàng nông nghiệp nước ngoài ồ ạt tràn vào. Vì có sự lựa chọn, cộng với kiến thức của người tiêu thụ ngày càng cao, thị trường - đặc biệt thị trường xuất khẩu - sẽ đòi hỏi những tiêu chuẩn mới vừa cao về vệ sinh thực phẩm và chất lượng, vừa nghiêm khắc về chế độ nuôi trồng và tính bền vững trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Sự cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt, trong khi đó người nông dân hiện nay khi sản xuất không quan tâm đến việc đáp ứng những tiêu chuẩn của thị trường mà hoàn toàn sản xuất theo hướng tự phát vì cái lợi trước mắt, dẫn đến tình trạng hàng nông sản xuất khẩu bị gửi trả lại như thị trường Nhật Bản với sản phẩm tôm đông lạnh. Một ví dụ chúng ta có thể học tập là tại châu úc, Bộ Nông nghiệp New South Wales đã hợp tác với thị trường (siêu thị, chợ đầu mối), nhà sản xuất (nông gia) và giới tiêu thụ để soạn thảo những hệ thống ‘bảo đảm chất lượng’ (Quality Assurance) đáp ứng yêu cầu cho cả ‘ba nhà’. Các hệ thống này đã soạn ra qui trình sản xuất nông nghiệp tốt GAP (Good Agriculture Practice) hoặc qui trình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao (Best Practice) áp dụng hiệu quả vào các ngành sản xuất như ‘Freshcare’ cho rau quả, ‘GrainCare’ cho ngũ cốc, ’Cattlecare’ cho thú nuôi và ‘FlockCare’ cho thịt tươi. Nhờ hệ thống ‘bảo đảm chất lượng’ này mà nhiều nước trên thế giới đã công nhận nông sản Úc là ‘An toàn và Tươi ngon’ (Clean & Green). Với tổng sản lượng lương thực chỉ khoảng 25 tỷ USD/năm, Úc đã đạt một kim ngạch xuất khẩu thần kỳ, đến 70-80%, đem về cho đất nước một ngoại tệ lên đến 18-20 tỷ USD/năm 2. Nguy cơ lạc hậu về công nghệ: Việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp đang diễn ra rầm rộ, đem lợi ích thực sự đến cho nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền KHKT cao. Sự phát triển này đồng thời lại đẩy một số nước khác - đa số là các nước nghèo đói Á Phi - vào cảnh lạc hậu. Việt Nam phải mau chóng kiểm tra và ứng dụng các kỹ thuật nông nghiệp công nghệ cao để tăng nội lực cho nông nghiệp nước nhà, đồng thời quảng cáo cho khâu tiếp thị khi xuất khẩu. 3. Tăng khả năng lây lan dịch bệnh do hàng hoá nông sản luân lưu ồ ạt khắp nơi. Nếu không có chế độ kiểm dịch nghiêm khắc, đặc biệt chú ý khâu kiểm dịch ở phi trường (Việt Nam có đến gần 3,5 triệu du khách vào năm 2005, Thời báo Kinh tế Việt Nam), dịch bệnh sẽ lây lan rất nhanh, trở thành một quốc nạn, ảnh hưởng trầm trọng đến nền kinh tế quốc dân. Thực tế cho thấy dịch bệnh thường xảy ra ở các nước nghèo vì đã không có một hệ thống kiểm dịch hiệu quả, làm cho việc xuất khẩu nông sản càng thêm khó khăn. Nhìn lại tình trạng kiểm dịch trong điều kiện cúm gia cầm H5N1 hiện nay của VIệt Nam thì thấy đây quả là một thách thức lớn 4. Một số thách thức trong việc phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao: - Nguồn nhân lực chưa được đào tạo cơ bản, chưa có tác phong làm việc trong môi trường công nghiệp. - Các giống trong nước chưa có kết quả tốt, chưa xác định được bộ giống phù hợp để chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. - Việc phát triển kinh tế tập thể còn chậm, chưa có những tổ chức hợp tác nông dân lớn nên việc đầu tư ứng dụng công nghệ cao, công nghệ chế biến bảo quản nông sản còn hạn chế. Giá thành cao, sản xuất manh mún là yếu tố khiến ngành nông nghiệp không thể đáp ứng những đơn đặt hàng với số lượng lớn. Áp lực đô thị hoá tăng nhanh, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. - Nếu thu hút vào công nghệ cao, thì lao động nông thôn ít cơ hội. Nếu chọn khu vực nhiều lao động, thì công nghệ thấp. Do đó phải lựa chọn hai xu hướng. Hiện, sản lượng và tốc độ tăng trưởng do yếu tố vốn ngày càng tăng. Còn tốc độ tăng trưởng do năng suất lao động càng ngày càng tụt xuống. Phải làm sao để đóng góp của lao động vào tăng trưởng phải cao lên thay vì đóng góp do vốn là bài toán tăng trưởng. - Các giống cây, con mới nhập vào nước ta bán rất đắt, bà con lại không thể tùy tiện nhân giống vì vấn đề bản quyền là những trở ngại lớn của ngành nông nghiệp 5. Cơ chế bảo hộ cho các đối tượng sở hữu công nghệ còn yếu, thể chế bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp chưa tạo đủ lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này liên quan đến hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực CGCN. Hệ thống luật pháp liên quan đến lĩnh vực này đang trong quá trình hoàn thiện cho nên khó có thể nói đến tính chuẩn mực của các qui định pháp luật theo hướng tương thích với các nước trong khu vực và phù hợp với thông lệ quốc tế. 6. Khả năng sinh lợi của hoạt động CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn còn thấp do thị trường nông nghiệp và nông thôn chưa phát triển, tình trạng hàng nông sản được sản xuất ra khó tiêu thụ, bị “rớt giá” vẫn đang có tính chất phổ biến làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Nhà nước chưa có cơ chế điều tiết hoạt động sản xuất và cung ứng hàng nông sản phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nền nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đang chuyển dần từ một nền nông nghiệp và nông thôn tự cấp, tự túc sang nền nông nghiệp và nông thôn sản xuất hàng hóa, đổi mới cơ chế quản lý và từng bước chủ động hội nhập vào khu vực và thế giới nên sẽ gặp phải không ít những khó khăn trong quá trình chuyển đổi. 7. Chưa có chiến lược CGCN vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn hữu hiệu. Các đề xuất vẫn còn mang nặng tính định hướng hoặc các giải pháp đưa ra chưa phát huy tác dụng như mong muốn. Chẳng hạn, các giải pháp để phát triển năng lực nội sinh của công nghệ giống như kinh nghiệm của các nước đi trước chưa được phát huy tác dụng tốt. Công tác dự báo, dự đoán sự phát triển của công nghệ trong nông nghiệp và nông thôn Việt Nam để làm chỗ dựa cho việc hoạch định các chính sách chưa được coi trọng. 8. Phía đối tác nước ngoài không phải lúc nào cũng sẵn sàng chuyển giao cho Việt Nam các loại giống cây con mới hoặc các dây chuyền công nghệ mới trong sản xuất, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản, công tác thủy lợi.... 9. Vấn đề giải phóng mặt bằng, cải tạo đất cho các dự án nông nghiệp, vấn đề tái định cư cho nông dân ở những nơi sử dụng đất ở để triển khai dự án còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Nhận thức của các tầng lớp dân cư vẫn còn rất khác nhau trong việc thu hút vốn FDI và trong việc tiếp nhận công nghệ chuyển giao từ nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp do phần lớn các dự án liên quan đến nông nghiệp và nông thôn thường được đặt ở các vùng nông thôn, dân trí thấp, thu nhập thấp. Thông thường, những người nông dân ở các vùng này quan niệm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc “tiếp tay” cho chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Vì thế, những người dân ở vùng có dự án triển khai không hoàn toàn ủng hộ sự hoạt động của dự án. Tình trạng “phép vua thua lệ làng” vẫn còn đọng lại ở không ít địa phương trong cả nước. Gia nhập WTO là một quá trình tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp với không ít thuận lợi và khó khăn. Đã có nhiều giải pháp, chương trình hỗ trợ cho khu vực nông nghiệp, nông thôn được xây dựng nhưng vấn đề là nhanh chóng hiện thực hóa các chính sách, giải pháp trợ giúp cho người dân, doanh nghiệp để tăng cường năng lực sản xuất, cạnh tranh với sản phẩm nông nghiệp của các nền kinh tế khác. Khi đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông nghiệp sẽ tiếp tục trở thành động lực chính thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Ví dụ sinh động từ Trung Quốc cho thấy, trái ngược với dự báo của các chuyên gia kinh tế về một sự suy sụp trong ngành nông nghiệp nước này khi gia nhập WTO, một số ngành nông sản tăng vọt xuất khẩu, đe doạ cả nông sản Hoa Kỳ. Hiện Trung Quốc đang tiếp tục tăng cường đầu tư mạnh vào nông nghiệp về cơ sở hạ tầng, vốn, kỹ thuật, bãi bỏ thuế và giảm phí nhằm tạo ra một nền kinh tế nông nghiệp có sức cạnh tranh mạnh mẽ trong WTO. VI/ Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn trong thời gian tới: Để tiếp tục đưa nông nghiệp và nông thôn phát triển vững chắc trong quá trình hội nhập, Nghị quyết 09/2000/NQ - CP ngày 15 tháng 6 năm 2000 của Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nhằm mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, đa dạng, có chất lượng, hiệu quả cao và bền vững dựa trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường quốc tế; nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động và nguồn vốn, nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân, thực hiện tốt các nhiệm vụ do Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra. Các mục tiêu cụ thể tới năm 2010 - Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp :4 - 4,5 %/năm - Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn: 7,5 - 8 %/năm - Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng đủ nhu cầu đa dạng của nhân dân về các loại lương thực, thực phẩm, bao gồm cả cho đồng bào ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. - Phát huy lợi thế so sánh đã tạo lập được, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu, tới năm 2010, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt từ 9 - 10 tỷ USD. - Tận dụng khả năng sẵn có, kết hợp áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển các loại cây trồng vật nuôi, ngành nghề thay thế nhập khẩu, nâng cao hợp lý mức độ tự túc, khai thác thị trường trong nước đối với các sản phẩm: bông, thuốc lá, dầu ăn, nguyên liệu giấy, sữa… Kế hoạch phát triển Nông nghiệp công nghệ cao đến 2015 - Tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thủy sản; phát triển mạnh các cây, con chủ lực theo hướng Nông nghiệp công nghệ cao. Đẩy mạnh chương trình giống cây, giống con chất lượng cao, xây dựng và định hình các vùng sản xuất giống, hình thành hệ thống sản xuất giống hợp lý với sự tham gia của các tổ chức và cá nhân thuộc các thành phần kinh tế. Gắn nghiên cứu với ứng dụng và chuyển giao công nghệ, gắn chọn giống, tạo giống, bình tuyển giống với thị trường tiêu thụ, thông qua hình thức kiểm định công nhận giống. Từng bước hình thành trung tâm giống khu vực. - Đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu Nông nghiệp công nghệ cao tại các tỉnh, thành phố có điều kiện. ứng dụng công nghệ cao trong các lĩnh vực trồng trọt như: Canh tác rau bằng kỹ thuật thuỷ canh và màng dinh dưỡng; sản xuất các loại hoa, cây cảnh và cây ăn trái sạch bệnh bằng công nghệ cấy mô, vi ghép… ứng dụng kỹ thuật trồng cây nhiều tầng để tận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông nghệ trong ngành nông nghiệp việt nam.doc
Tài liệu liên quan