Tiểu luận Giải pháp đẩy nhanh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Nội dung 2

I. Những vấn đề về cổ phần hoá (CPH) Doanh nghiệp nhà nước (DNNN). 2

1. Thực chất và vai trò CPH DNNN ở Việt Nam. 2

1.1. Thực chất: 2

1.2. Lý do cổ phần hoá: 2

1.3. Vai trò của cổ phần hoá: 4

2. Các mô hình CPH ở Việt Nam. 5

II. Thực trạng tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam. 6

1. Thành tựu đạt được: 6

1.3. Những kết quả đạt được khác: 8

2. Bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta vẫn còn những hạn chế đó là: 9

3. Kế hoạch CPH trong thời gian tới: 14

III. Giải pháp đẩy nhanh CPH DNNN ở Việt Nam 14

2. Về phía doanh nghiệp: 18

3. Về phía người lao động: 20

Kết luận và kiến nghị 22

Danh mục tài liệu tham khảo 23

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp đẩy nhanh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyển thành công ty cổ phần. Hình thức này được áp dụng cho các doanh nghiệp chưa cần huy động thêm vốn, mà chỉ cơ cấu lại quyền sở hữu về vốn và biện pháp quản lý doanh nghiệp. 2.3. Bán toàn bộ phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, áp dụng cho các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện tuỳ từng hoàn cảnh của mỗi daonh nghiệp mà có thể áp dụng hình thức nào hoặc kết hợp linh hoạt giữa các hình thức trên. Nhưng vấn đề quan trọng là làm sao để người lao động chiếm giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định trong doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hoá, tạo động cơ để họ nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh. Hiện nay ở nước ta đang tiến hành hỗn hợp cả ba mô hình. II. Thực trạng tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam. Tiến trình CPH ở nước ta được tiến hành qua 4 gíai đoạn: tiến hành thí điểm từ năm 1992 – 1996 gắn với NĐ 28/CP kết thúc giai đoạn này chúng ta CPH được 5 DNNN. Giai đoạn hai là giai đoạn mở rộng từ tháng 6/1996 – tháng 6/1998 gắn với NĐ 44/CP kết thúc giai đoạn này chúng ta CPH được 3 DNNN. Giai đoạn 3 là giai đoạn chủ động diễn ra từ tháng 7/1998 – tháng 7/2002 gắn với NĐ 64/CP kết thúc giai đoạn này chúng ta CPH được 784 doanh nghiệp. Giai đoạn 4 là giai đoạn đẩy mạnh diễn ra từ tháng 7/2002 cho đến nay gắn với NĐ 187/CP. Ngày 26/6/2007 CP ban hành NĐ 109/CP để chỉ đạo quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước. Và nội dung chủ yếu của CPH là: thứ nhất là đẩy nhanh tiến độ CPH, mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần phải CPH. Tiến hành CPH các tổng công ty, DNNN quy mô lớn; thứ hai là đối với các doanh nghiệp còn lại thì phải chuyển sang hoạt động công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên( những doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ 100% vốn); thứ ba là cơ cấu lại các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con và xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh; thứ tư là đổi mới và lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, từng bước hiện đại hoá công nghệ và trình độ quản trị trong các doanh nghiệp nhà nước. Qua các giai đoạn và nội dung tiến hành CPH như vậy chúng ta đã: 1. Thành tựu đạt được: 1.1. Khắc phục được cơ bản tình trạng CPH khép kín. Chúng ta đã quy định lượng cổ phần tối thiểu phải đấu giá bán công khai. Việc định giá các doanh nghiệp phải do các cơ quan tổ chức có chức năng định giá tiến hành do các công ty tài chính, các ngân hàng đầu tư trong và ngoài nước từ đó góp phần tăng tính công khai minh bạch trong quá trình kế hoạch hoá cổ phần nhà nước. Khi bán cổ phần ra bên ngoài các doanh nghiệp đã chủ động lựa chọn được các nhà đầu tư chiến lược. Thông qua bán đấu giá các doanh nghiệp đều bán được mệnh giá cao hơn cổ phần. Bộ chính trị cũng đã có chỉ thị 45, trong đó nhấn mạnh đến việc chấm dứt trình trạng CPH khép kín. Bởi vì chỉ khi nào các cổ đông là nhà đầu tư chiến lược tham gia vào doanh nghiệp với tỉ lệ sở hữu cổ phần lớn, cơ cấu hội đồng quản trị, ban điều hành thay đổi thì cung cách, tư duy quản lý mới có thể thay đổi và chuyển biến được. 1.2. Hầu hết các doanh nghiệp sau khi CPH thì hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. kết quả điều tra năm 2005. Trong 850 doanh nghiệp CPH thì cho thấy vốn điều lệ tăng 44%, lợi nhuận tăng 14% và thu nhập của 1 lao động tăng 12% cổ tức bình quân trong các doanh nghiệp mà cổ phần hoá năm 2006 là 17%. Quyền lợi của 1 lao động trong các doanh nghiệp CPH đã được đảm bảo, lao động dôi dư được hương chính sách trợ cấp theo NĐ 41 của CP. Riêng năm 2005, chúng ta có 85500 lao động dôi dư và bình quân mỗi lao động thì hỗ trợ 32triệu đồng. Cán bộ công nhân viên được mua cổ phần ưu đãi với giá giảm 40% so với giá đấu bình quân thành công. Tính đến hết tháng 8/2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó, CPH 3.360 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.830 doanh nghiệp Nhà nước, bằng gần 68% số doanh nghiệp Nhà nước đầu năm 2001. Sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhưng vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách Nhà nước. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp CPH đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp sau CPH hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%. Cùng với việc sắp xếp, CPH doanh nghiệp Nhà nước, từ năm 2001 đến nay, trên địa bàn cả nước đã tiến hành giải thể 5 tổng công ty không giữ được vai trò chi phối, đồng thời hỗ trợ các công ty thành viên sát nhập, hợp nhất 7 tổng công ty; tổ chức lại tổng công ty rượu - bia - nước giải khát thành 2 tổng công ty; thành lập thêm 17 tổng công ty Nhà nước, tổ chức lại 7 tổng công ty thành tập đoàn, đưa 1 tổng công ty 90 vào cơ cấu của tập đoàn. Như vậy, đến hết tháng 9/2006, cả nước đã có 105 tập đoàn và tổng công ty, cụ thể gồm 7 tập đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty thuộc các bộ, ngành, địa phương và 2 tổng công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam.Theo số liệu tổng hợp từ các bộ, địa phương, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước với tổng số vốn Nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295 nông, lâm trường quốc doanh. Năm Số lượng DN Tổng vốn (nghìn tỷ) 2004 2242 17.700 2005 2307 20.000 2006 3360 22.000 Bảng số liệu tổng hợp qua các năm 1.3. Những kết quả đạt được khác:     Trước hết phải nói về nhận thức, để tạo một bước chuyển của tư duy từ kinh tế nhà nước sang kinh tế dân doanh, từ kinh tế đơn thành phần sang kinh tế đa thành phần là cả một quá trình. Mặc dù loại hình kinh tế quốc doanh đã bộc lộ nhiều bất cập như hiệu quả thấp, lãng phí, kém sức cạnh tranh, tuy nhiên không dễ gì chia tay với nó. Tâm lý định kiến với kinh tế ngoài quốc doanh vẫn còn khá nặng, nhưng lộ trình cổ phần hoá đã từng bước làm thay đổi nhận thức.  Thứ hai là, cùng với đường lối của Đảng là sự chỉ đạo của Chính phủ trong việc tiến hành lộ trình cổ phần hóa DNNN theo phương thức vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Trên cơ sở đó xây dựng hành lang pháp lý, đảm bảo lợi ích cho người lao động, doanh nghiệp và Nhà nước, đồng thời tạo động lực cho phát triển. Thứ ba là, tiến trình cổ phần hóa được triển khai từ chỗ làm thí điểm một vài doanh nghiệp rồi nhân rộng ra các ngành, các địa phương trong toàn quốc. Từ chỗ chỉ cổ phần hoá những doanh nghiệp quy mô nhỏ, rồi đến những doanh nghiệp quy mô lớn, đến cả những ngành chủ lực như điện, xi măng, ngân hàng...  Thứ tư là, hình thức cổ phần hóa cũng có sự thay đổi đáng kể: từ chỗ cổ phần hoá khép kín, chia cổ phần cho người lao động, đến chỗ tổ chức đấu giá công khai, minh bạch, chống thất thoát. Thứ năm là, hầu hết các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều làm ăn có hiệu quả, vốn, doanh số, lợi nhuận, thu nhập của người lao động đều tăng. Cổ tức bình quân đạt 17%/năm. 2. Bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta vẫn còn những hạn chế đó là: 2.1. Đối tượng các doanh nghiệp CPH còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu về đẩy mạnh CPH. Hầu hết các doanh nghiệp CPH cho đến nay là các doanh nghiệp địa phương có quy mô nhỏ. Nhiều doanh nghiệp thì vẫn né tránh CPH bằng cách chuyển sang hoạt động mô hình công ty mẹ công ty con hoặc những mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên. 2.2. Quyền sở hữu thực tế trong các doanh nghiệp đã CPH thì được chuyển đổi rất ít cho đến hết năm 2005, tổng số vốn trong các doanh nghiệp đã CPH chỉ chiếm 12% tổng số vốn trong các DNNN. Tuy nhiên trong số các doanh nghiệp đã CPH và nhà nước vẫn nắm giữ 38% vốn cổ phần, 1lao động trong doanh nghiệp nắm 54%, các cổ đông bên ngoài chỉ nắm giữ 8%. cổ phần hoá chưa làm rõ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, người lao động. 2.3. Lộ trình CPH thì diễn ra hết sức chậm chạp đặc biệt khi chúng ta tiến hành CPH các doanh nghiệp quy mô lớn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Bên cạnh một số Bộ, địa phương triển khai tích cực, hoàn thành kế hoạch thì còn những Bộ, ngành, địa phương chưa hoàn thành theo đề án đã được phê duyệt. Thậm chí có đơn vị như Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy, kế hoạch cổ phần hóa 21 doanh nghiệp nhưng cả 2 năm 2004, 2005 không thực hiện được doanh nghiệp nào. Cổ phần hoá doanh nghiệp theo lĩnh vực và địa bàn cũng không đồng đều, tính chung đến cuối năm 2005, DNNN được cổ phần hóa trong ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 66%; ngành thương mại, dịch vụ chiếm 27,6%; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ chiếm 6,4%; doanh nghiệp nhà nước do tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý được cổ phần hóa chiếm 61,7%; các tổng công ty 91 chiếm 9,3%. Sự chây ỳ diễn ra ở hầu hết các bộ, ngành, địa phương. Do vừa làm vừa rút kinh nghiệm nên không tránh khỏi việc phải trả học phí. Chẳng hạn chuyện cổ phần hóa khép kín, thực ra là chia cổ phần chứ không phải bán cổ phần. Trong định giá tài sản thì tài sản hữu hình tính không chính xác đã đành, trong khi tài sản vô hình gần như không tính được.  2.4. Định giá doanh nghiệp: các tài sản hữu hình định giá không chính xác. Tài sản vô hình gần như không xác định được. Chúng ta chưa có một cơ chế để giám sát các tổ chức trung gian định giá khi CPH. Một số tổ chức định giá chưa phù hợp với thực tế. Một số phiên đáu giá cổ phần gần đây của các doanh nghiệp qua trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã có mức giá khởi điểm cao hơn so với kỳ vọng của các nhà đầu tư; do vậy đã không có nhà đầu tư trúng thầu. Bên cạnh đó, các tổ chức tư vấn chưa gắn kết hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn xây dựng phương án CPH, bán đấu giá cổ phần và niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán với nhau. Hiện nay các tổ chức tư vấn chủ yếu chỉ thực hiện nghiệp vụ định giá, tư vấn CPH, còn quá trình sau CPH thuộc về doanh nghiệp trong khi khả năng của doanh nghiệp lại rất hạn chế đối với quá trình này và bản thân lãnh đạo của các doanh nghiệp cũng chưa được cập nhật kiến thức về thị trường chứng khoán. Mặt khác văn bản pháp lý về định giá còn chưa thống nhất. Theo quy định, tổ chức định giá thực hiện dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp để CPH phải có chức năng định giá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư mà phần lớn các tổ chức định giá được lựa chọn và công bố đủ tiêu chuẩn lại không đáp ứng được tiêu chuẩn về doanh nghiệp thẩm định giá như quy định. Tiếp đó là khó khăn của các công ty chứng khoán trong việc triển khai hoạt động tư vấn bởi theo thông tư 126 thì: “Tổ chức định giá phải đảm bảo có chức năng định giá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư”. Tuy nhiên, trong giấy phép kinh doanh do uỷ ban Chứng khoán nhà nước cấp cho các công ty chứng khoán hiện tại chưa có chức năng này. Đây chính là bất cập lớn gây cản trở cho quá trình CPH. Nhưng bất cập lớn nhất hiện nay là vấn đề kinh phí. Đây được coi là vấn đề “muôn thuở” của các tổ chức, đơn vị làm tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp bởi theo đại diện công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, một khoản phí để chi cho việc thẩm định giá đã phải “chia năm sẻ bảy” trong khi sự rủi ro trong khâu thẩm định giá lại rất cao. Hơn nữa các đơn vị tư vấn về chứng khoán và các công ty kiểm toán chỉ có thể định giá về tái chính còn các tìa sản chuyên dụng như nhà cửa, vật thể kiến trúc, các vật tư ứ đọng chờ thanh lý đòi hỏi phải có các chuyên gia về thẩm định thì chính bản thân đơn vị tư vấn lại không có đủ điều kiện để thuê người định giá vì thế mà phải “cây nhà lá vườn” dẫn đến dịch vụ tư vấn, xác định giá trị doanh nghiệp không cao, không sát với giá thị trường đưa đến kết quả hoặc giá trị tài sản của doanh nghiệp rất cao hoặc lại rất thấp so với thực tế nên đã không hấp dẫn các nhà đầu tư. 2.5. Vấn đề quản lý phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi CPH hiện cũng là vấn đề đang được thảo luận. Chúng ta cần xác định rõ quyền lợi trách nhiệm quyền hạn của những người đại diện phần vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp CPH. Trong những doanh nghiệp sau khi CPH nhà nước vẫn còn nắm giữ quá nhiều vốn vì vậy các doanh nghiệp này chưa có những thay đổi cơ bản về tổ chức, về quá trình theo mô hình của 1 công ty cổ phần thực sự, nhiều cơ quan quản lý của nhà nước còn can thiệp quá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp sau khi CPH. Đối với nhiều doanh nghiệp sau khi CPH bộ máy quản trị và tư duy điều hành vẫn như cũ. Theo kết quả điều tra tại các doanh nghiệp CPH: 86% giám đốc, 88% phó giám đốc, 90% kế toán trưởng vẫn giữ nguyên như cũ. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển trung hạn và dài hạn trong các doanh nghiệp CPH. 2.6. Chính sách giải quyết cho lao động dôi dư theo NĐ41 đã kết thúc vào tháng 12/2005 vì vậy nó ảnh hưởng tới tốc độ CPH, hiện nay chúng ta chưa có NĐ mới. 2.7. Quy mô cổ phần hoá vẫn còn nhỏ, tốc độ vẫn còn chậm và còn nhiều bất cập. Sau hơn 10 năm, chúng ta mới cổ phần hoá được khoảng 10% vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá trong thời gian qua là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số gần 3.000 doanh nghiệp đã được cổ phần hoá chỉ có khoảng 30% là có quy mô vốn trên 5 tỷ đồng. Như vậy rõ ràng là tình trạng độc quyền của nhà nước trong quản trị doanh nghiệp về cơ bản vẫn chưa được xoá bỏ. Đây là nguyên nhân chính tiếp tục kìm hãm sức phát triển của nền kinh tế, làm giảm hiệu quả đầu tư như chúng ta đã nhiều lần đề cập. Tiến trình cổ phần hoá ở hầu hết các lĩnh vực then chốt, những Tổng Công ty “đỉnh” vẫn khá ì ạch. Cổ phần hoá Vietcombank - ngân hàng thương mại lớn nhất, mạnh nhất Việt Nam luôn được nhắc đến như một “bước đột phá” nhưng tiếc thay vẫn chưa bước ra khỏi giai đoạn chuẩn bị. Kế hoạch cổ phần hoá của nhiều Công ty, Tổng Công ty lớn cũng đang trong tình trạng tương tự, nghĩa là liên tiếp bị trì hoãn từ năm này qua năm khác với nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, nếu chịu khó quan sát một chút sẽ thấy cổ phần hoá các Công ty “màu mỡ” hầu như vẫn là cuộc “độc diễn” của các đại gia, chưa có “đất” cho các nhà đầu tư đại chúng. Hay nói cách khác đi là có tình trạng cổ phần hoá “khép kín” ở một số đơn vị mà báo giới đã không ít lần phản ảnh. 2.8. Bộc lộ một số “vấn đề” ở một số doanh nghiệp hậu cổ phần hoá. Một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn nằm trong tình trạng “bình thì mới nhưng rượu vẫn cũ”, nghĩa là ít có sự thay đổi về cơ cấu và cơ chế quản lý, năng lực điều hành... và tất nhiên là hiệu quả kinh doanh cũng không được cải thiện. Vẫn có tới gần 10% doanh nghiệp hậu cổ phần hoá tiếp tục nằm trong tình trạng thua lỗ. Khá hài hước nhưng không ngạc nhiên khi có Công ty cổ phần quyết định chia cổ tức bằng chè, bằng nông sản...Một phần do nhận thức của các cổ đông nhỏ lẻ (cá nhân, cán bộ công nhân viên...) chưa cao nên có tình trạng là họ hầu như không có thực quyền nào trong việc kiểm soát phần vốn của mình cũng như thực thi đầy đủ các quyền cơ bản của cổ đông. Do vậy, ở không ít Công ty cổ phần, thực quyền chi phối doanh nghiệp nằm trong tay một số ít người có trách nhiệm và nắm được thông tin. Vì thế, hiện tượng lạm dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân là không thể tránh khỏi. Nhiều Công ty cổ phần nhiều năm không tiến hành đại hội cổ đông, không công khai báo cáo tài chính... Bi quan hơn, có một số doanh nghiệp nhà nước loại “vừa vừa” sau khi được cổ phần hoá đang có nguy cơ bị “tư hữu hoá”.Mặt khác, tại nhiều doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối nhưng vẫn giữ tới hơn 51% số cổ phần. Vì vậy, sau khi cổ phần hoá, nhà nước vẫn nắm giữ quyền quản lý doanh nghiệp và những “vết xe cũ” tiếp tục được lặp lại. Cổ phần hoá chỉ có ý nghĩa thay đổi một phần sở hữu vốn mà chưa tạo ra sự biến đổi về chất trong quản trị, điều hành. Việc khống chế vốn cổ phần của cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài trong các Công ty nhà nước được cổ phần hoá cũng là một hạn chế. 2.9. Một thị trường chứng khoán chưa hoàn hảo.Chuyện rò rỉ thông tin từ chính các nhân vật có trách nhiệm của các Công ty sắp niêm yết đang trở thành một vấn nạn nhức nhối. Hiện tượng “làm giá” đối với các chứng khoán đang và sắp niêm yết cũng là một vấn đề. Có bình thường không khi giá của những Công ty sắp niêm yết trên thị trường OTC cao gấp 4-5 lần so với mệnh giá ? Bên cạnh những yếu tố “ngầm” có lẽ còn do “hiệu ứng tâm lý” của các nhà đầu tư nữa. Nếu không có những liệu pháp thích hợp sẽ dễ dẫn tới hiện tượng “bong bóng xà phòng” mà nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới (và ngày cả thị trường chứng khoán Việt Nam nữa) đã từng mắc phải.Có một thực tế khác đang được mặc nhiên thừa nhận là hiện tượng các nhân viên của Công ty chứng khoán sử dụng thông tin của thị trường, của khách hàng để kinh doanh cho chính mình thay vì cho Công ty. Thực trạng đó đòi hỏi phải gióng lên một hồi chuông về quy chuẩn đạo đức cho thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như phải tiếp tục hoàn thiện các chế tài quản lý. Tốc độ cổ phần hóa của Việt Nam có vẻ chậm lại, và có hay không việc các doanh nghiệp nhà nước vận động hành lang, làm chậm lại tiến trình này. Nhưng thủ tướng tái khẳng định, hiện nay, cổ phần hóa của Việt Nam đang được đẩy mạnh thuận lợi và hiệu quả; công tác cổ phần hóa của Việt Nam đã gần cơ bản hoàn thành. Hiện nay, Việt Nam chỉ còn 104 tổng công ty của Nhà nước chưa cổ phần hóa, trong khi các doanh nghiệp thành viên của các tổng công ty cũng đã cổ phần hóa gần hết. Cổ phần hóa của Việt Nam được tiến hành theo nguyên tắc thị trường, gắn liền với niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Việt Nam đặt mục tiêu năm 2010 sẽ cổ phần hóa toàn bộ, trong đó, riêng 2 năm 2008 - 2009 thực hiện xong về cơ bản, kể cả các ngân hàng thương mại quốc doanh. 3. Kế hoạch CPH trong thời gian tới: Hiện nay Việt Nam còn 2176 DNNN với tổng số vốn là 260000 tỷ đồng và chính phủ dự định quá trình CPH sẽ kết thúc vào năm 2010. Cho đến 2010 chúng ta chỉ còn giữ lại 554 doanh nghịêp 100% vốn nhà nước, trong 554 doanh nghiệp đó gồm 26 tập đoàn và các tổng công ty, 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh quốc phòng và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội. Trong 2008, CPH toàn bộ các ngân hàng thương mại quốc doanh. III. Giải pháp đẩy nhanh CPH DNNN ở Việt Nam Để tiến trình CPH của chúng ta được tiến hành nhanh hơn và hiệu quả hơn đảng và nhà nước đã có những giải pháp như sau: tập trung vào việc quán triệt chủ trương cổ phần hóa DNNN, đề cao trách nhiệm trong thực hiện cổ phần hóa DNNN, đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực trong cổ phần hóa; Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý, chính sách thực hiện cổ phần hóa DNNN, xóa bỏ tình trạng cổ phần hóa khép kín, tăng lượng cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược được tham gia với tỉ lệ sở hữu vốn lớn hơn; Tiếp tục cải tiến quy trình cổ phần hóa và gắn với quá trình cải cách hành chính; Có biện pháp kiên quyết đối với những người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị không thực hiện nghiêm chỉnh, có hành vi cản trở hoặc chậm trễ trong thực hiện cổ phần hóa; Đẩy mạnh, đa dạng hoá hình thức bán cổ phần; Khẩn trương ban hành mới và hoàn thiện các cơ chế quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước; Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội trong các doanh nghiệp cổ phần hóa. 1. Về phía nhà nước: 1.1. Đẩy mạnh cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sắp tới nhà nước sẽ đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó phân định rõ chức năng quản lý của nhà nước và doanh nghiệp. Nhất là các quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp; ban hành chế độ phân phối cổ phần hộ lý; đổi mới phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, giám sát hoạt động kinh doanh và chấp hành quy định của nhà nước tại doanh nghiệp. Kế hoạch của chính phủ là giảm số lượng các doanh nghiệp nhà nước xuống. Tuy nhiên vẫn có thể thành lập thêm doanh nghiệp nhà nước nếu cần thiết. Việc thành lập doanh nghiệp này phải được xem xét kỹ lưỡng trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của từng ngành, từng địa phương và theo nguyên tắc chỉ lập mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước độc quyền, hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng tham gia. Về lâu dài, để hệ thống doanh nghiệp nhà nước thực sự mạnh, giữ vai trò đầu tàu trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhà nước sẽ cho phép hình thành một số tập đoàn kinh tế lớn kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân. Tập đoàn kinh tế này được thành lập trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh, khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Trước mắt, nghiên cứu thnàh lập thí điểm một số tập đoàn về dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng. 1.2. Cần phải xoá sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp vì hiện nay chúng ta đang tiến hành CPH chủ yếu ở các lĩnh vực then chốt, những công ty “đỉnh” vẫn khá ì ạch. CPH Vietcombank - ngân hàng thương mại lớn nhất, mạnh nhất Việt Nam luôn được nhắc đến như một bước đột phá nhưng tiếc thay vẫn chưa bước ra khỏi giai đoạn chuẩn bị. Kế hoạch CPH của nhiều công ty, tổng công ty lớn cũng đang trong tình trạng tương tự, nghĩa là liên tiếp bị trì hoãn từ năm này qua năm khác với nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, nếu chịu khó quan sát một chút sẽ thấy CPH các công ty “màu mỡ” hầu như vẫn là cuộc “độc diễn” của các đại gia, chưa có “đất” cho các nhà đầu tư đại chúng. Việc chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần đã mang lại một môi trường kinh doanh khác nhưng từ đây cũng nảy sinh những khó khăn mới, các vấn đề quan tâm chính của doanh nghiệp vẫn là đất đai, tín dụng và thủ tục hành chính...Theo các doanh nghiệp, sau cổ phần hóa diện tích đất đai nhà xưởng không thay đổi nhiều. Các địa phương vẫn tiếp tục cho doanh nghiệp thuê đất với giá thấp thậm chí giao đất với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường nhưng doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn khi giao dịch với ngân hàng. Nguyên nhân là do sự thiếu rõ ràng về quyền sử dụng đất cũng như chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ đất đai có liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức công ty cổ phần. Điều này khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong bố trí kế hoạch hoạt động kinh doanh như xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng..., hay góp vốn liên doanh bằng tài sản có trên đất mà doanh nghiệp đang sử dụng. Trên thực tế, đã có tình trạng một bộ phận công ty hay đơn vị thành viên tổng công ty đã cổ phần hóa nhưng không có quyền sử dụng đất, không được đứng tên thuê giao đất do đất thuộc quyền sử dụng và tổng công ty đứng tên. Vì vậy, các đơn vị này phải nhờ tổng công ty đứng ra dùng quyền sử dụng đất vay vốn hộ. Ngược lại đã có trường hợp tổng công ty dùng toàn bộ diện tích đất đai của doanh nghiệp đã cổ phần hóa đang sử dụng để thế chấp vay vốn gây khó khăn cho hoạt động của công ty cổ phần.Một thay đổi lớn gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động các doanh nghiệp sau cổ phần hóa là tỷ trọng vay vốn từ ngân hàng thương mại Nhà nước đã giảm đi đáng kể thay vào đó là các nguồn tín dụng khác kể cả tín dụng phi chính thức và tín dụng người lao động, cổ động hoặc gia đình, bạn bè. 1.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật: Chính phủ cần phải tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách cho CPH cũng như chỉ đạo mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn nữa đối với các tổng công ty, công ty nhà nước lớn. Bên cạnh đó, về phía các doanh nghiệp nhà nước cũng cần phải quán triệt nhận thức, nỗ lực quyết tâm trong việc vạch ra và thực thi lộ trình CPH. Lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước cũng như các bộ, ngành chủ quản cần đứng trên quan điểm phát triển để nhận thức rằng CPH là con đường tất yếu để có thể tồn tại trong bối cảnh hội nhập đang đến gần. Những đặc quyền đặc lợi cá nhân hay cục bộ cần phải được từ bỏ. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cần phải lưu ý, làm nhanh không có nghĩa là làm ẩu, tránh CPH hình thức bán rẻ tài sản nhà nước. Đối với công ty sau cổ phần, phải thực sự thay đổi về cơ chế quản lý và tăng cường giám sát để vừa nâng cao hiệu quả hoạt động vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng cho tất cả các cổ đông. Mặt khác, cần phải tiếp tục nới rộng giới hạn tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào các công ty cổ phần; nhanh chóng thực hiện niêm yết cổ phiếu đối với các công ty đủ tiêu chuẩn. Cần hoàn thiện các cơ chế của thị trường chứng khoán, tích cực tuyên truyền phổ cập kiến thức về chứng khoán trong công chúng đầu tư; tăng cường giám sát đối với hoạt động của Sở Giao dịch và các công ty chứng khoán cũng như các công ty niêm yết nhằm tạo ra một thị trường chứng khoán “sạch” và hoạt động lành mạnh, tránh những đổ vỡ gây hậu quả xấu đối với nền kinh tế và môi trường đầu tư. Cần đưa ra các tiêu chí cụ thể hơn về doanh nghiệp CPH, doanh nghiệp mà nhà nước cần giữ cổ pphần chi phối, gắn cổ phần hoá với trách nhiệm cá nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan