Tiểu luận Hình thái kinh tế xã hội với việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm thống trị trong học xã hội, các nhà triết học thực chất không hiểu được quy luật của sự phát triển xã hội, không thể giải quyết được một cách khoa học vấn đề phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhìn thấy động lực của lịch sử nằm ngay trong hoạt động thực tiễn của con người. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội đã khắc phục được quan điểm duy tâm, trừu tượng, vô căn cứ về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả xã hội một cách chung chung phi lịch sử, mở ra một chân trời mới mang tính hiện thực trong sự nhìn nhận về quá trình phát triển của xã hội loài người.

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8156 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hình thái kinh tế xã hội với việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à yếu tố quan trọng, là hệ thống xương cốt bắp thịt trong kĩ thuật sản xuất, nó thường xuyên được con người cải tiến, là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Khi công cụ lao động được cải tiến, kinh nghiệm và trình độ sản xuất của con người ngày càng được nâng cao, các nghành mới ra đời, phân công lao động xã hội phát triển dẫn đến sản xuất của xã hội phát triển. Nhờ đó đã tiết kiệm được thời gian cũng như sức lao động của con người. Người lao động với kinh nghiệm và sáng tạo của mình đã cải tạo công cụ lao động, chế tạo ra công cụ lao động mới đồng thời con người là chủ thể quyết định năng suất lao động và năng suất lao động được coi là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ lực lượng sản xuất của một xã hội nhất định. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, sự hoạt động của công cụ lao động phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, thói quen của con người đồng thời bản thân con người lại phụ thuộc vào công cụ lao động hiện có, đây là mối liên hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan. Ngày nay khoa học và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi vào trong sản xuất, nó có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ, vì vậy khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, cho phép con người tạo ra năng suất lao động cao hơn so với trước kia, chúng ta khẳng định ngày nay khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lực lượng sản xuất độc lập vì những tri thức khoa học đã được vật chất hoá, được kết tinh vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất. Trải qua các cuộc cách mạng khoa học trên nhiều lĩnh vực trong lịch sử, cùng với sự tiến triển của sản xuất, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. Khoa học công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất do vậy nó hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII của đảng ta đã vạch ra mục tiêu đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung, của nền khoa học nước nhà nói riêng như sau: “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”. Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn là lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc. điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng xuất lao động xã hội và hiệu quả kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đủ sức cung cấp luận cứ cho việc hoạch định các chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển. Tính khách quan của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất do con người tạo ra song nó vẫn là yếu tố khách quan, là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại. Lực lượng sản xuất được kế thừa liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác, mỗi thế hệ sinh ra đều phải thích ứng với một trình độ lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại vì lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người, những lực lượng đã đạt được bởi hình thái xã hội trước tạo ra. c) Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất sản xuất vật chất, thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi với nhau cũng như quan hệ về phân phối sản phẩm. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức, mỗi mặt quan hệ của hệ thống sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung. Tính khách quan của quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, nó là hình thức xã hội của sản xuất. Quan hệ sản xuất là nền tảng vật chất, kinh tế, để hình thành nên những quan hệ xã hội khác, và là hình thức của lực lượng sản xuất đồng thời cũng là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Tính ổn định tương đối: Quan hệ sản xuất là một hệ thống ổn định tương đối so với sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Sở dĩ như vậy bởi trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định, hình thái kinh tế xã hội cũng có tính ổn định tương đối, không thể tuỳ tiện thay đổi. Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt sau: Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất Quan hệ phân phối sản phẩm lao động Ba mặt này có quan hệ biện chứng và tác động qua lại với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan trọng nhất, tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, biểu hiện thành chế độ sở hữu. Quan hệ sở hữu là quan hệ cơ sở, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất khác. Chính quan hệ sở hữu trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng thể chế trong hệ thống sản xuất xã hội. Có thể thấy rõ điều đó qua các hình thái xã hội khác nhau trong lịch sử, ví như trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì quyền lực thuộc về những người nắm giữ tư bản, bởi họ là những người nắm giữ tư liệu sản xuất, từ đó họ có thể thuê nhân công lao động, qua đó cũng đã thể hiện được vai trò quản lý của những người nắm giữ tư bản trong tay. Vậy nó có thể quy định tính chất của quan hệ tổ chức quản lý và việc phân phối sản phẩm sản xuất xã hội. Hiện nay có thể phân biệt rõ ràng rằng trong nền kinh tế, lực lượng sản xuất do cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất quyết định, còn quan hệ sản xuất lại do chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất trực tiếp quyết định. Tuy nhiên mỗi mặt đều có tính chất độc lập tương đối của nó. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: Lịch sử có hai loại hình sở hữu là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. ØSở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất: Tư liệu sản xuất nằm trong tay số ít người vì vậy của cải xã hội cũng được tập trung trong tay một số ít người. Xã hội hình thành nên quan hệ thống trị và bị trị, có sự đối kháng giai cấp, phân biệt giàu nghèo sâu sắc. ØSở hữu xã hội về tư liệu sản xuất: Tư liệu sản xuất là của mọi người trong xã hội, mọi công dân đều có quyền hưởng lợi ích chung của xã hội, nhờ đó mà quan hệ giữa người và người trong xã hội có sự bình đẳng hợp tác với nhau. Do đó nhìn vào loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, chúng ta có thể phân biệt được các chế độ xã hội khác nhau. Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất: Tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động sản xuất, điều khiển quá trình sản xuất, góp phần tạo nên hiệu quả của quá trình sản xuất. Nó chịu sự quy định và phải điều chỉnh phù hợp với quan hệ sở hữu, tuy nhiên nó cũng tác động ngược lại tới quan hệ sở hữu, nếu tổ chức quản lý khoa học thì hiệu quả sản xuất cao từ đó sẽ củng cố quan hệ sở hữu, ngược lại nếu tổ chức kém thì sẽ kìm hãm sản xuất phát triển, từ đó tác động xấu thậm chí có thể góp phần làm biến đổi quan hệ sở hữu theo chiều hướng tiêu cực. Quan hệ phân phối sản phẩm: Đây là khâu cuối của quá trình sản xuất, tại đó sản phẩm sản xuất của xã hội được phân chia, nó là nguồn lợi trực tiếp của các chủ thể sản xuất cũng như người lao động. Do đó nó có thể kích thích hay hạn chế năng suất lao động, phát huy sáng kiến sáng tạo, cải tiến công cụ lao động trong quá trình sản xuất, qua đó tạo động lực thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của xã hội. 2.2 Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất, tốc độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất, chúng tồn tại song song với nhau nhưng không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Là quy luật cơ bản mang tính phổ biến ở tất cả các giai đoạn của lịch sử loài người. Sự phát triển của sản xuất vật chất xã hội trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất, nó được thể hiện cụ thể ở sự phát triển của tính chất và tốc độ của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân, khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá. a) Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, từ đó để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. C.Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có...trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của quan hệ sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất có vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất vì nó là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất phải dựa vào đó mà phát triển. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, quy định cách thức quản lý, tổ chức lao động, phân phối sản phẩm, tạo ra điều kiện thúc đẩy hay hạn chế việc cải tiến công cụ lao động và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất theo hai hướng. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của trình độ lực lượng sản xuất hiện có, nó sẽ thú đẩy và mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất mâu thuẫn vơí lực lượng sản xuất, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho sản xuất không phát triển được. Song sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo xu hướng phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất thì cuối cùng quan hệ sản xuất cũng bị thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất. Sự liên hệ lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa là xã hội mà quan hệ sở hữu công về tư liệu sản xuất, công bằng được thiết lập, ở đấy giữa cong người với con người không có sự phân biệt tầng lớp, không còn quan hệ thống trị và bị trị như các xã hội trước kia, người lao động có quyền tự chủ, làm theo năng lực và hưởng theo lao động. Xã hội luôn vận động biến đổi, lực lượng sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như dưới bất cứ phương thức sản xuất nào là yếu tố động hơn, biến đổi nhanh hơn quan hệ sản xuất, do vậy luôn tạo ra những mâu thuẫn mới, từ đó cần có những biện pháp giải quyết mâu thuẫn, nhưng khi mâu thuẫn cũ được giải quyết thì lại thiết lập những mâu thuẫn mới, chính nhờ có mâu thuẫn và sự giải quyết mâu thuẫn ấy đã thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển cao hơn. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn liên quan đến cả quan hệ phân phối và trao đổi. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì hình thức phân phối cũng càng phát triển, đồng thời nguyên tắc lợi ích vật chất của người sản xuất vẫn được duy trì và củng cố. Sự vi phạm nguyên tắc lợi ích vật chất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, do đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có thể trở nên phức tạp nếu có khuyết điểm và sai lầm trong việc thi hành chính sách kinh tế. Nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa là phân phối theo số lượng và chất lượng lao động, nhưng trong thực tế thường mắc phải một số sai lầm như phân phối bình quân, sai lầm này sẽ dẫn đến người lao động không hăng say lao động sáng tạo, đôi khi là sở hữu chung nên tính không tự chủ, ỉ lại cao và dẫn đến không kích thích phát triển sản xuất hay một sai lầm khác như sự cách biệt một cách vô lý giữa tiền lương của các loại công nhân. Lý luận về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tạo cho chúng ta một nền tảng vững chắc để tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn nhất là trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa hiện nay ta vẫn còn gặp nhiều vướng mắc trong tư tưởng và hành động. 3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng bao gồm toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động thực hiện của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Một xã hội được tạo nên bởi các quan hệ như: Quan hệ sản xuất thống trị Quan hệ sản xuất tàn dư Quan hệ sản xuất mầm mống xủa xã hội tương lai Vai trò của mỗi loại quan hệ khác nhau, trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo chi phối toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, quyết định đặc trưng của toàn bộ hệ thống chính sách hạ tầng của xã hội, ví như trong xã hội phong kiến những địa chủ nắm giữ ruộng đất, họ là những người thống trị trong xã hội, những người không có ruộng đất là những người phải lao động làm thuê trên ruộng đất đi thuê và phải nộp địa tô cho địa chủ. Xã hội phát triển lên tư bản chủ nghĩa xong không thể xoá bỏ hết ngay quan hệ sản xuất cũ, do vậy vẫn duy trì quan hệ sản xuất tàn dư trong một thời gian dài. Đối với nước ta từ sau đổi mới, đảng và nhà nước đã xác định phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế nhà nước vẫn chiếm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, điều đó khẳng định việc xác định được quan hệ sản xuất thống trị là rất quan trọng, bởi nó quyết định hướng đi cho nền kinh tế. Các loại quan hệ sản xuất khác nhau cũng có vai trò nhất định trong nền kinh tế sản xuất xã hội. Tồn tại và phát triển một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất, và biến đổi theo sự vận động và phát triển của tính chất và tốc độ của lực lượng sản xuất. Kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những tư tưởng, quan điểm xã hội như chính trị, pháp luật, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học...với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội và mối quan hệ nội tại giữa chúng, được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng nhưng không tách rời mà tác động qua lại nhau, đều nảy sinh trên cơ sở cơ sở hạ tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng. Có yếu tố nảy sinh và quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng như Nhà nước, pháp luật, có yếu tố nảy sinh và quan hệ gián tiếp như đạo đức, nghệ thuật. Kiến trúc thượng tầng bao gồm: Hệ tư tưởng và thể chế của giai cấp thống trị, tư tưởng tàn dư của xã hội cũ, và tư tưởng của các giai cấp mới, đồng thời có cả tư tưởng của các tầng lớp trung gian. Trong đó hệ tư tưởng và thể chế của giai cấp thống trị có vai trò quan trọng chi phối các quan điểm tư tưởng khác. Kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp trong những xã hội có giai cấp, do vậy kiến trúc thượng tầng mang tính chất đối kháng giữa hệ tư tưởng của những giai cấp khác nhau. Một thiết chế quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng là Nhà nước, đó là công cụ để đảm bảo duy trì quyền thống trị của gia cấp thống trị và là lực lượng quản lý, điều tiết xã hội. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng. Bộ mặt kiến trúc thượng tầng trong đời sống xã hội luôn được biểu hiện ra một cách phong phú, phức tạp. Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng, quy định tính chất kiến trúc thượng tầng. hình thành nên một kiến trúc thượng tầng mới tương ứng. Những biến đổi ở cơ sở hạ tầng sớm hay muộn cũng tạo nên sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Tuy vậy sự biến đổi này không chỉ diễn ra trong giai đoạn có sự biến đổi của hình thái kinh tế xã hội mà còn diễn ra trong lòng một hình thái kinh tế xã hội nhất định nào đó. Trong những xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi này thực hiện thông qua cuộc đấu tranh giai cấp, làm cách mạng xã hội lật đổ sự thống trị của giai cấp cũ, cơ sở hạ tâng cũ được thay thế bằng một cơ sở hạ tầng của giai cấp thống trị mới và qua đó thay thế cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng. Nguyên nhân của sự biến đổi kiến trúc thượng tầng là ở sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, tuy vậy lực lượng sản xuất không quyết định trực tiếp mà nó gián tiếp tác động đến kiến trúc thượng tầng thông qua quan hệ sản xuất và qua đó là cơ sở hạ tầng. Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có yếu tố biến đổi phù hợp với cơ sở hạ tầng mới như Nhà nước, pháp luật.. song bên cạnh đó cũng có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn tồn tại dai dẳng, được kiến trúc thượng tầng mới thừa kế và phát triển như nghệ thuật, tôn giáo. Kiến trúc thượng tầng tác động tới cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng có vai trò duy trì, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Chỉ có xác lập quyền thống trị về chính trị, tư tưởng thì giai cấp thống trị mới có thể duy trì sự thống trị về cơ sở hạ tầng. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng lại tác động với những mức độ khác đến cơ sở hạ tầng. Trong đó đặc biệt chú ý đến vai trò to lớn của Nhà nước, ví dụ ở nước ta thiết lập mô hình nhà nước của dân, do dân và vì dân, cho phép mọi người dân được tự do tín ngưỡng tôn giáo. Cơ sở hạ tầng thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. Tồn tại các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền nhau, thậm chí đối lập, đan xen nhau. Như vậy là phải chấp nhận nhiều quy luật kinh tế cùng lúc. Điều đó nói lên sự không đồng bộ của bản chất nền kinh tế nước ta, sự không đồng bộ đó là do trình độ lực lượng sản xuât không đều, thành phần kinh tế nhà nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân và hộ gia đình còn nhỏ lẻ. Hiện nay chúng ta đã đề ra biện pháp khắc phục, đảng ta tập trung hướng các thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên việc định hướng này rất khó khăn phức tạp. Để làm được điều đó, đảng ta phải sử dụng nhiều biện pháp như kinh tế, hành chính, giáo dục, trong đó biện pháp kinh tế là quan trọng. Cần sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế trong đó có sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đồng thời kiến trúc thượng tầng cũng phải đựơc đổi mới về mọi mặt như đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy hoạt động của bộ máy nhà nước, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, hiệp hội đoàn thể, mở rộng dân chủ nhằm quy tụ sức mạnh của quần chúng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế phát triển. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, bổ xung về mặt pháp luật, hiến pháp, đường lối chủ trương chính sách của đảng phải phù hợp với sự phát triển kinh tế, cụ thể là chấp nhận kinh tế nhiều thành phần thì phải đề ra chính sách pháp luật phù hợp với nền kinh tế đó. Nền kinh tế có thể đi lên xã hội chủ nghĩa nếu được định hướng quản lý có hiệu quả, do đó kiến trúc thượng tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng. Đảng ta không chấp nhận đa nguyên, đa đảng mà xây dựng hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp công nhân, do đảng lãnh đạo, đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân trong quản lý kinh tế, xã hội, và mọi lĩnh vực khác của xã hội. 5. Phạm trù hình thái kinh tế xã hội Hình thái kinh tế xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được hình thành trên những quan hệ sản xuất đó. Sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Xã hội loài người tuân theo những quy luật khách quan, phát triển từ thấp tới cao, các quy luật đó là quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, cùng nhiều quy luật xã hội khác. Nguyên nhân sâu xa của sự phát triển kinh tế xã hội là sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó là sự tác động của các quy luật khách quan trong xã hội. Ngoài các yếu tố thuộc về quy luật chung, khi xem xét sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội, ta phải chú ý đến các yếu tố mang tính chất đặc thù của mỗi dân tộc như: Điều kiện tự nhiên, tâm lý xã hội, truyền thống dân tộc, phong tục tôn giáo, bản sắc văn hóa, chính trị, những điều kiện quốc tế khác. Chính những điều đó làm nên sự đa dạng, phong phú của lịch sử loài người. Nó cũng bao hàm một ý nghĩa mang tính chất lý luận: Quá trình phát triển tự nhiên không chỉ diễn ra tuần tự mà còn bao hàm sự bỏ qua, những bước nhảy vọt trong một số điều kiện nhất định ví như nước ta đã bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Trải qua quá trình phát triển lâu dài từ xã hội nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa đã tạo dựng được những thành tựu đáng kể, xã hội trước là tiền đề cơ bản để xã hội sau phát triển có kế thừa những mặt tích cực của xã hội trước, cứ như vậy xã hội loài người được phát triển ngày càng ở mức cao hơn về mọi mặt. Những dự báo của Mác và Ăngghen đã về xã hội cộng sản chủ nghĩa mà loài người sẽ hướng tới là ở đó lực lượng sản xuất đã phát triển rất cao, chủ nghĩa tư bản đã tạo nên lực lượng sản xuất đồ sộ dựa trên nền tảng đại công nghịêp nhưng cộng sản chủ nghĩa còn phát triển cao hơn nữa, chế độ sở hữu xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu hoàn toàn, sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, mục đích của nền sản xuất cộng sản chủ nghĩa là thỏa mãn nhu cầu về mọi mặt cả về vật chất và tinh thần. Nền sản xuất được tiến hành một cách có kế hoạch trên phạm vi toàn xã hội và không còn sản xuất hàng hóa nữa, ở đó sự phân phối sản phẩm cũng bình đẳng với mọi người dân trong xã hội và xóa bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, xóa bỏ giai cấp. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử của xã hội loài người, xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. 5.2 Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế xã hội. Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm thống trị trong học xã hội, các nhà triết học thực chất không hiểu được quy luật của sự phát triển xã hội, không thể giải quyết được một cách khoa học vấn đề phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhìn thấy động lực của lịch sử nằm ngay trong hoạt động thực tiễn của con người. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội đã khắc phục được quan điểm duy tâm, trừu tượng, vô căn cứ về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả xã hội một cách chung chung phi lịch sử, mở ra một chân trời mới mang tính hiện thực trong sự nhìn nhận về quá trình phát triển của xã hội loài người. Học thuyết này đã vạch ra sự thống nhất lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện của các xã hội khác nhau trong những thời kỳ khác nhau, vì thế nó đã đem lại cho khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những mối liên hệ nhân quả, để giải thích chứ không chỉ mô tả các sự kiện lịch sử. Nó là cơ sở khoa học để tiếp cận đúng đắn khi giải quyết các vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã hội rất đa dạng. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần, đều chỉ có thể được hiểu đúng khi gắn với một hình thái kinh tế xã hội nhất định. II. VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA. Trong thời đại ngày nay, chủ trương phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa chẳng những không mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính lịch sử, tự nhiên mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử. Trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, Việt Nam là một quốc gia chưa trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa theo tuần tự phát triển như hầu hết các quốc gia trên thế giới, bởi đả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35716.doc
Tài liệu liên quan