Tiểu luận Lạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 9/2010

Chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và tăng tỷ lệ lạm phát. Vì thế, khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng.

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3172 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 9/2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n. Lạm phát làm cho một nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Nhưng suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của người lao động, chính người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát. Tóm lại: Mục tiêu kiềm chế lạm phát không đồng nghĩa với việc đưa tỷ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ, lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì lạm phát ở một mức độ vừa phải, kiềm chế điều tiết được mức lạm phát đó thì có lợi cho sự phát triển kinh tế, lạm phát đó không còn là một căn bệnh nguy hiểm nữa mà nó lại trở thành một công cụ điều tiết kinh tế. I.4 Các loại hình lạm phát I.4.1 Thiểu phát Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát. Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát. I.4.2 Lạm phát vừa phải Lạm phát vừa phải đặc trưng bởi giá cả tăng chậm và có thể đoán biết trước được. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở mức một con số (lớn hơn 4%) được coi là lạm phát vừa phải. Với lạm phát vừa phải là mức lạm phát bình thường nền kinh tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Trong trường hợp này, lạm phát không phải là mối lo ngại. Mọi người vẫn sẵn sang giữ tiền để thực hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn bằng đồng nội tệ. I.4.3 Lạm phát phi mã (Lạm phát cao) Lạm phát phi mã là tình trạng tăng mức giá chung của nền kinh tế với tốc độ hai hay ba chữ số một năm. Lạm phát phi mã là mức lạm phát nguy hiểm. Nếu nền kinh tế trong tình trạng lạm phát phi mã trong một thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Đồng tiền bị mất giá nhanh, người ta chỉ giữ tiền vừa đủ để thực hiện những giao dịch cần thiết cho nhu cầu hằng ngày. Tích trữ hàng hoá, mua bất động sản và sử dụng vàng và các đồng ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích luỹ tài sản trở nên an toàn và được ưa chuộng. mức không kiểm soát được như trường hợp siêu lạm phát. Việt Nam và các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoặch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách. I.4.4 Siêu lạm phát Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", tỷ lệ lạm pháp đặc biệt cao, một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên. Trong cách dùng không chính thức thì thuật ngữ này được áp dụng cho chỉ số lạm phát thấp hơn nhiều. Siêu lạm phát có một số điều kiện để xảy ra như sau: (1) Chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. (2) Nhiều cuộc siêu lạm phát xuất hiện sau chiến tranh do sự căng thẳng của ngân sách chính phủ. (3) Khủng hoảng nợ. Đặc điểm chung của mọi nền kinh tế khi xảy ra siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức của cung tiền, do tài trợ thâm hụt ngân sách quá lớn. Khi lạm phát cao xảy ra lại kéo theo tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn có thể không kiểm soát được. Do lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính theo phần trăm so với GDP từ đó tiếp tục làm tăng thâm hụt ngân sách và đẩy lạm phát tiếp tục leo thang. Người ta thường dùng bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm. I.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát I.5.1 Lạm phát cầu kéo : Lạm phát cầu kéo xảy ra khi mức tổng cầu tăng nhanh hơn so với mức cung. Chúng ta có thể xem hình minh họa dưới đây: P AS AD3 AD2 Y AD1 Với đường tổng cung AS, khi tổng cầu (AD) dịch chuyển sang phải ( AD1 -> AD2 -> AD3 ), kéo theo giá cả tăng lên và lạm phát xảy ra. Có nhiều lý do khác nhau làm cho tổng cầu gia tăng. Để thấy được vấn đề, chúng ta tách tổng cầu theo các thành phần chi tiêu trong nền kinh tế: AD = C + I + G + ( X-M ) Trong đó: C là chi tiêu của người tiêu dùng I là đầu tư G là chi tiêu của chính phủ X là xuất khẩu M là nhập khẩu Sự gia tăng tổng cầu có thể do người dân tiêu dùng nhiều hơn ( chẳng hạn do lãi suất giảm, thuế giảm, thu nhập tăng,… ); các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn ( do kỳ vọng tăng trưởng kinh tế trong tương lai); chính phủ tiêu dùng nhiều hơn do thực hiện đẩy mạnh các chính sách trợ cấp xã hội, chính sách kích cầu để phát triển kinh tế; tình trạng nhập siêu quá cao cũng dấn đến đường tổng cung dịch chuyển sang bên phải. Và lạm phát xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh hơn tổng cung. I.5.2 Lạm phát chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy khi chi phí tăng một cách độc lập với tổng cầu.Chúng ta có thể xem hình minh họa dưới đây: AS2 AS1 P Y Có thể xem xét các trường hợp chi phí đẩy sau: Chi phí tiền lương: Nếu tiền lương tăng là do áp lực từ Công đoàn, từ chính sách điều chỉnh tăng lương của chính phủ. Đó là chi phí đẩy. Đường tổng cung dịch chuyển sang trái do chi phí tăng ( AS1 -> AS2 ), vì thế đẩy giá cả tăng. Lợi nhuận: Nếu doanh nghiệp có quyền lực thị trường ( độc quyền, nhóm độc quyền), có thể đẩy giá tăng lên độc lập với tổng cầu để kiếm lợi nhuận cao hơn. (Ví dụ như OPEC). Nhập khẩu lạm phát: Trong nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp phải nhập một lượng không nhỏ nguyên nhiên vật liệu từ nước ngoài. Nếu chi phí của những nguyên liệu gia tăng do nhiều nguyên nhân không thuộc sự kiềm soát trong nước, thì khi đó doanh nghiệp phải chấp nhận mua nguyên vật liệu với giá cao. Một số nguyên nhân đó như: Tỷ giá hối đóai: Nếu đồng nội tệ bị mất giá thì hàng hóa xuất khẩu trong nước sẽ trở nên rẻ hơn ở nướv ngoài, nhưng hàng hóa nhập khẩu lại trổ nên đắt đỏ hơn. Khi đó, các doanh nghiệp phải trả nhiều tiền hơn để nhập khẩu nguyên vật liệu. Thay đổi giá cả hàng hóa: Nếu như có sự gia tăng giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới, thì các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với chi phí nhập khẩu hàng hóa cao hơn làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao. Những cú sốc từ bên ngòai: Các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép,… cũng làm cho giá cả nhập khẩu của những lọai hàng hóa này tăng lên và đẩy chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao. Thiếu hụt các nguồn tài nguyên: Khi các nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, không tránh khỏi giá cả dần dần sẽ tăng cao. Điều này làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đẩy giá cả hàng hóa làm ra tăng lên cho d8ến khi doanh nghiệp tìm kiếm được nguồn cung khác thay thế. I.5.3 Lạm phát do cơ cấu Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả một mặt không đủ khả năng chi trả nếu tăng lương nhưng vẫn phải tăng giá để đảm bảo bù lại chi phí sản xuất gia tăng. Lạm phát xảy ra. I.5.4 Lạm phát do bội chi ngân sách Chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và tăng tỷ lệ lạm phát. Vì thế, khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng. I.5.5 Lạm phát tiền tệ Ta hiểu cung tiền ở đây là M2. M1 : hay còn gọi là tiền hẹp, bao gồm tiền ở tất cả các dạng có thể chi tiêu ngay lập tức : tiền mặt và tiền ở tài khoản séc. M2 : hay còn gọi tiền rộng, bao gồm M1 nhưng công thêm tiết kiệm và tiền trong tài khoản tiết kiệm dài hạn. Khoản tiết kiệm dài hạn không thể trực tiếp tiêu ngay được, nhưng có thể chuyển thành tiền mặt rất dễ dàng. Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. Có lẽ đây là lý do thuyết phục nhất của hiện tượng lạm phát. Giả thiết rằng cư dân giữ tiền chỉ để giao dịch mua bán hàng hoá. Khi đó có đồng nhất thức sau: (Số đơn vị tiền tệ trao đổi trong một năm) Trong đó: P: Là của một đơn vị sản lượng điển hình (mức giá chung). Y: Mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra trong một năm. V: Tốc độ chu chuyển (Số lần trung bình mà một tờ giấy bạc điển hình được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ trong 1 năm). M: Cung tiền. Từ đồng nhất thức đó thấy: Khi cung tiền thay đổi thì tương ứng với nó kéo theo sự thay đổi của một trong ba nhân tố. Thông thường, tốc độ chu chuyển tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian. Như vậy, khi lượng cung tiền gia tăng thì hoặc sản lượng quốc gia gia tăng, hoặc là giá cả tăng. Sản lượng có thể tăng nhưng luôn luôn có giới hạn. Do vậy giá tăng, lạm phát là kết quả cuối cùng. Tốc độ tăng cung tiền càng cao thì lạm phát cũng càng cao. Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát. I.6 Các biện pháp kiềm chế lạm phát I.6.1 Những biện pháp cấp bách: Những biện pháp này được áp dụng nhằm mục đích giảm tức thời cơn sốt lạm phát, để có cơ sở áp dụng những biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Gồm có những biện pháp sau: I.6.1.1 Biện pháp về chính sách tài khóa: Biện pháp này được áp dụng nhằm khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước. Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp sau: Tiết kiệm triệt để chi tiêu ngân sách, cắt giảm những khỏan chi tiêu công chưa cấp bách như giảm chi phí quốc phòng, giảm biên chế công nhân viên Nhà nước, kiểm sóat và chống thất thóat trong chi tiêu ngân sách, chống tham nhũng. Tăng thu ngân sách bằng cách tăng thuế trực thu, đặc biệt đối với những cá nhân và doanh nghiệp có thu nhập cao, chống thất thu thuế, vay nợ dân chúng,… nhằm rút ngắn cách biệt giữa chi và thu, dần dần tiến đến cân bằng thu chi ngân sách. I.6.1.2 Biện pháp thắt chặt tiền tệ: Biện pháp này nhằm mục đích giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, nhà nước có thể thực hiện chính sách siết chặt cung tiền tệ bằng nhiều biện pháp khác nhau như: Đóng băng tiền tệ: Ngân hàng Trung ương thắt chặt việt thực hiện các nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho vay theo hồ sơ tín dụng đối với các tổ chức tín dụng… Mục đích của biện pháp này là rút bớt tiền hay không cho tiền tăng thêm trong lưu thông. Hoặt thậm chí dùng chính sách giới hạn tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại nhằm thực hiện mục đích trên. Nâng lãi suất: Lãi suất tiền gửi tăng, đặt biật là tiền gửi tiết kiệm có tác dụng thu hút tiền mặt của dân cư và doanh nghiệp vào ngân hàng. Từ đó rút bớt lượng tiền đang lưu thông và có tác động làm giảm chỉ số lạm phát. Tuy nhiên, nếu lãi suất ngân hàng ở mức cao hơn lợi tức đầu tư thì người dân và các doanh nghiệp sẽ không mang tiền đi đầu tư vào sản xuất kinh doanh nữa mà tìm cách gửi tiền vào ngân hàng hưởng lãi suất. Điều này dẫn đến việc sản xuất kinh doanh bị thiếu nguồn vốn đầu tư, về lâu dài sẽ dẫn đến hàng hóa khan hiếm ,giá cả tăng cao và trực tiếp làm gia tăng thêm lạm phát. Nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc: đối với các ngân hàng nhằm hạn chế khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại. Cũng giống như biện pháp nâng lãi suất, nếu biện pháp này áp dụng trong thời gian dài sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh, trực tiếp làm tăng chỉ số lạm phát. I.6.1.4 Biện pháp kiềm chế giá cả: Để kiềm chế sự tăng giá của hàng hóa, nhà nước thực hiện chính sách kiềm giữ giá cả bằng nhiều biện pháp khác nhau như: Nhập khẩu hàng hóa của nước ngòai để bổ sung cho khối lượng hàng hóa trong nước tạo rao sự cân bằng giữa cung và cầu hàng hóa. Nhưng nhập khẩu hàng hóa trong thời gian dài sẽ dẫn đến hàng hóa trong nước không đủ sức cạnh tranh, dần dần mất thị phần về tay các doanh nghiệp nước ngoài. Nhà nước bán vàng và ngọai tệ ra nhằm thu hút lượng tiền mặt trong lưu thông, ổn định giá vàng, ổn định tỷ giá hối đoái, từ đó tạo tâm lý ổn định giá cả các mặt hàng khác trong thời gian ngắn. Trong thời gian dài, việc áp dụng các biện pháp này sẽ làm cạn kiệt nguồn dự trữ vàng và ngọai tệ của quốc gia, dẫn đến có thể xẩy ra khủng hỏang tiền tệ trong nước. I.6.2 Những biện pháp chiến lược: Sau khi áp dụng các biện pháp cấp bách nhằm ứng phó với lạm phát trong thời gian đầu, nhà nước cần áp dụng những biện pháp chiến lược nhằm ổn định thị trường trong thời gian dài. Những biện pháp thường được áp dụng là: I.6.2.1 Cần thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ năng động và hiệu quả trong giai đọan hội nhập kinh tế quốc tế: Hạ lãi suất cho vay để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước và xuất nhập khẩu, cung cấp hàng hóa cho nền kinh tế. Mở rộng đối tượng kiều bào nước ngoài mua nhà ở Việt Nam: Đây là một giải pháp tốt giúp đáp ứng tâm tư nguyện vọng của bà con xa xứ và cũng là biện pháp nhằm hạn chế sự đóng băng của thị trường bất động sản. Tiếp tục siết chặt chi tiêu công đối với các dự án không hiệu quả I.6.2.2 Cần kích thích tiêu dùng, kích thích nền kinh tế phát triển. Cần phải giảm tốc độ tăng lãi suất, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý. Cần đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao động. I.6.2.3 Tiết kiệm chi phí sản xuất xã hội và chi tiêu công và tư: Giảm mức tăng chi phí thực hiện tiết kiệm trong sản xuất xã hội. Để làm được điều này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định mức, kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng qui cách, phẩm chất, chủ động nghiên cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu. Một giải pháp làm giảm mức tăng chi phí khác có thể áp dụng là hoàn thiện công nghệ, đổi mới công nghệ, cải tiến tổ chức quản lý nhằm tăng năng suất lao động. Đồng thời tiết kiệm chi tiêu công của nhà nước, từng gia đình và cá nhân. I.6.2.4 Tăng cường kiểm tra, giám sát phát huy tính công khai minh bạch của chi tiêu công: Cần soát xét lại các chương trình, dự án đầu tư, họat động chi tiêu cả trung ương lẫn địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, kiểm tra tiến độ thực hiện của các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án, công trình, đặc biệt là các công trình trọng điểm, hoàn thành dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng và tránh tăng thêm chi phí phát sinh. Chủ động điều chỉnh kế họach triển khai các dự án đầu tư, tập trung ngân sách vào những công trình cấp thiết, những công trình không cấp thiết nên thực hiện sau. Công khai minh bạch thông qua sự giám sát chi tiêu của các tổ chức phi chính phủ, các đoàn thể chính trị xã hội và tổ chức quần chúng. I.6.2.5 Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân để thu hồi tiền mặt. Họat động này có tác động rất tích cực làm giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông và tác động trực tiếp đến giảm lạm phát. Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trrực tiếp cho dân. Bán trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất đối với người mua được hưởng sẽ cao hơn, thu hút được nhiều người tham gia.Có thể tổ chức thành những chiến dịch phân phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian cụ thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội tham gia. I.6.2.6 Đẩy mạnh phong trào sản xuất cung cấp sản phẩm dịch vụ cho xã hội, hạn chế những tệ nạn xã hội, giải quyết những vấn đề thuộc an ninh xã hội cho người nghèo, đối tượng chính sách xã hội. II - THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐỌAN 2007 – 9/2010: II.1 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2008 Tốc độ lạm phát 7 tháng đầu năm 2007 đã lên tới 6,19%, nếu theo đà này thì mức lạm phát của cả năm 2007 sẽ ở mức hai con số. Để đánh giá một nền kinh tế có lành mạnh hay không người ta dựa chủ yếu vào tỉ lệ giữa tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI). Chỉ tính trong 3 năm gần đây, khi mà thế giới đang lên cơn sốt giá, thì cho đến giờ này tỉ số trên của nước ta vẫn ở mức 1:1. Điều đó nói lên rằng nền kinh tế của nước ta vẫn đang lành mạnh và vấn đề là Chính phủ Việt Nam quyết bảo vệ sự lành mạnh đó, trước mắt là đến hết 2007. Mặt khác, khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường phát triển thì việc tăng giá tiêu dùng là không tránh khỏi và sự định giá đồng tiền ở nước ta còn ở mức cao nên việc mất giá của đồng tiền cũng là tất yếu. Điều đó giải thích, tuy việc neo giá không phải lúc nào cũng thành công nhưng cả trong ba năm vừa qua chúng ta sử dụng công cụ này mà vẫn đạt kết quả. II.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2009 Biểu đồ 2.2: Chỉ số giá tiêu dùng trong 10 tháng đầu năm 2008 Như vậy, sau 12 năm, tình hình lạm phát lại bùng phát ở Việt Nam và có nguy cơ bùng phát mạnh mẽ vào năm 2008, tình hình cụ thể thể hiện rõ ở biểu đồ 2.1, biểu đồ 2.2 * Chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng tăng vọt trong năm 2007: Năm 2007, giá lương thực, thực phẩm (LT-TP) trên thị trường Việt Nam tăng cao đạt mức 18.9%, cao hơn nhiều so với mức lạm phát 12,63%, trong đó nhóm lương thực tăng 15,5%, thực phẩm tăng 21,16%. * Chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng tăng vọt trong các quý đầu năm 2008: Trong 4 tháng đầu năm, giá LT-TP đã tăng 18,01%, cao gấp rưỡi mức 11,6% của lạm phát CPI và cao tương đương bằng mức tăng giá LT-TP của cả năm 2007, trong đó lương thực tăng 25%, còn thực phẩm tăng 15,6%. Nguyên nhân của tăng lạm phát: - Ngày 22/5/2008, tăng giá xăng dầu từ 13.000đ lên 14.500đ (tương đương 11.5%). - Cuối tháng 3 đầu tháng 4, tình trạng thiếu lương thực trầm trọng trên thế giới làm cho giá gạo trong nước tăng nhanh có thời điểm từ 50% đến 100%. - Kể từ tháng 5 giá gạo đã có xu hướng giảm nhưng mức tăng vẫn 15%-20% so với trước khi sốt gạo. Dự báo từ nay đến cuối năm giá gạo sẽ bình ổn và không có sự tăng đột biến. -Trong hai quý đầu năm, giá các loại nguyên vật liệu tăng mạnh trên TG khiến nước ta ảnh hưởng bởi NK lạm phát. Nếu giá dầu ổn định dưới 150 USD/ thùng, giá các nguyên, vật liệu sẽ có xu hướng giảm và ổn định trong giai đoạn còn lại của năm. II.3 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2009 và 9 tháng đầu năm 2010 - Mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 15% đặt ra cho năm 2009 thể hiện sự “cảnh giác” của các nhà quản lý và hoạch định chính sách. Cũng dễ hiểu, khi chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2007 tăng 12,63% và 10 tháng đầu năm nay còn tăng phi mã hơn, vượt xa mục tiêu kiềm chế ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế nữa. -Theo suy nghĩ thông thường, giới hạn của chỉ số giá tiêu dùng năm tới nằm ở mức từ 10 tới 14,99%. Căn cứ để đặt giới hạn dưới là mục tiêu chỉ số giá tiêu dùng ở mức một con số vào năm 2010. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang xấu đi rất nhanh hiện nay, cũng có thể sự thận trọng như vậy là quá mức cần thiết. Giá nguyên liệu thế giới giảm -Thay vì sốt nóng như bảy năm trở lại đây, thị trường thế giới trong năm 2009 sẽ “cảm lạnh”. Vì vậy, thị trường trong nước cũng không thể không hạ nhiệt theo. -Trong bức tranh kinh tế u ám được IMF “vẽ lại” ngày 6.11 vừa qua, tâm điểm chính là tốc độ tăng trưởng “âm” của nhóm các nước phát triển, điều mà ba thập kỷ trở lại đây mới xảy ra. Thay đổi mang tính bước ngoặt lớn nhất trong bức tranh này lại là sự “tụt dốc không phanh” của giá nguyên liệu thế giới sau năm năm liên tục tăng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2009 dự báo khoảng 2,2%, thấp nhất kể từ năm 1993 đến nay. -Trong khi các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển vẫn “gắng gượng” được trong cơn khủng hoảng này, thì hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước phát triển nhất thế giới đều suy giảm. Dù rơi tự do từ mức “đỉnh” 8% trong năm 2007 xuống còn 5,1% trong năm 2009, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển vẫn còn cao so với mức “đáy” 3,8% trong năm 2001. Điều tồi tệ có lẽ chưa từng có là đa số các nền kinh tế chủ chốt của thế giới đều rơi vào tình trạng “âm” rất cao, thí dụ như Anh dẫn đầu với –1,3%; Đức “về nhì” với –0,8%; Mỹ ở vị trí thứ ba với –0,7%... Với một nền kinh tế có hai đặc điểm nổi trội là “sống nhờ” vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, đồng thời phát triển phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam, điều đáng quan tâm nhất là giá nguyên liệu thế giới giảm, rồi mới tới sự suy giảm của các trung tâm kinh tế thế giới. Theo dự báo của IMF, giá dầu mỏ thế giới năm 2009 sẽ rơi tự do 31,8% và giá của nhóm hàng nguyên liệu phi dầu mỏ cũng giảm 18,7%. Tính chung, giá nguyên liệu thế giới trong năm tới giảm 21,38%. Sức mua trong nước giảm -Tốc độ tăng trưởng kinh tế có phần chậm lại, cộng với tác động của lạm phát cao trong thời gian qua, không chỉ thu nhập của đại bộ phận các tầng lớp dân cư trong xã hội tăng chậm lại và tốc độ tăng sức mua cũng chậm lại. Ngoài ra, không thể tránh khỏi nảy sinh tâm lý “thắt lưng buộc bụng” ở bộ phận dân cư khá giả. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến tốc độ tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm dần. Thậm chí có thể tụt xuống dưới ngưỡng 20% như những năm “hậu” khủng hoảng kinh tế khu vực hồi cuối thập kỷ trước. Do vậy, giá tiêu dùng khó có thể tăng cao. -Khi khủng hoảng kinh tế khu vực bùng phát năm 1997, tốc độ tăng xuất khẩu của nước ta đang dao động trong khoảng từ 33 – 35% của ba năm trước đó giảm mạnh xuống 26,59%, năm sau còn giảm tới đáy 1,91%. Tương ứng, tốc độ tăng GDP giảm từ mức 8,8 – 9,64% xuống còn 8,15% và sau đó là 5,76%. Gần tương ứng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong cùng kỳ đang từ tốc độ tăng 20,40 – 38,97% giảm xuống chỉ còn 10,99% và 14,64%. -Trong năm 2001, tác động của cuộc suy thoái mang tính chu kỳ và sự kiện 11.9 ở Mỹ khiến cho tốc độ tăng xuất khẩu cả năm chỉ đạt 3,77%, còn tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 6,89% và tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng dao động xung quanh ngưỡng 10%. -Trong bối cảnh thị trường xuất khẩu và trong nước cũng như giá cả thế giới như vậy, ngoại trừ năm 2008 là năm xảy ra sốt nóng giá lương thực, các năm còn lại đều là những năm giá tiêu dùng của nước ta hoặc là chỉ tăng rất thấp, hoặc là đứng yên và giảm. -Với những tác nhân nói trên, rất có thể chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức một chữ số ngay từ năm 2009 sắp tới. Thậm chí, có thể tính đến kịch bản tăng rất vừa phải ở mức 3 – 4,5% như các năm 1996 – 1997 và 2002 – 2003. -Nhìn lại diễn biến lạm phát năm 2008 có nhiều điểm đáng lưu ý. Tháng 5/2008, CPI một tháng tăng gần 4%, đó là thời điểm tăng đột biến của giá lương thực (CPI lương thực tăng 22.19%). Trước đó tháng 3/2008 lạm phát cũng tăng 3.56% so với tháng trước. Tính trung bình 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát lên tới 2.86% cho mỗi tháng. Các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp kìm chế lạm phát của chính phủ đồng thời từ tháng 9/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ bắt đầu lan rộng ra toàn cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh, nhờ đó lạm phát kể từ tháng 9 đã giảm mạnh so với những tháng trước đó. Liên tiếp 3 tháng 10, 11 và 12/2008 CPI tăng trưởng âm. Những tháng đầu năm 2009 lạm phát không còn là một vấn đề đáng lo ngại. Trung bình 7 tháng đầu năm lạm phát chỉ tăng 0.45%/tháng, so với tháng 12/2008 đến tháng 7/2009 lạm phát chỉ tăng 3.22%, trong đó lương thực thực phẩm giảm 0.33%. Lạm phát do chi phí đẩy ở Việt Nam Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua. Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90% GDP (2008), sự biến động của giá cả trên thế giới tác động ngay đến giá cả trong nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá của hầu hết các hàng hóa trong nước góp phần làm cho lạm phát ở Việt Nam bùng phát. Lạm phát do cung tiền ở Việt Nam Trên đây chúng ta xét đến yếu tố chi phí đẩy dù yếu tố này không giải thích được hoàn toàn nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam. Trong thời gian qua, cung tiền được mọi người xem là nguyên nhân căn bản gây nên lạm phát ở Việt Nam, sau đây chúng ta xem xét yếu tố này. Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) giải ngân lên tới 8 tỷ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007 ước tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Vốn viện trợ phát triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được khoảng 2 tỷ USD (năm 2007 là 2 tỷ USD, 2008 2.2 tỷ USD). Kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm từ 5-7 tỷ USD. Mặc dù, Việt Nam luôn bị thâm hụt th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở việt nam giai đoạn 2007 – 9-2010.doc
Tài liệu liên quan