Tiểu luận Ngân hàng Nhà nước Việt nam với việc điều hành chính sách tiền tệ hiện nay

MỤC LỤC

 Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ 2

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2

1.1. Ngân hàng trung ương 2

1.1.1. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng trung ương 2

1.1.2. Định nghĩa về ngân hàng trung ương 3

1.1.3. Chức năng của ngân hàng trung ương 3

1.2. Chính sách tiền tệ 6

1.2.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ 6

1.2.2. Hệ thống các mục tiêu chính sách tiền tệ 6

1.2.3. Công cụ của chính sách tiền tệ 9

1.2.4. Quy trình và cơ chế tác động của chính sách tiền tệ 14

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 17

2.1. Đặc điểm của chính sách tiền tệ Việt Nam 17

2.2. Đánh giá việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng

Nhà nước Việt Nam thời gian qua 18

2.2.1. Về mục tiêu của chính sách tiền tệ 18

2.2.2. Về điều hành chính sách tiền tệ 20

2.2.3. Về sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ 20

2.3. Những thành quả từ việc điều hành chính sách tiền tệ của

ngân hàng Nhà nước Việt Nam 25

2.3.1. Góp phần tăng trưởng kinh tế 25

2.3.2. Góp phần làm giảm lạm phát 25

2.3.3. Góp phần thực hiện ổn định công ăn việc làm 26

2.3.4. Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội khác 26

2.4. Những tồn tại trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam 27

2.4.1. Tồn tại trong điều hành chính sách tiền tệ 27

2.4.2. Những tồn tại trong sử dụng công cụ chính sách tiền tệ 27

 

2.5. Nguyên nhân của những tồn tại trong điều hành chính sách

tiền tệ ở Việt Nam 28

CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 30

3.1. Định hướng về mục tiêu của chính sách tiền tệ Việt Nam 30

3.2. Những quan điểm định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của

công cụ chính sách tiền tệ 31

3.3. Một số giải pháp điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới 33

3.3.1. Nhóm giải pháp liên quan đến thể chế 33

3.3.2. Nhóm giải pháp liên quan đến công cụ chính sách tiền tệ 35

3.3.3. Nhóm giải pháp có liên quan khác 37

KẾT LUẬN 39

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 40

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2243 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ngân hàng Nhà nước Việt nam với việc điều hành chính sách tiền tệ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế nhất định, chẳng hạn công cụ nghiệp vụ thị trường mở cần phải có một thị trường tài chính phát triển, cần hàng hóa đa dạng, phong phú, … Mỗi loại công cụ đều có những ưu thế và hạn chế riêng do đó ngân hàng trung ương cần xác định thích hợp các loại công cụ được sử dụng kết hợp để có hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ: tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định tiền tệ và công ăn việc làm cao. 1.2.4. Quy trình và cơ chế tác động của chính sách tiền tệ 1.2.4.1. Quy trình tác động của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ tác động đến mục tiêu chính sách thông qua những ảnh hưởng dây truyền bắt đầu từ công cụ chính sách tiền tệ đến mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian. Lãi suất trung và dài hạn Dự trữ bắt buộc Dự trữ ngân hàng Khối lượng tín dụng Lãi suất O/N Khối lượng tiền cung ứng Chính sách tái cấp vốn Nghiệp vụ thị trường mở Tỷ lệ lạm phát Tỷ lệ tăng trưởng Cân bằng cán cân thanh toán Tỷ lệ thất nghiệp - Quy trỡnh tỏc động của chớnh sỏch tiền tệ - Hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ: - Đặc điểm cơ chế tác động của chính sách tiền tệ: Thứ nhất, cơ chế tác động của chính sách tiền tệ mang tính lỏng. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ quy trình tác động của chính sách tiền tệ trải qua nhiều khâu trung gian và sự phản ứng của nền kinh tế đối với những tác động của chính sách tiền tệ thường có độ trễ. Thứ hai, cơ chế tác động của chính sách tiền tệ sử dụng các mối quan hệ thị trường để chuyển tải những tác động của ngân hàng trung ương. Cụ thể, chính sách tiền tệ tận dụng những ảnh hưởng về giá, về điều kiện tài chính cũng như hiệu ứng kỳ vọng của thị trường . - Hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ: được thể hiện qua khả năng ảnh hưởng của các công cụ chính sách tiền tệ tới các biến số thực của nền kinh tế. Thông qua các chỉ tiêu đo lường mức độ phản ứng, chiều hướng và tốc độ phản ứng của các biến số thực của nền kinh tế đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ mà đánh giá mức độ hiệu lực trong tác động của chính sách tiền tệ. Với đặc điểm tác động của chính sách tiền tệ, hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ phụ thuộc vào sự chủ động của ngân hàng trung ương và mối liên kết chặt chẽ giữa các mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc thiết kế cơ chế điều chỉnh chính sách tiền tệ thích hợp. 1.2.4.2. Cơ chế điều chỉnh của chính sách tiền tệ Thực chất là sự kết hợp giữa cơ chế kiểm soát và điều tiết các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế và cơ chế truyền dẫn những ảnh hưởng của các điều kiện tiền tệ đó tới toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế kiểm soát và điều tiết các điều kiện tiền tệ: là một hệ thống các biện pháp của ngân hàng trung ương được thiết kế theo quy trình và trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đạt được các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương có thể điều tiết các điều kiện tiền tệ – khối lượng tiền cung ứng hoặc mức lãi suất thị trường một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tuỳ vào hệ thống công cụ chính sách tiền tệ được lựa chọn. Cơ chế truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ: là một tập hợp những phản ứng dây truyền của các biến số vĩ mô khởi đầu từ những thay đổi của các điều kiện tiền tệ. Những phản ứng này tạo nên hệ thống “kênh” tác động đa phương của chính sách tiền tệ tới nền kinh tế. Hiệu quả chuyển tải của nó chịu ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, sự phát triển của hệ thống thị trường tài chính và tình trạng tài chính của những người tham gia thị trường . Dư nợ tín dụng Công cụ chính sách tiền tệ Dự trữ ngân hàng Tiền cơ sở MB Tiền cung ứng Chính sách tín dụng của Chính phủ Lãi suất liên ngân hàng Giá tài sản Tài sản thế chấp Lãi suất thị trường Lãi suất thực Tổng cầu AD Tỷ giá Cơ chế điều chỉnh về lượng: Cơ chế điều chỉnh qua lãi suất: - Cơ chế điều chỉnh của chính sách tiền tệ - Chương II. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua 2.1. Đặc điểm của chính sách tiền tệ Việt Nam Các khâu của chính sách tiền tệ Việt Nam: Mục tiêu chính sách: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang theo đuổi chính sách tiền tệ đa mục tiêu. Tuy nhiên nếu nhìn vào chỉ tiêu lạm phát từ 1995 đến nay có thể nhìn they sự lệch pha giữa những tác động của chính sách tiền tệ thông qua chỉ tiêu M2 (là lượng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống + tiền gửi không kỳ hạn + tiền gửi tiết kiệm + kỳ phiếu do ngân hàng phát hành) và mục tiêu chính sách. Có thể thấy rõ điều này qua bảng sau: Năm Tỷ lệ lạm phỏt (%) Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ tăng M2 (%) Mục tiờu Thực hiện Mục tiờu Thực hiện Mục tiờu Thực hiện 1995 10 12,7 9-10 9,5 19 22,6 1996 4,5 9,5 22,7 1997 7 3,6 9 24 26,1 1998 7-8 9,2 8,5-9 5,8 20 25,6 1999 10 0,1 5-6 4,8 16-17 39,28 2000 6 -0,6 5,5-6 6,76 38 39 2001 5 0,8 7,5-8 6,8 23 25,5 2002 5 4,0 7,5 7,04 23 17,6 2003-2005 (dự bỏo) 5-6 7,5 7,5 15-20 na Sự lệch pha này có thể xuất phát từ bản thân cách xác định chỉ tiêu lạm phát của tổng cục thống kê, nhưng nó cũng đặt ra một số vấn đề liên quan đến hiệu quả tác động của chính sách tiền tệ, cũng như mối liên quan trực tiếp giữa khối tiền M2 và các biến số thực của nền kinh tế. Mục tiêu trung gian: căn cứ vào tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trung gian, từ 1996 ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng chỉ tiêu mức tổng phương tiện thanh toán M2 làm mục tiêu trung gian. Bên cạnh đó, ngân hàng Nhà nước thực hiện việc kiểm soát một cách trực tiếp mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng thông qua một hệ thống trần lãi suất, đồng thời ấn định mức tỷ giá chính thức cho các giao dịch ngoại tệ, bán lẻ với một biên độ dao động do ngân hàng Nhà nước khống chế. Hệ thống công cụ chính sách tiền tệ: Hiện nay, ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn sử dụng đồng thời hai loại công cụ chính sách tiền tệ. Một là, hệ thống công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp, bao gồm các công cụ: hạn mức tín dụng, tỷ giá, lãi suất và các chính sách hỗ trợ. Hai là, hệ thống công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp, đó là: công cụ dự trữ bắt buộc, chính sách tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở. Đặc điểm cơ chế điều chỉnh của chính sách tiền tệ Việt Nam. Chính sách tiền tệ Việt Nam đang chuyển dần sang cơ chế kiểm soát tiền tệ gián tiếp (đặc biệt là công cụ nghiệp vụ thị trường mở). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiêng về sử dụng cơ chế điều chỉnh các điều kiện tiền tệ về lượng (khối lượng tiền) hơn là sử dụng cơ chế điều chỉnh qua giá (lãi suất) trong việc điều hành chính sách tiền tệ. 2.2. Đánh giá việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua 2.2.1. Về mục tiêu của chính sách tiền tệ Trong hơn 10 năm đổi mới, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ hướng vào kiểm soát lạm phát, tạo môi trường ổn định để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự ổn định hệ thống. Việc xác định và lựa chọn mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được thực hiện phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Trong hơn 10 năm qua, ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đổi mới mạnh mẽ điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, vận hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, thực hiện cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ. Do đó, đã đảm bảo khối lượng tiền tệ, tín dụng cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng thương mại, góp phần đáng kể trong việc thay đổi bộ mặt đất nước. Từ một nước có tỷ lệ lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, thiếu hụt ngân sách triền miên, cán cân thanh toán quốc tế bội chi lớn trong nhiều năm liên tục, qua quá trình đổi mới Việt Nam đã trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục duy trì trong nhiều năm, tỷ lệ lạm phát ở mức một con số từ năm 1996 trở lại đây, dự trữ ngoại tệ tăng dần, cán cân thanh toán được cải thiện. Bên cạnh đó, Việt Nam đã giảm mạnh tình trạng đói nghèo, duy trì ổn định chính trị – xã hội, mở rộng công ăn việc làm ở cả đô thị và nông thôn. Các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả, số ngân hàng kinh doanh có lãi ngày càng tăng, đóng góp đáng kể cho Ngân sách Nhà nước. Hệ thống ngân hàng đã không ngừng đẩy mạnh công tác huy động vốn, đáp ứng nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển đất nước. Hoạt động tín dụng được mở rộng đối với mọi thành phần kinh tế để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 9 tháng 2003 Lạm phát (CPI) 67,4 17,5 5,3 14,4 12,7 4,5 3,6 9,0 0,1 -0,6 -0,2 4,0 1,8 Tăng trởng (GDP) 5,8 8,7 8,1 8,8 9,5 9,3 8,8 5,8 4,8 6,8 6,8 7,0 7,1 Đơn vị tính: %/năm - Tăng trưởng kinh tế và lạm phát 1991 – 2003 - 2.2.2. Về điều hành chính sách tiền tệ Trước những năm 1990, chỉ tiêu phát hành tiền do chính phủ quy định và thường xuyên được dùng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Ngân hàng Nhà nước điều hành lượng tiền cung ứng qua việc khống chế lượng tiền mặt phát hành ra lưu thông mà không quan tâm đến việc tăng M2 qua kênh tín dụng của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại và kênh tăng tín dụng cho nền kinh tế. Việc quản lý tín dụng được thực hiện theo kế hoạch vay vốn của doanh nghiệp, cho vay theo chỉ định của chính phủ. Việc cho vay này chủ yếu nhằm bù đắp vốn lưu động thiếu của các doanh nghiệp mà không dựa trên hiệu quả kinh doanh. Cùng với đó, tỷ giá được quản lý theo cơ chế tỷ giá cố định, các luồng vốn chưa được quan tâm kiểm soát, chưa hình thành cán cân thanh toán quốc tế. Chính sách tiền tệ điều hành như vậy là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát phi mã, giai đoạn 1986 – 1989. Từ 1991, ngân hàng Nhà nước đã xác định khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Đồng thời, ngân hàng Nhà nước đã lựa chọn sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chủ động điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng được chính phủ phê duyệt hàng năm. Đặc biệt, từ năm 1996, ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý, điều hành hiệu quả lượng tiền cung ứng, sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm soát lạm phát ở mức một con số. Thực tế trong những năm gần đây, kinh tế trong nước và quốc tế có những tác động bất lợi đến hoạt động của thị trường tiền tệ. Những cơn sốt giá cả trên thị trường bất động sản và sự suy giảm lãi suất trên thị trường quốc tế làm chao đảo nguồn vốn trên thị trường tiền tệ Việt Nam. Song với quan điểm điều hành trên, ngân hàng Nhà nước đã kịp thời điều tiết cung – cầu vốn trên thị trường thông qua các công cụ tiền tệ gián tiếp, thực hiện đổi mới chính sách lãi suất và tỷ giá, qua đó đưa thị trường tiền tệ hoạt động theo xu hướng ổn định. 2.2.3. Về sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ Trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp kết hợp với các công cụ gián tiếp và tong bước đổi mới chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng của các công cụ chính sách tiền tệ trong việc nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong những năm qua, ngân hàng Nhà nước rất chú trọng hoàn thiện và đổi mới các công cụ này. Công cụ dự trữ bắt buộc: Công cụ dự trữ bắt buộc được chính thức thực hiện từ năm 1992. Từ đó đến nay, công cụ này không ngừng được hoàn thiện. Lúc đầu, tiền dự trữ bắt buộc được duy trì tại một tài khoản riêng và tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Theo đó, vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát tiền cung ứng nhưng lại hạn chế ngân hàng Nhà nước dự báo nhu cầu tăng, giảm dự trữ của các ngân hàng thương mại và vốn của các ngân hàng thương mại không được sử dụng linh hoạt. Để khắc phục hạn chế trên, năm 1995 công cụ dự trữ bắt buộc đã được đổi mới: tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% áp dụng cho các loại tiền gửi dưới 1 năm, và trong cơ cấu tiền dự trữ bắt buộc có 70% phải gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc phải gửi tại ngân hàng Nhà nước. Theo đó, ngân hàng Nhà nước có thể dự báo nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng thông qua theo dõi mức dự trữ vượt nhưng việc khống chế theo ngày cùng với sự phát triển thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên cứng nhắc, các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt, hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệu quả của tổ chức tín dụng. Bước đổi mới tiếp theo gắn liền với hai luật ngân hàng. Từ năm 1999, công cụ dự trữ bắt buộc được áp dụng mở rộng thêm với các đối tượng: ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0-20%; đặc biệt là số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình quân số dư tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước trong kỳ duy trì. Theo đó các tổ chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn, ngân hàng Nhà nước có thể dự đoán được nhu cầu dự trữ của ngân hàng thương mại, tăng khả năng kiểm soát tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. Thêm nữa, từ năm 1999 tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh ngày càng linh hoạt phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Đặc biệt năm 2000, ngân hàng Nhà nước thực hiện điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ từ 5% lên 8% (từ 10/10/2000) sau đó tiếp tục tăng lên 12% (từ 1/12/2000) và đến tháng 5/2001 tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đã tăng lên 15%. Đồng thời ngân hàng Nhà nước đã quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND xuống 3%. Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã có tác động nhất định đến việc hạn chế dòng chuyển đổi từ VND sang USD, khắc phục tình trạng khan hiếm VND của các tổ chức tín dụng, góp phần thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Công cụ hạn mức tín dụng Công cụ này áp dụng từ năm 1994, xuất phát từ thực tế lạm phát có xu hướng tăng cao, tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh. Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, ngân hàng Nhà nước chưa thể sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng Nhà nước đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để hạn chế số nhân tiền tệ, qua đó kiểm soát sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán. Việc áp dụng công cụ hạn mức tín dụng từ năm 1994 đến 1997 đã góp phần kiểm soát mức độ gia tăng của tổng phương tiện thanh toán, góp phần kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, hạn mức tín dụng là công cụ điều hành mang tính trực tiếp, chỉ được phân bổ đối với một số các ngân hàng thương mại nên phần nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Từ 1998 đến nay, trong điều kiện nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển rất lớn, lạm phát có xu hướng giảm thấp, việc áp dụng công cụ này phần nào ảnh hưởng đến việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Từ quý II/1998, ngân hàng Nhà nước quyết định không sử dụng hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ, chỉ dùng đến khi cần hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh chóng có nguy cơ lạm phát cao. Công cụ tái cấp vốn Công cụ tái cấp vốn đã được từng bước đổi mới theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ này, tỷ trọng tái cấp vốn theo hình thức thế chấp các chứng từ có giá tăng dần, tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định ngày càng giảm. Bên cạnh hai hình thức tái cấp vốn trên, từ năm 1991 ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cho vay bù trừ – một hình thức tái cấp vốn ngắn hạn đối với các ngân hàng thương mại để bù đắp thiếu hụt thanh toán tạm thời. Trong hình thức cho vay thế chấp chứng từ thì chứng từ thế chấp từ chỗ chỉ gồm: tín phiếu kho bạc chưa đến hạn thanh toán, khế ước cho vay ngắn hạn; sau được mở rộng đối với cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại ngân hàng Nhà nước. Quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được từng bước đổi mới phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Từ năm 1994 đến đầu năm 1997, lãi suất tái cấp vốn được quy định theo tỷ lệ phần trăm trên lãi suất cho vay áp dụng đối với dự án cho vay của tổ chức tín dụng. Nhưng từ cuối tháng 5/1997, lãi suất tái cấp vốn được xác định mức cụ thể để phù hợp với thông lệ quốc tế và để cung cấp tín hiệu về mục tiêu chính sách tiền tệ (nới lỏng hay thắt chặt). Đặc biệt từ năm 1999, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với diễn biến cung cầu vốn trên thị trường và phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở Ngày 12/7/2000, ngân hàng Nhà nước khai trương nghiệp vụ thị trường mở. Việc ngân hàng Nhà nước chính thức thực hiện nghiệp vụ thị trường mở là một bước tiến mới trong đổi mới điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển của nền kinh tế. Trong năm 2000, nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn, đúng quy định với định kỳ 10 ngày/lần. Tuy tác động của nghiệp vụ thị trường mở đến những điều kiện của thị trường tiền tệ chưa đáng kể, việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, bám sát diễn biến thị trường, phần nào điều chỉnh vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, thu hút khi thừa và bơm thêm vốn khả dụng khi thiếu hụt. Sau một số năm hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở đã bước đầu phát huy hiệu quả số phiên giao dịch dần được tăng cường, thời gian thanh toán cũng được thực hiện ngay trong ngày giao dịch (T+O). Việc sử dụng linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở đã có tác động đến quá trình điều tiết và ổn định tiền tệ – lãi suất. Đặc biệt, cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác như nghiệp vụ SWAP tiền tệ (nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ), tái cấp vốn, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần giải quyết khó khăn về vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng trong một số thời điểm thiếu hụt. Tăng cường nghiệp vụ thị trường mở còn tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại nâng cao khả năng quản lý vốn khả dụng, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và có giải pháp kịp thời về nguồn vốn. Tuy nhiên, cho đến nay, số lượng thành viên tham gia còn hạn chế, chỉ bao gồm 20 tổ chức tín dụng (năm 2002). Tại mỗi phiên giao dịch chỉ có 1-5 thành viên tham gia. Hàng hóa trên thị trường còn rất hạn hẹp hiện tại chỉ bao gồm tín phiếu ngân hàng Nhà nước và tín phiếu kho bạc Nhà nước. Công cụ lãi suất Năm 1992, ngân hàng Nhà nước đã thực hiện một bước chuyển đổi quan trọng chuyển từ chính sách lãi suất âm sang chính sách lãi suất dương. Việc chuyển đổi này là bước khởi đầu tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hóa lãi suất, tạo đòn bẩy cho các ngân hàng thương mại chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. Từ tháng 8/2000, ngân hàng Nhà nước đã thay thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Lãi suất cơ bản được xác định trên cơ sở lãi suất thị trường với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát lãi suất của ngân hàng Nhà nước. Từ tháng 6/2002, ngân hàng Nhà nước thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Như vậy, tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng VND trên cơ sở cung-cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay. Trong những năm gần đây, việc xử lý mối quan hệ giữa lãi suất VND và lãi suất USD, quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá ngày càng được ngân hàng Nhà nước coi trọng. Thực tế, việc điều hành linh hoạt lãi suất và tỷ giá đã làm chúng trở thành công cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Về tỷ giá Năm 1994, cùng với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành tỷ giá theo cơ chế mới: ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ và đồng Việt Nam, tỷ giá mua bán trên thị trường được phép dao động trong biên độ cho phép. Năm 1999, ngân hàng Nhà nước đã thực hiện đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá theo các nguyên tắc thị trường bằng việc hàng ngày công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Việc điều hành tỷ giá theo hướng sát với diễn biến cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Với cơ chế điều hành tỷ giá và việc can thiệp kịp thời của ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại tệ trong những năm qua tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD tương đối ổn định, góp phần thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, qua đó cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước. Có thể nói việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện, những nỗ lực của ngân hàng Nhà nước trong việc đổi mới các công cụ chính sách tiền tệ đã góp phần thực hiện được các mục tiêu của chính sách tiền tệ đảm bảo tăng trưởng kinh tế liên tục, duy trì ổn định tiền tệ và tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân và đảm bảo được các mục tiêu kinh tế – xã hội khác. 2.3. Những thành quả từ việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.3.1. Góp phần tăng trưởng kinh tế Kể từ khi có hai pháp lệnh ngân hàng đến nay, hệ thống ngân hàng đã không ngừng được tăng cường và mở rộng nguồn vốn tín dụng để cung cấp vốn, đầu tư cho các doanh nghiệp, từ đó giúp nền kinh tế Việt Nam nói chung và từng ngành sản xuất nói riêng đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Xét trên giác độ vĩ mô, thông qua việc thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở hai khía cạnh: Thứ nhất, chính sách tiền tệ góp phần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định để thu hút được nguồn vốn đáng kể cho đầu tư; Thứ hai, gián tiếp tạo vốn và kích thích đầu tư phát triển kinh tế. Việc sử dụng linh hoạt và mềm dẻo chính sách lãi suất trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ đã khiến các tổ chức tín dụng điều chỉnh mức lãi suất huy động một cách hợp lý làm cho nguồn vốn huy động trong nước tăng liên tục; thêm vào đó, nguồn vốn huy động từ nước ngoài cũng được hệ thống ngân hàng khai thác triệt để, đáp ứng chiến lược vốn phục vụ tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.3.2. Góp phần làm giảm lạm phát Có thể thấy rằng, trong nhiều năm qua ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đóng vai trò chủ chốt trong việc ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam, góp phần ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát, phục vụ sự tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ 1986-1989, nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng lạm phát phi mã, người dân mất lòng tin vào đồng Việt Nam, nhưng đến nay sau hàng loạt đổi mới hệ thống ngân hàng, đổi mới công cụ chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ thì ngân hàng Nhà nước đã dần lấy lại được lòng tin, nhờ đó nền kinh tế đi dần vào ổn định, tỷ lệ lạm phát trong nhiều năm được kiềm chế ở mức một con số, giá trị của VND được coi là khá ổn định trong khu vực. Điều này chứng tỏ cho sự đúng đắn của đường lối đổi mới kinh tế nói chung và vận hành có hiệu quả chính sách tiền tệ của hệ thống ngân hàng nói riêng. 2.3.3. Góp phần thực hiện ổn định công ăn việc làm Ngoài những thành quả kể trên, việc thực thi chính sách tiền tệ đúng đắn đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Sự ổn định môi trường vĩ mô tạo lợi thế cho môi trường đầu tư, thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các ngành, mở rộng sản xuất. Từ đó tạo thêm công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Trong những năm gần đây, Việt Nam có tỷ lệ tạo việc làm nhanh hơn tỷ lệ tăng dân số, vì vậy tỷ lệ thất nghiệp có chiều hướng giảm đi. Trong thời kỳ 1995-1998 ước tính Việt Nam đã giải quyết được 1,3 triệu việc làm mới mỗi năm. Rõ ràng, việc mở rộng đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế khiến cho công ăn việc làm được cải thiện rõ nét. 2.3.4. Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội khác Việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua mang lại nhiều hiệu quả góp phần ổn định tỷ giá hối đoái, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển, đặc biệt là xuất khẩu. Năm 1997, trong khu vực xảy ra cuộc khủng hoảng tiền tệ nhưng với sự điều chỉnh kịp thời của ngân hàng Nhà nước mà nền kinh tế Việt Nam không bị ảnh hưởng lớn, xuất khẩu vẫn tăng 4% (năm 1998). Từ đó kích thích sản xuất trong nước phát triển. Quá trình thực thi chính sách tiền tệ tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong những năm qua còn góp phần đáng kể vào các quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo, … Những thành công có được từ việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35642.doc
Tài liệu liên quan