Tiểu luận Nợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay

- Đến năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam ước khoảng 44,6% GDP và tổng nợ công đã vượt quá 50% GDP. Theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn ở mức rủi ro thấp của nợ nước ngoài nhưng cần lưu ý rằng khoản nợ này chưa tính đến nợ của các doanh nghiệp nhà nước không được chính phủ bảo lãnh. Hơn nữa, vấn đề ở đây không chỉ là tỷ lệ nợ so với GDP mà cả quy mô và tốc độ của nợ nước ngoài và nợ công của Việt Nam gần đây đều có xu hướng tăng mạnh. Nếu năm 2001, nợ công đầu người là 144 USD thì đến năm 2010 lên tới 600 USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 18%. Nợ công tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách lớn và hiệu quả đầu tư công thấp đặt ra những lo ngại về tính bền vững của nợ cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc cần tăng cường quản lý và giám sát nợ công một cách chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ở Việt Nam.

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8496 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm cứ lấy tiền ngân sách ra chi trả và quên đi cái quỹ kia. Nguyên tắc là phải tính và cái quỹ đó chính là nợ của nhà nước với công chức (bao gồm công chức, giáo viên và nhân viên y tế trong khu vực công, quân đội, cảnh sát, và có thể cả những người làm việc cho doanh nghiệp nhà nước). Phần nhà nước đóng góp đáng lẽ phải có (dù không đóng) vẫn phải tính vào chi tiêu. Trong trường hợp dựa vào hợp đồng đã ký về hưu trí, nếu đóng góp không đủ để chi trả trong tương lai thì phải tính vào nợ. Các nước đang phát triển như Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Thái Lan. Trong các nước châu Á thì Singapore đã ghi theo đúng chuẩn mực và vì thế tỷ lệ nợ của họ rất cao, xếp hàng thứ 6 thế giới (xem bảng 1). Hầu hết các nước phát triển trong đó có Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các nước trong khối Liên hiệp châu Âu (EU) đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc. Ở EU, việc tính này đã thành luật. Đó là lý do các nước này đều có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với các nước này là bắt đầu vượt ngưỡng an toàn. Còn đối với các nước đang phát triển, khi không tính nợ hưu trí thì có lẽ là 50% (tất nhiên là tùy từng nước, tùy theo nước đó có chính sách hưu trí cho công chức không và tỷ lệ nằm trong diện công chức lớn như thế nào). Ở các nước phát triển, tỷ lệ nợ công có thể bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ nợ nhà nước vì khu vực quốc doanh không đáng kể, và do đó họ vẫn chỉ tập trung vào nợ nhà nước. Các chỉ tiêu đánh giá nợ công: Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ số đánh giá phổ biến nhất cho cái nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một quốc gia, đánh giá mức an toàn của nợ công. Mức độ an toàn được thể hiện qua việc nợ công có vượt ngưỡng an toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó. Để bảo đảm an toàn của nợ công, các nước thường sử dụng các tiêu chí sau làm giới hạn vay và trả nợ: Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP. Tuy nhiên, trên thực tế không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế; không phải tỷ lệ nợ công trên GDP thấp là trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Chẳng hạn, Hoa Kỳ có tỉ lệ nợ bằng 96% GDP, nhưng vẫn được xem là ở ngưỡng an toàn bởi năng suất lao động cao nhất thế giới là cơ sở đảm bảo bền vững cho việc trả nợ. Nhật Bản có số nợ tương đương với 200 % GDP vẫn được coi là ở ngưỡng an toàn. Trong khi đó, nhiều nước có tỷ lệ nợ trên GDP thấp hơn rất nhiều nhưng đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ như: Venezuela năm 1981 tỷ lệ đó là 15% GDP, tương tự với Thái Lan năm 1996; trường hợp Argentina năm 2001 là 45% GDP; Ukraina năm 2007 chỉ với 13 % GDP và Rumani là 20% GDP. Mới đây là trường hợp của Hy Lạp với tỷ lệ nợ lên đến 113,5 % GDP, Ireland ước khoảng 98,5 % GDP. Chính vì vậy, để xác định, đánh giá đúng đắn mức độ an toàn của nợ công, không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ nợ trên GDP, mà cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân, nhất là: tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư toàn xã hội... Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ lưỡng khi đánh giá tính bền vững nợ công. Các nghiên cứu về nợ công tác động đến tăng trưởng kinh tế: Theo Modigliani (1961) thì nợ quốc gia tác động trực tiếp làm tăng lãi suất trong dài hạn, ảnh hưởng tới động cơ đầu tư của khu vực tư nhân cũng như động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng. Cụ thể khi lãi suất trái phiếu tăng, thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến giảm tiêu dùng, trong khi đó các doanh nghiệp lại hạn chế đầu tư. Mặt khác, theo Modigliani những ảnh hưởng lên dòng vốn thuộc khu vực tư sẽ làm giảm thu nhập thực của các thế hệ trong tương lai, đồng nghĩa với việc tạo gánh nặng cho các thế hệ sau này. “Nợ công và tăng  trưởng kinh tế toàn cầu” (của Manmohan S. Kumar và Jaejoon Woo) – (IMF Working paper - Public Debt and Growth, Manmohan S. Kumar and Jaejoon Woo 07-2010): Sự gia tăng nhanh chóng trong nợ công ở những quốc gia phát triển là một bằng chứng dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu. Mức độ nợ công lớn có thể tác động bất lợi lên mức tích lũy vốn, năng lực sản xuất và làm giảm tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể xảy ra thông qua mức lãi suất dài hạn cao hơn, hệ thống thuế trong tương lai bị méo mó, lạm phát cao… Nếu tăng trưởng kinh tế bị tác động bất lợi, thì vấn đề bền vững tài chính có thể trở nên tồi tệ. Điều này làm gia tăng rủi ro của các nỗ lực điều hành chính sách tài khóa nhằm giảm các khoản nợ xuống mức bền vững hơn. Cụ thể: bình quân, một sự gia tăng 10 điểm% trong tỷ lệ nợ/GDP đầu kỳ đi kèm với một sự sụt giảm trong tăng trưởng GDP thực / người hàng năm: + Khoảng 0.2 điểm % mỗi năm đối với nhóm nước tiên tiến. + Khoảng 0.15 điểm % mỗi năm đối với nhóm nước mới nổi. Hội chứng lần này thì khác (This Time Is Different: Eight Centuries of Financial Folly Carmen M. Reinhart & Kenneth S. Rogoff, Princeton University Press, 2009). + Nợ ngắn hạn: Khi mức nợ quốc gia đang ở mức cao, chính phủ lại có xu hướng vay nợ ngắn hạn để tài trợ cho những dự án dài hạn, làm gia tăng rủi ro vỡ nợ. + Nợ tiềm ẩn: Việc các chính phủ bảo lãnh thường xuyên khoản nợ và xem như là nợ của các cơ quan chính phủ, có thể gánh chịu một rủi ro rất lớn Công trình nghiên cứu năm 2010 của Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ (NBER), được khảo sát trên 44 quốc gia, cho ra kết quả: + Nợ công - tăng trưởng kinh tế: quan hệ yếu. + Ngưỡng nợ 90% GDP, Tăng trưởng trung bình giảm 4%: khi tỷ lệ nợ/GDP vượt ngưỡng 90% thì nó tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế và làm giảm đi 4% trong tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. + Đặc biệt, đối với các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam thì ngưỡng nợ/GDP là 60%, tỷ lệ nợ vượt quá ngưỡng này sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế hàng năm khoảng 2%. Hội thảo "Tác động nợ công đối với nền kinh tế toàn cầu" – Đại học kinh tế, 11/2010): nợ công gia tăng sẽ làm tăng lãi suất dài hạn của nền kinh tế và sự bất ổn trong chính sách tiền tệ. Sự gia tăng trong tỷ lệ nợ/GDP vượt ngưỡng 82 - 90% sẽ làm cho tiết kiệm của khu vực tư nhân không tồn tại. Tỷ lệ nợ/GDP vượt ngưỡng 45 - 68% sẽ làm cho đầu tư công bị cắt giảm và nếu vượt trên mức 100% thì năng suất của nền kinh tế suy giảm trầm trọng. Thâm hụt ngân sách, nợ công và lãi suất trái phiếu chính phủ (Emaluele Baldacci và Manmohan S. Kumar): Tác động ngược của cán cân ngân sách lên lãi suất: Thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm, tăng tổng cầu. Từ đó, tăng cung nợ Chính phủ dẫn đến lãi suất trái phiếu tăng. Cụ thể: + 1% của sự gia tăng thâm hụt tài khóa làm cho lãi suất đáo hạn của trái phiếu dài hạn CP tăng 17 điểm cơ bản. + Một sự thâm hụt ban đầu hơn 2%GDP nâng tác động lên LS trái phiếu thêm khoảng 14 điểm cơ bản cho mỗi %GDP thâm hụt. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Theo bản đồ nợ của The Economist, p; số nợ chi tiết của Việt Nam là 50.716.438.356 USD (50,7 tỷ USD), chiếm 51,7% GDP. Điều này có nghĩa là với dân số 87,6 triệu, mỗi người Việt Nam gánh 578,65 USD nợ công. Cũng theo thống kê này, kể từ năm 2001 đến nay, số nợ trên đầu người của Việt Nam ngày càng tăng. Hồi 2001, tỷ lệ nợ công trên GDP tương đương 26,6% và nợ công đầu người chỉ là 106 USD. Dự báo cho năm 2011 khả quan hơn khi mặc dù nợ công tăng thêm gần 6 tỷ USD, nhưng tỷ lệ so với GDP giảm xuống còn 50,9%. Tuy nhiên, vào lúc đó, nợ công đầu người là 638 USD. Cơ cấu nợ công Cơ cấu nợ công tính đến cuối năm 2009 gồm: nợ Chính phủ chiếm 79,3%; nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm khoảng 3,1%. Trong nợ Chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60% (trong đó 85% là ODA); nợ trong nước chiếm 40%. Xét về thời hạn, nợ trung và dài hạn chiếm 97%; nợ ngắn hạn (tín phiếu kho bạc) chỉ chiếm 3% trong tổng số dư nợ Chính phủ. Một khối lượng vốn lớn được huy động  bổ sung cho đầu tư phát triển, cân đối ngân sách nhà nước, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Tổng trị giá vốn vay trong và ngoài nước giai đoạn 2001 - 2009 chiếm khoảng 26% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm, riêng vốn vay của Chính phủ chiếm khoảng 17%. Cùng với các nguồn lực khác, vốn vay đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5%/năm trong 10 năm qua. Riêng trong năm 2009, tổng số vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết cho nước ta đạt khoảng 47,4 tỷ USD, đã đàm phán và ký kết các Hiệp định vay ODA và vay ưu đãi với tổng giá trị 37,5 tỷ USD và đã được giải ngân 19,5 tỷ USD, chiếm 52% so với tổng số vốn ODA đã ký vay. Đây là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư bằng vốn ODA chiếm khoảng 12% tổng đầu tư toàn xã hội. Tác động của nợ công đối với tăng trưởng Mức độ nợ công lớn có thể tác động bất lợi lên mức tích luỹ vốn, năng lực sản xuất và làm giảm tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể xảy ra thông qua mức lãi suất dài hạn cao hơn, hệ thống thuế trong tương lai bị méo mó, lạm phát cao… Nếu tăng trưởng kinh tế bị tác động bất lợi, thì vấn đề bền vững tài chính có thể trở nên tồi tệ. Điều này làm gia tăng rủi ro của các nỗ lực điều hành chính sách tài khoá nhằm giảm các khoản nợ xuống mức bền vững hơn. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, về cơ cấu tổng thu của Việt Nam, thu từ dầu thô liên tục ở mức cao (trên 20%), thu từ lĩnh vực xuất nhập khẩu trên 20%, các khoản thu trong nước trên 50%. Nhưng đáng chú ý là thu từ việc bán đất đai khá cao (khoảng 8%). Có thể thấy các khoản thu này là không bền vững. Bảng 3: Thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2011 Nguồn thu chính của Chính phủ là từ thuế nhưng cơ cấu thu thuế chỉ chiếm khoảng 40% trong tổng nguồn thu. Cơ cấu tổng chi của Việt Nam cho thấy chi đầu tư phát triển luôn ở mức cao (quanh 30% tổng chi) nhưng hiệu quả đầu tư rất thấp (thể hiện qua hệ số ICOR của các doanh nghiệp (DN) nhà nước cao hơn nhiều so với DN FDI và tư nhân). Mô hình tăng trưởng hiện tại của Việt Nam dựa vào nguồn vốn là chủ yếu. Mà nguồn vốn lại được sử dụng không tốt đã gây nên sự lãng phí kéo dài. Chính phủ trong thời gian qua tăng cường phát hành trái phiếu và vay mượn để đầu tư do áp lực đầu tư và chi tiêu quá cao. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa chỉ đạt khoảng 27% trên GDP, trong khi đó tỷ lệ đầu tư lại luôn trên 40%. Hệ quả dẫn tới lãi suất trái phiếu chính phủ phải ở mức cao; làm thoái lui đầu tư tư nhân; gây sự bất ổn trên thị trường vốn. Trong bảng cơ cấu nợ công của Việt Nam được công bố bởi IMF cho thấy, mức nợ nước ngoài chiếm hơn 60% so với nợ trong nước. Nợ nước ngoài cao sẽ tác động lên nợ công tăng cao bởi niềm tin mất giá tiền đồng ở Việt Nam là khá lớn. Con số về bảo lãnh nợ của Chính phủ trong thực tế có thể cao hơn nhiều. Trong ngắn hạn, tăng trưởng ở Việt Nam không mang tính bền vững. Việc giải quyết bài toán lạm phát đồng nghĩa với tăng trưởng thấp, nguồn thu để trả nợ cũng bị thu hẹp, dẫn tới vòng xoáy tiếp tục vay mượn cao hơn, gây áp lực lên nợ công. Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô bất ổn và các chính sách điều hành gây mất lòng tin sẽ khiến cho tăng chi phí vốn vay, tăng áp lực nợ trên cả thị trường trong và ngoài nước. Nhìn về trung hạn và dài hạn, nguồn thu từ thuế sẽ bị ảnh hưởng mạnh bởi lộ trình cắt giảm thuế quan từ các mặt hàng xuất nhập khẩu. Nguồn thu từ dầu thô và bán đất đai, DN cũng là không ổn định và bền vững. Bước lên vị thế là một nước có thu nhập trung bình, thì các dòng vốn hỗ trợ không hoàn lại hay lãi suất thấp sẽ giảm dần và cuối cùng thay thế bằng lãi suất theo thị trường. Bên cạnh đó, nguồn chi cũng sẽ tăng lên mạnh mẽ trong thời gian tới. Nguyên nhân là do các hạng mục đầu tư cho dân sinh - xã hội tăng lên đáng kể, nhu cầu đầu tư để tăng trưởng và phát triển. Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nổ ra tháng 9/2008 đang chồng chất lên vai các quốc gia gánh nặng nợ nần do họ phải đi vay để chi tiêu và cứu trợ kinh tế. Hy Lạp đứng trước nguy cơ vỡ nợ, nhiều nước trong khu vực đồng euro cũng nợ ở mức báo động. Mức nợ công của Việt Nam cũng sắp xấp xỉ ở mức nợ tối thiểu tính theo GDP đối với các thành viên thuộc khu vực euro. Theo Bảng xếp hạng nợ công của nhiều tổ chức tài chính quốc tế thì năm 2008, nợ công của Việt Nam tương đương 52,6% GDP, đứng vị trí thứ 44 về nợ công trong tổng số gần 200 nền kinh tế được xếp hạng. So với nhiều nước khác, kể cả so với những nền kinh tế hàng đầu thế giới, như Mỹ (nợ công tương đương 53% GDP), Nhật Bản (192% GDP, năm 2010 đã lên 227% GDP), Ý (115% GDP), Pháp (80% GDP), Đức (77% GDP)…, nợ công của Việt Nam có vẻ như là khá an toàn. Để phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, cũng như nhiều quốc gia khác, năm 2010 Việt Nam phải tiếp tục vay nợ để đầu tư, cho nên nợ công tiếp tục tăng mạnh lên mức 56,7% GDP. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh thì nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn và Bộ Tài chính hoàn toàn có thể kiểm soát được. Nợ công đến cuối năm 2009 của Việt Nam khoảng 44,7% GDP, trong đó nợ do Chính phủ vay là 35,4% GDP, nợ được Chính phủ bảo lãnh là 7,9% GDP và nợ của chính quyền địa phương là 1,4% GDP. Chính phủ dự kiến nợ công trong năm 2011 sẽ là 57,1% GDP. Nếu tính bình quân đầu người, thì mỗi người Việt Nam gánh 578,65 USD nợ công. Đến năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam ước khoảng 44,6% GDP và tổng nợ công đã vượt quá 50% GDP. Theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn ở mức rủi ro thấp của nợ nước ngoài nhưng cần lưu ý rằng khoản nợ này chưa tính đến nợ của các doanh nghiệp nhà nước không được chính phủ bảo lãnh. Hơn nữa, vấn đề ở đây không chỉ là tỷ lệ nợ so với GDP mà cả quy mô và tốc độ của nợ nước ngoài và nợ công của Việt Nam gần đây đều có xu hướng tăng mạnh. Nếu năm 2001, nợ công đầu người là 144 USD thì đến năm 2010 lên tới 600 USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 18%. Nợ công tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách lớn và hiệu quả đầu tư công thấp đặt ra những lo ngại về tính bền vững của nợ cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc cần tăng cường quản lý và giám sát nợ công một cách chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ở Việt Nam. Biểu đồ 4: Nợ công thời kỳ 2006-2010 Nói như vậy để thấy rằng, nợ công của Việt nam đang tăng và mỗi công dân đều có quyền lợi và cả trách nhiệm từ các khoản vay của Nhà nước. Dẫu các chuyên gia kinh tế quốc tế cho rằng, ngưỡng nợ công hơn 50% GDP của Việt nam là có thể chấp nhận được, nhưng Việt Nam không thể chủ quan. Thực tế cho thấy ngưỡng nợ hay quy mô nợ chỉ là điều kiện cần thiết để hạn chế các nguy cơ về ngân sách có thể xảy ra. Nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng về lý thuyết mức nợ công của Việt Nam “không có vấn đề gì” nhưng Việt Nam phải tính tới “phần chìm của tảng băng”, tức là những khoản nợ ngầm, các khoản nợ ngân hàng, nợ doanh nghiệp của Nhà nước vay mà Chính phủ phải bảo lãnh. Đây là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với kinh tế Việt Nam. Theo ông Alex Warren – Rodriguez, chuyên gia Kinh tế trưởng của Chương trình phát triển liên hợp quốc UNDP tại Việt Nam cho rằng nếu chỉ vào ngưỡng nợ công tính trên GDP là chưa đủ. Bởi Việt Nam chưa thể dự báo được những điều sẽ xảy ra, mà cần phải có một “thước đo chuẩn” từ các nền kinh tế khác có hoàn cảnh và điều kiện kinh tế tương tự. Dẫn ví dụ từ trường hợp của Argentina, một quốc gia dù có mức nợ công dưới 60% và ngân sách tài chính khá tốt, nhưng vẫn xảy ra khủng hoảng nợ. Điều quan trọng là phải giám sát được thực trạng kinh tế vĩ mô. Nợ công và nợ tư xuất phát từ tình hình tài chính, dựa trên tình hình kinh tế Việt Nam, thế giới. Do đó cần mở rộng cách thức suy nghĩ và hiểu về nợ và phân tích nợ. Khi đó, mới dự đoán được tình huống nợ có thể xảy ra. Ví dụ việc tăng thuế, có tác động tốt đến tài chính công hiện tại, nhưng cũng ảnh hưởng đến khả năng bền vững của tài chính công về dài hạn. Trường hợp của Argentina, trong những năm 90 của thế kỷ trước, các cơ quan của Chính phủ Argentina, họ đưa ra chính sách tài chính công rất tốt, như thâm hụt ngân sách dưới 3%, nợ công tính trên GDP dưới 60%, lạm phát thấp, và Argentina cũng là nước giàu. Tuy nhiên, mọi việc đã thay đổi chỉ trong 3 – 4 năm, rủi rõ đã xảy ra ảnh hưởng đến tài chính công của Argentina, dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ ở nước này. Một yếu tố nữa Việt Nam cần lưu ý là những tác động xấu đối với thế giới trong trường hợp rủi ro xảy ra. Câu chuyện Vinashin là một ví dụ. Hàng trăm triệu USD vốn trái phiếu quốc tế được huy động và chuyển cho tập đoàn này vay lại. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn chưa hiệu quả, sự vỡ nợ của Vinashin đã đặt ra câu hỏi về lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế với môi trường kinh doanh Việt Nam. Cuối tháng 11 vừa qua, trang web của Bloomberg dẫn các nguồn tin từ công ty tư vấn tài chính Moody có trụ sở tại Mỹ cho biết, nợ xấu của Vinashin cũng ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng Việt Nam. Nợ không phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến đến hai yếu tố: hiệu quả từ những đồng vốn vay và hệ quả lâu dài nếu không giải quyết được dứt điểm vấn đề nợ. Những gì Hy Lạp, Ireland đang trải qua sẽ có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào. Chủ nợ rất dễ biến thành con nợ nếu không kịp thời điều chỉnh lối “ứng xử” với công nợ và tầm nhìn trong đầu tư. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP, nhưng trên thực tế, ở nhiều nước tỷ lệ này lên đến trên 80% GDP. Việc quản lý nợ công của chính phủ: Theo Nghị định Số: 79/2010/NĐ-CP ngày ngày 14 tháng 07 năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 30/08/2010), Chính phủ thống nhất quản lý toàn diện nợ công thông qua bốn công cụ. Cụ thể, các công cụ đó là: Chiến lược dài hạn về nợ công; Chương trình quản lý nợ trung hạn; Kế hoạch vay và trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ; Các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công. Thứ nhất, chiến lược dài hạn về nợ công gồm các nội dung như đánh giá thực trạng nợ công và công tác quản lý nợ công trong giai đoạn thực hiện Chiến lược trước đó; mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công,... Căn cứ để xây dựng chiến lược dài hạn về nợ công là kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm và 10 năm, các kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ cũng như các nghị quyết, quyết định về chủ trương huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ của Đảng, Nhà nước và Chính phủ,... Thứ hai, chương trình quản lý nợ trung hạn gồm các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về huy động, sử dụng vốn vay, trả nợ và cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý nợ trong giai đoạn 3 năm liền kề để thực hiện các chỉ tiêu an toàn về nợ đã được Quốc hội xác định trong mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công. Thứ ba, kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ có nội dung gồm: Kế hoạch vay trong nước (gồm kế hoạch huy động vốn cho ngân sách nhà nước và kế hoạch huy động vốn cho đầu tư phát triển); Kế hoạch vay nước ngoài, được thực hiện thông qua các hình thức huy động, gồm vay ODA, vay ưu đãi, vay thương mại và được chi tiết theo chủ nợ nước ngoài; Kế hoạch trả nợ, được chi tiết theo chủ nợ, có phân định trả nợ gốc và trả nợ lãi, trả nợ trong nước và trả nợ nước ngoài. Thứ tư là các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công. Các chỉ tiêu giá sát nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm: nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP), nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, nợ chính phủ so với GDP... Mối tương quan giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế Việt Nam Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến tính bền vững của nợ công tại Việt Nam: Tính bền vững của nợ công không chỉ phụ thuộc vào cán cân ngân sách mà còn phụ thuộc vào một số nhân tố khác. - Đầu tiên là tốc độ tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng GDP cao là điều kiện cần để tăng nguồn thu và đạt thặng dư ngân sách. Tuy nhiên, nếu tăng trưởng GDP chỉ do tăng các yếu tố đầu vào vật chất (vốn và lao động) mà không tăng được năng suất thì chắc chắn đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm - Mức lãi suất cao khiến việc vay mới và tài trợ nợ công trở nên đắt đỏ hơn, do vậy ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công. Mức lãi suất, đến lượt mình, lại phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ và kỳ vọng lạm phát trong nền kinh tế. Là một nền kinh tế thâm dụng đầu tư, ở Việt Nam nhu cầu tín dụng luôn luôn cao và lạm phát rất khó kiềm chế ở mức thấp. Một bằng chứng cụ thể là ngay cả khi mới chớm thoát khỏi suy giảm kinh tế thì chỉ số CPI và lãi suất ở Việt Nam đã tăng nhanh trở lại, cao hơn nhiều so với hầu hết các nền kinh tế trong khu vực. Hệ quả là khi Chính phủ đi vay bằng cách phát hành trái phiếu trong nước, lợi suất phải trả đã lên tới 11-12%. Tương tự như vậy, khi Chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế, lợi suất phải trả cũng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh (như Indonesia và Philippines) do mức độ rủi ro cao hơn. - Bên cạnh đó, với việc Việt Nam gia nhập nhóm nước thu nhập trung bình, các khoản vay quốc tế ưu đãi sẽ dần không còn nữa mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn nhiều. - Bên cạnh tốc độ tăng GDP, lạm phát và lãi suất, mức độ rủi ro của nợ công cũng phụ thuộc vào một số biến số vĩ mô khác, chẳng hạn như mức thâm hụt tài khoản vãng lai và dự trữ ngoại hối của quốc gia. Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô bất ổn và các chính sách điều hành gây mất lòng tin sẽ khiến cho tăng chi phí vốn vay, tăng áp lực nợ trên cả thị trường trong và ngoài nước. Tác động của nợ công tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam: - Mức độ nợ công lớn có thể tác động bất lợi lên mức tích luỹ vốn, năng lực sản xuất và làm giảm tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể xảy ra thông qua mức lãi suất dài hạn cao hơn, hệ thống thuế trong tương lai bị méo mó, lạm phát cao… Nếu tăng trưởng kinh tế bị tác động bất lợi, thì vấn đề bền vững tài chính có thể trở nên tồi tệ. Điều này làm gia tăng rủi ro của các nỗ lực điều hành chính sách tài khoá nhằm giảm các khoản nợ xuống mức bền vững hơn. - Hiện tại, tỷ lệ nợ/GDP của Việt Nam là 51,6%, nằm dưới ngưỡng cảnh báo trên, nhưng với xu hướng thâm hụt tài khóa gia tăng, việc vay nợ của Chính phủ trong một vài năm tới có thể khiến kinh tế giảm tăng trưởng. Đặc biệt, hậu quả của việc gia tăng trong tỷ lệ nợ/GDP là làm gia tăng lạm phát. Thực tế, những gói kích thích nền kinh tế của Việt Nam trong năm 2009 đã làm tăng thâm hụt ngân sách và nợ công tăng đột ngột là một nguyên nhân chính của tình hình lạm phát hiện nay. - Mô hình tăng trưởng hiện tại của Việt Nam dựa vào nguồn vốn là chủ yếu. Mà nguồn vốn lại được sử dụng không tốt đã gây nên sự lãng phí kéo dài làm tốc độ tăng trưởng chậm lại. - Chính phủ trong thời gian qua tăng cường phát hành trái phiếu và vay mượn để đầu tư do áp lực đầu tư và chi tiêu quá cao. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa chỉ đạt khoảng 27% trên GDP, trong khi đó tỷ lệ đầu tư lại luôn trên 40%. Hệ quả dẫn tới lãi suất trái phiếu chính phủ phải ở mức cao; làm thoái lui đầu tư tư nhân; gây sự bất ổn trên thị trường vốn. CHƯƠNG III: GiẢi pháp nỢ công Ở VIỆt Nam trong giai đoẠn hiỆn nay Các biện pháp quản lý nợ công Quản lý hiệu quả các khoản vay: Điều quan trọng hơn cả là chúng ta phải chú ý đến hiệu quả sử dụng các khoản vay, từ đó mới bảo đảm được dòng tiền trả nợ trong tương lai. Hiện nay dường như chúng ta mới chỉ chú trọng đến khía cạnh giải ngân cho được các khoản vay, bán cho được trái phiếu, thu tiền về đã xem là thành công. Trong khi tiền đó được sử dụng như thế nào thì chưa được xem trọng. Chính vì vậy, sau khi chúng ta cần theo sát, kiểm tra việc sử dụng nợ công đúng với mục tiêu đã đề ra. Một dự án ODA chẳng hạn, cho dù thời hạn vay kéo dài đến 40 năm, thời gian ân hạn 10 năm đi nữa thì trước sau gì chúng ta cũng phải trả cho hết nợ. Dự án ODA không chỉ triển khai làm cho xong mà còn phải theo dõi xem dòng tiền nó thu về có đủ để trả nợ như cam kết trong dự án hay không. Hay một khoản vay của một tập đoàn kinh tế được Chính phủ bảo lãnh, chúng ta phải theo dõi chặt chẽ xem tiền vay có được sử dụng đúng mục đích ban đầu, tiến độ trả nợ có đúng lộ trình, hiệu quả sử dụng vốn ra sao - bởi suy cho cùng một khi đã bảo lãnh, chính ngân sách nhà nước phải đảm đương khoản nợ này nếu doanh nghiệp không có khả năng chi trả. Quy định rõ kỳ báo cáo nợ cộng: Khác biệt với các nước trên thế giới là ở chỗ pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể về kỳ báo cáo nợ công. Theo Hướng dẫn quản lý n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan