Tiểu luận Phân tích học thuyết giá trị lao động trong các học thuyết kinh tế

Đến những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã giành được địa vị thống trị. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã làm thay đổi căn bản cơ cấu giai cấp xã hội. Trong xã hội tư bản, có hai giai cấp cơ bản là giai cấp tư sản giữ địa vị thống trị và giai cấp vô sản bị thống trị đã làm tăng những mâu thuẫn vốn có của nó. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa càng lên cao; đi từ tự phát đến tự giác, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị. Từ đó, đòi hỏi phải có lý luận cách mạng làm vũ khí tư tưởng cho giai cấp vô sản. Chủ nghĩa Marx ra đời. Karl Marx (1818-1883) và Engels (1820-1895) là những người sáng lập ra chủ nghĩa Marx.

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7923 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích học thuyết giá trị lao động trong các học thuyết kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ũng như của cả quá trình lịch sử phát triển, lý luận giá trị lao động đóng vai trò hạt nhân, là cơ sở của các lý luận khác; Nó cũng bắt đầu sơ khai từ những tư tưởng kinh tế và được phát triển thành những quan niệm, khái niệm và đến Marx đã khái quát hoá thành những phạm trù, những hệ thống lý luận hoàn chỉnh mà nhờ đó giải thích được các hiện tượng kinh tế trong xã hội. Với những kiến thức tiếp cận được qua các bài giảng của Thầy giáo, qua một số tài liệu nghiên cứu hiện hành, trong phạm vi bản tiểu luận này, trên lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Marx – Lenin, em xin chọn đề tài "Phân tích học thuyết giá trị lao động trong các học thuyết kinh tế" Nội dung I-/ Sự ra đời các học thuyết kinh tế cổ điển Vào cuối thế kỷ XVIII, ở nước Anh và Pháp học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Vào thời kỳ này, sau khi tích luỹ được khối lượng tiền tệ lớn, giai cấp tư sản tập trung phát triển lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, các công trường thủ công trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. Diễn ra việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành giai cấp vô sản và chủ chiếm hữu ruộng đất. Sự tồn tại của chế độ phong kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà còn làm sâu sắc hơn mâu thuẫn trong giai cấp quý tộc. Trong giai cấp này cũng dần bị tư sản hoá. Nếu trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lĩnh vực lưu thông thì do kết quả sự phát triển của công trường thủ công, tư bản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất. Nhiều vấn đề kinh tế của sản xuất được đặt ra vượt quá khả năng giải thích của học thuyết chủ nghĩa KTTT. Điều đó đòi hỏi phải có học thuyết kinh tế mới soi đường. Học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Học thuyết kinh tế cổ điển là xu hướng của tư tưởng kinh tế tư sản phát sinh trong thời kỳ hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các vấn đề kinh tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đặt ra. Lần đầu tiên họ xây dựng một hệ thống các phạm trù và các quy luật của nền kinh tế thị trường, như phạm trù giá trị, giá cả, lợi nhuận, tiền lương, địa tô, các quy luật giá trị cung cầu, lưu thông tiền tệ... Lần đầu tiên họ áp dụng phương pháp trừu tượng hoá nghiên cứu mối liên hệ nhân quả để vạch ra bản chất và các quy luật vận động của quan hệ sản xuất TBCN. Họ ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Tuy vậy những kết luận của họ còn mang tính lịch sử, lẫn lộn giữa yếu tố khoa học và yếu tố tầm thường. ở nước Anh học thuyết kinh tế cổ điển bắt đầu từ William Petty và kết thúc ở D. Ricardor. III-/ lý luận giá trị trong các học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh: Chủ nghĩa Trọng thương đã trở thành lỗi thời và bắt đầu tan rã ngay từ thế kỷ XVII, trước hết là Anh, một nước phát triển nhất về mặt kinh tế. Tiền đề của việc đó được tạo ra chủ yếu là do sự phát triển các công trường thủ công ở Anh, đặc biệt là trong nhành dệt, sau đó là công nghiệp khai thác. Giai cấp tư sản đã nhận thức được rằng: “muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho những người giàu”. Tất cả những điều kiện kinh tế, xã hội khoa học của cuối thế kỷ XVII đã chứng tỏ thời kỳ tích luỹ ban đầu của tư bản đã kết thúc và thời kỳ sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu. Tính chất phiến diện của học thuyết trọng thương trở nên quá rõ ràng, đòi hỏi phải có lý luận mới để đáp ứng với sự vận động và phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, kinh tế chính trị học cổ điển Anh ra đời. Theo Marx, kinh tế chính trị học cổ điển Anh bắt đầu từ William Petty và kết thúc ở David Ricacdo. 1-/ William Petty – Người đầu tiên đưa ra nguyên lý lao động quyết định giá trị trong kinh tế chính trị học tư sản: William Petty (1623-1687) là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế cổ điển ở Anh. Ông sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, có trinh độ tiến sĩ vật lý, là nhạc trưởng, là người phát minh ra máy chữ. Ông là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học, được gọi là phương pháp khoa học tự nhiên. Trong tác phẩm “Bàn về thuế khoá và lệ phí”, 1662 W.Petty nghiên cứu về giá cả, chia giá cả thành hai loại: Giá cả tự nhiên và giá cả chính trị. Theo ông giá cả chính trị (giá cả thị trường) phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngẫu nhiên, nó thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường, do đó khó xác định; Còn giá cả tự nhiên (tức giá trị) là do thời gian lao động hao phí quyết định và năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức hao phí đó. Như vậy, Petty là người đầu tiên đã tìm thấy cơ sở giá cả tự nhiên là lao động, thấy được quan hệ giữa lượng giá trị và năng suất lao động. Ông kết luận rằng: số lượng lao động bằng nhau bỏ vào sản xuất là cơ sở để so sánh giá trị hàng hoá. Giá cả tự nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác vàng và bạc. Ông có ý định đặt vấn đề lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng không thành. Như vậy, W.Petty chính là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết giá trị lao động. Tuy lý thuyết giá trị - lao động của ông còn có những hạn chế chưa phân biệt được các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi với giá cả. Ông tập trung nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hoá, một bên là tiền, tức là ông mới chú ý nghiên cứu về mặt lượng. Ông nhận thức được rằng giá trị của tiền tệ cũng là do lượng lao động quyết định, từ đó khắc phục được các kiến giải không những không thể trừu tượng hoá được giá trị từ giá trị trao đổi, mà còn không trừu tượng hoá được giá trị trao đổi từ giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, mà ông đã lẫn lộn hai cái đó. Ông cũng chia lao động ra làm hai loại: một loại lao động sản xuất ra vàng và bạc, một loại khác là lao động sản xuất ra những hàng hoá bình thường. Ông cho rằng chỉ có lao động khai thác vàng và bạc mới có giá trị trao đổi, còn các lao động khác thì chỉ khi trao đổi hàng và tiền mới này sinh giá trị trao đổi. Theo ông, giá trị hàng hoá chính là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng như ánh sáng của mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời vậy. Đó là ảnh hưởng tư tưởng chủ nghĩa Trọng thương rất nặng ở ông. Petty đã lẫn lộn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng, nghĩa là ông đã đồng nhất lao động trừu tượng với lao động cụ thể. Từ đó Petty có ý định đo giá trị bằng hai đơn vị lao động và đất đai. Ông nêu ra câu nói nổi tiếng: “Lao động là cha, còn đất là mẹ của của cải”. Về phương diện của cải nói như vậy là đúng, chỉ rõ nguồn gốc giá trị sử dụng. Nhưng cái mà ông muốn nói đến là giá trị, ông nói: việc xem xét giá trị của tất cả mọi hàng hoá đều phải xuất phát từ hai yếu tố tự nhiên, tức là đất đai và lao động. Nói như vậy ông đã đi ngược lại kết luận đúng đắn của chính mình là giá trị được quyết định bởi thời gian lao động hao phí trong quá trình sản xuất hàng hoá. 2-/ Adam Smith – Người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá trị lao động và những yếu tố tầm thường còn tồn tại trong lý luận của ông: Adam Smith (1723-1790) là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế giới. Ông là nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản, ông muốn thủ tiêu tàn tích phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, kêu gọi tích luỹ và phát triển lực lượng sản xuất theo ý nghĩa tư bản, xem chế độ tư bản chủ nghĩa là hợp lý duy nhất. Marx coi A.Smith là nhà kinh tế học tổng hợp của công trường thủ công. A.Smith đã phân biệt rõ ràng giá trị sử dụng với giá trị trao đổi. Ông nói: “Giá trị có hai nghĩa khác nhau, có lúc nó biểu thị hiệu quả sử dụng như là một vật phẩm đặc biệt, có lúc biểu thị sức mua do chỗ chiếm hữu một vật nào đó mà có được đối với vật khác. Cái trước gọi là giá trị sử dụng, và cái sau gọi là giá trị trao đổi”. Ông còn chứng minh rõ quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Những thứ có giá trị sử dụng rất lớn thường có giá trị trao đổi cực nhỏ, thậm chí còn không có. Ví dụ: “Không có gì hữu ích bằng nước, nhưng với nó thì không thể mua được gì”. Ngược lại, những thứ có giá trị trao đổi rất lớn, thường có giá trị sử dụng cực nhỏ, thậm chí không có. Việc phân biệt rõ ràng hai khái niệm giá trị sử dụng và giá trị trao đổi này đồng thời giải thích rõ là giá trị trao đổi lớn hay nhỏ không liên quan gì đến giá trị sử dụng, đó là công lao của A.Smith. Nhưng ông cho rằng những thứ không có giá trị sử dụng có thể có giá trị trao đổi thì lại sai lầm. Theo A.Smith giá trị trao đổi là do lao động quyết định, giá trị trao đổi là do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Đó là khái niệm đúng đắn về giá trị. Lao động là thước đo thật sự để xác định giá trị trao đổi của mọi thứ hàng hoá. Việc xác nhận lao động quyết định giá trị hàng hoá là công lao và thành tích khoa học của ông. Nhưng ông không hiểu được tính chất xã hội của loại lao động này. Vì thế, khi đi sâu tìm hiểu thêm xem lao động gì quyết định giá trị của hàng hoá , lao động xác định giá trị hàng hoá như thế nào thì ông rơi vào hỗn loạn. Một mặt ông cho rằng lao động quyết định giá trị hàng hoá là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá. Lượng giá trị của hàng hoá tỷ lệ thuận với lượng thời gian lao động hao phí trong sản xuất. Đồng thời ông còn nghiên cứu sự phân biệt giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp, ông cho rằng trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn là lao động đơn giản. Nhưng đồng thời ông lại cho rằng giá trị một hàng hóa bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ hàng hoá đó. Đây là điều luẩn quẩn và sai lầm của A.Smith, dùng giá trị quyết định giá trị. Ông đã lẫn lộn vấn đề giá trị đã được quyết định như thế nào trong sản xuất và giá trị đã biểu hiện như thế nào trong trao đổi. Về cấu thành giá trị của hàng hoá. Theo A.Smith trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, cũng như mọi giá trị trao đổi. A.Smith coi tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, đó là quan điểm đúng đắn. Song ông lại tầm thường ở chỗ coi các khoản thu nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị trao đổi. Ông đã lẫn lộn hai vấn đề hình thành giá trị và phân phối giá trị, giá trị của hàng hoá với giá trị mới sáng tạo ra của lao động; Hơn nữa, ông cũng đã xem thường tư bản bất biến, coi giá trị hàng hoá chỉ có (V+m). A.Smith nghiên cứu quy luật giá trị và tác dụng của nó. Ông đã phân biệt giá cả tự nhiên với giá cả thị trường. Ông khẳng định hàng hoá được bán theo giá cả tự nhiên, nếu giá cả đó ngang với mức cần thiết để trả cho tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Theo ông, giá cả tự nhiên là trung tâm. Giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hoá, giá cả này nhất trí với giá cả tự nhiên khi hàng hoá được đưa ra thị trường với số lượng đủ “thoả mãn lượng cầu thực tế”. Nhưng do sự biến động của cung cầu là cho giá cả thị trường chênh lệch với giá cả tự nhiên. Bản thân giá cả tự nhiên cũng thay đổi cùng với tỷ suất tự nhiên của mỗi bộ phận cấu thành nó. Ông đã nhận thấy giá cả trong chủ nghĩa tư bản được đặt ra khác với trước đây. Nhưng ông không thấy được trong chủ nghĩa tư bản quá trình thực hiện giá trị gắn liền với việc phân phối lại giá trị dưới hình thái lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Ông đã vấp vào vấn đề giá cả sản xuất. Có thể thấy rằng, không những ông coi giá cả dao động xung quanh giá trị là một hiện tượng có tính quy luật, mà còn chứng minh rã tác dụng điều tiết của quy luật giá trị đối với sản xuất hàng hoá. Nhưng do chỗ không hiểu được mối liên hệ nối tại giữa giá trị và giá cả, ông không giải thích được sự xa rời giá cả khỏi giá trị chính là hình thức tác động của quy luật giá trị. Công lao chủ yếu của A.Smith về lý luận giá trị là đã phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, hơn nữa, ông đã cho rằng lao động là “thước đo thực tế của giá trị”. Nhưng do hạn chế về lập trường, quan điểm và phương pháp nên lý luận giá trị của ông vừa có yếu tố khoa học lại vừa có yếu tố tầm thường. 3-/ Lý luận về giá trị lao động của David Ricacdo đã đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị học cổ điển của giai cấp tư sản: David Ricacdo (1772-1823) sinh trong một gia đình giàu có làm nghề chứng khoán, một nhà tư bản có địa vị trong số các gia đình giàu có ở châu Âu. Ông hoạt động trong thời kỳ cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành; Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xác lập địa vị thống trị hoàn toàn và phát triển trên cơ sở chính nó, với hai giai cấp cơ bản: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản đối lập nhau. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp bọc lộ rõ ràng hơn. Ông cũng nhìn nhận được mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa, ông đã vạch ra được những cơ sở kinh tế của các mâu thuẫn đó. Ông công khai bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản công nghiệp với ý thức để thúc đẩy sự phát triển của nước Anh. Tư tưởng kinh tế của ông có nhiều điểm tiến bộ, vì nó hình thành trong thời kỳ giai cấp tư sản đang lên (giai cấp tiến bộ chống lại chế độ phong kiến, chưa lộ rõ mặt phản động của nó), còn giai cấp vô sản chưa đủ mạnh, và sự giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của mình chưa đầy đủ. Lý luận giá trị chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống quan điểm của Ricacdo. Ông định nghĩa giá trị hàng hoá như sau: “Giá trị của hàng hoá hay số lượng của một hàng hoá nào khác mà hàng hoá đó trao đổi, là do số lượng lao động tương đối, cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định, chứ không phải do khoản thưởng lớn hay nhỏ trả cho lao động đó quyết định”. Cũng như A.Smith, Ricacdo đã phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ông bác bỏ lý luận giá trị sử dụng quyết định giá trị hàng hoá, ông đã chứng minh rằng các nhân tố tự nhiên giúp con người tạo nên giá trị sử dụng, nhưng không thêm một phân tử gì vào giá trị hàng hoá cả. Ông có ý kiến kiệt xuất rằng: “Tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi, mặc dù hàng hoá rất cần thiết giá trị này”. “Giá trị khác xa với của cải, giá trị không phụ thuộc vào việc có nhiều hay ít của cải, mà tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi”. Theo ông sở dĩ có nhiều lầm lẫn trong khoa học kinh tế chính trị là do người ta coi “sự tăng của cải và tăng giá trị là một”, là do người ta quên rằng thước đo giá trị chưa phải là thước đo của cải vì của cải không phụ thuộc vào giá trị. Theo ông giá trị trao đổi hàng hoá được quy định bởi lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá, lượng lao động đó tỷ lệ thuận với lao động tạo ra hàng hoá. “Tính hữu ích không tăng cùng nhịp độ với tăng giá trị”, “tính hữu ích là cần thiết vì vật không có ích, nó không có được giá trị trao đổi”. Ricacdo cho rằng hàng hoá hữu ích sở dĩ có giá trị trao đổi là do hai nguyên nhân: - Tính chất khan hiếm. - Lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng. Như vậy là ông đã nhận thức được giá trị trao đổi được quyết định bởi lượng lao động đồng nhất của con người, chứ không phải là lượng lao động hao phí cá biệt. Về điểm này ông là người đầu tiên đã phân biệt được lao động cá biệt và lao động xã hội. Nhưng lầm lẫn của ông là cho rằng giá trị hàng hoá được điều tiết bởi lượng lao động lớn nhất hao phí trong những điều kiện xấu (Về điểm này thì Marx xác định trong điều kiện trung bình). Ricacdo phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Ông cho rằng, không một hàng hoá nào mà giá cả không bị ảnh hưởng của biến động ngẫn nhiên hay tạm thời. Nhưng nguyện vọng của các nhà tư bản luôn có xu hướng muốn rút số vốn của mình ra khỏi một công việc kinh doanh ít lãi và đầu tư vào một công việc kinh doanh có lãi hơn, nguyện vọng đó không cho phép giá cả thị trường của các hàng hoá dừng lâu ở một mức nào đó cao hơn nhiều hay thấp hơn nhiều so với giá cả tự nhiên của chúng. Đề cập vấn đề tăng giá cả, Ricacdo viết rằng, việc tăng giá cả lên có thể là một nhân tố điều tiết một lượng cung không đủ so với một lượng cầu đang phát triển, điều tiết việc tiền tệ sụt giá, việc đánh thuế vào những vật phẩm thiết yếu, ông đã cố gắng tìm hiểu sự vận động của giá cả. Theo ông giá cả không phải do cung cầu quyết định, quyết định mức giá ở trong tay những người sản xuất, cung cầu chỉ ảnh hưởng đến giá cả. Ông viết: “Cái có tính chất điều tiết giá trị là hao phí lao động sản xuất, không phải quan hệ cung cầu và tâm trạng người mua”. Ông viết rõ hơn chỉ khi nào không có cạnh tranh thì tỷ lệ trao đổi có thể do “nhu cầu của người ta và do sự đánh giá tương đối của người ta đối với hàng hoá” quyết định. Còn trong điều kiện cạnh tranh thì giá cả “rốt cuộc sẽ do cạnh tranh giữa những người bán điều tiết”. Ricacdo chứng minh một cách tài tình rằng, giá trị hàng hoá giảm khi năng suất lao động tăng lên – Dự đoán thiên tài của Petty được ông luận chứng. Ông gạt bỏ sai lầm của A.Smith cho rằng lao động trong nông nghiệp có năng suất cao hơn và cho rằng sự tăng lên của của caỉ đi kèm với giá trị của nó giảm. Ricacdo đã trình bày lý luận giá trị của mình từ việc phê phán A.Smith. Ông đã gạt bỏ tính không triệt để, không nhất quán về cách xác định giá trị của A.Smith: Giá trị = Lao động mua được. Ricacdo kiên định với quan điểm: lao động là nguồn gốc của giá trị, công lao to lớn của ông là đã đứng trên quan điểm đó để xây dựng lý luận khoa học của mình. Đồng thời ông cũng phê phán A.Smith cho rằng giá trị là do các nguồn gốc thu nhập hợp thành. Theo ông giá trị hàng hoá không phải do các nguồn gốc thu nhập hợp thành, mà ngược lại được phân thành các nguồn thu nhập. Về cơ cấu giá trị hàng hoá, ông cũng có ý kiến khác với sai lầm giáo điều của A.Smith bỏ C ra ngoài giá trị hàng hoá. Ricacdo cho rằng: giá trị hàng hoá không chỉ do lao động trực tiếp tạo ra, mà còn là lao động cần thiết trước đó nữa như máy móc, nhà xưởng – Tức ông chỉ biết có C1, chỉ có đến Marx mới hoàn chỉnh được công thức giá trị hàng hoá = C+V+m. Mặt hạn chế trong lý luận giá trị của Ricacdo là ở chỗ ông chưa vượt qua được các cửa ải là không nhận được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Mặc dù ông và A.Smith biết rằng lao động tạo ra giá trị là một thứ lao động không kể hình thái của nó. Khác với A.Smith, Ricacdo cho rằng quy luật giá trị vẫn hoạt động trong chủ nghĩa tư bản - đây là quan điểm đúng đắn của ông; Tuy nhiên, hoạt động như thế nào thì ông không chứng minh được vì ông không thể giải qưuyết được vấn đề giá cả sản xuất, ông đã đồng nhất hoá giá trị và giá cả sản xuất. Ông cũng chưa hiểu được giá trị trao đổi là hình thức của giá trị. Ricacdo nói riêng và các nhà kinh tế học tư sản nói chung chỉ chú ý phân tích mặt lượng giá trị, ít chú ý đến mặt chất và hoàn toàn không phân tích hình thái giá trị. Đây là một trong những nhược điểm chủ yếu của kinh tế chính trị cổ điển tư sản, khuyết điểm này là do thiếu quan điểm lịch sử, xem xét các hàng hoá, tiền tệ, tư bản là hình thái tự nhiên vĩnh viễn. Tóm lại, Ricacdo đã đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị lao động. Marx đánh giá “Nếu A.Smith đã đưa khoa học kinh tế chính trị vào hệ thống, thì Ricacdo đã kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất, nguyên lý chủ yếu quyết định của ông là thời gian lao động quyết định giá trị”. VI-/ lý luận giá trị trong học thuyết kinh tế Marx - lenin: Đến những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã giành được địa vị thống trị. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã làm thay đổi căn bản cơ cấu giai cấp xã hội. Trong xã hội tư bản, có hai giai cấp cơ bản là giai cấp tư sản giữ địa vị thống trị và giai cấp vô sản bị thống trị đã làm tăng những mâu thuẫn vốn có của nó. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa càng lên cao; đi từ tự phát đến tự giác, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị. Từ đó, đòi hỏi phải có lý luận cách mạng làm vũ khí tư tưởng cho giai cấp vô sản. Chủ nghĩa Marx ra đời. Karl Marx (1818-1883) và Engels (1820-1895) là những người sáng lập ra chủ nghĩa Marx. Chủ nghĩa Marx phát sinh ra là sự tiếp tục trực tiếp của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Cổ điển Anh và CNXH không tưởng Pháp. Lênin coi đó là 3 nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Marx. Trong hệ thống các học thuyết kinh tế, học thuyết về giá trị – lao động được trình bày như là cơ sở của tất cả các học thuyết kinh tế của Marx. Lần đầu tiên, giá trị được xem xét như là quan hệ sản xuất xã hội của những người sản xuất hàng hoá, còn hàng hoá là nhân tố tế bào của xã hội tư sản. Giá trị hàng hoá là lao động của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Giá trị là phạm trù lịch sử – có sản xuất hàng hoá thì mới có giá trị hàng hoá. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Theo Marx, hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng; Ông đã tiến xa hơn lý luận của các nhà tư sản cổ điển là phân biệt 1 cách rõ ràng hai thuộc tính này; Đó là: Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Còn giá trị là lao động xã hội thể hiện và vật hoá trong hàng hoá. Giá trị và giá trị sử dụng là hai thuộc tính cùng tồn tại và thống nhất với nhau ở một hàng hoá. Quá trình thực hiện giá trị và quá trình thực hiện giá trị sử dụng là hai quá trình khác nhau về thời gian và không gian. Trước khi thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá, phải thực hiện giá trị của nó; nếu không thực hiện được giá trị thì sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng. Marx phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là lao động cụ thể và lao động trừu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội. Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể, có đối tượng lao động, mục đích, phương pháp lao động, kết quả sản xuất riêng. Chính cái riêng đó phân biệt được các loại lao động cụ thể khác nhau. Mỗi lao động cụ thể tạo ra 1 giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể tồn tại vĩnh viễn cùng với sản xuất và tái sản xuất xã hội, không phụ thuộc vào bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào. Còn lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy về một cái chung đồng nhất. Đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh của con người. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hoá. Chỉ có lao động sản xuất hàng hoá mới có tính chất là lao động trừu tượng. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng có liên hệ với tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá. Sự phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thực lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá thông qua trao đổi. Việc trao đổi hàng hoá không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy về lao động chung nhất, lao động trừu tượng. Marx định nghĩa lượng giá trị hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết; Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội hội, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội. Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá thay đổi thì lượng giá trị hàng hoá sẽ thay đổi. Marx chỉ ra ảnh hưởng khác nhau tới lượng giá trị hàng hoá của lao động giản đơn và lao động phức tạp: “Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên luỹ thừa, hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên, thành thử 1 lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với 1 lượng lao động giản đơn lớn hơn”. Vì vậy, khi trao đổi người ta lấy lao động giản đơn làm đơn vị tính toán và quy tất cả những lao động phuức tạp thành lao động giản đơn. Đồng thời Marx phê phán các quan điểm của W.Petty, A.Smith, D.Ricacdo về giá trị hàng hoá; Ông đã hoàn thiện các yếu tố cấu thành lên giá trị hàng hoá gồm 3 bộ phận: C + V + m (Trong đó C là lao động quá khứ, V là lao động sống và m là giá trị thặng dư do lao động sống tạo ra). Ricacdo nói riêng và các nhà kinh tế học tư sản nói chung chưa hiểu được, chưa phân tích các hình thái giá trị; Nhưng Marx chỉ rõ: giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; Ông đã đi sâu phân tích giá cả sản xuất; trong điều kiện cạnh tranh tự do, giá trị chuyển hoá thành giá cả sản xuất (Đến Lênin chỉ ra rằng trong giai đoạn sản xuất độc quyền thì nó lại chuyển hoá thành giá cả độc quyền). Lý luận về giá cả hàng hoá, ông cho rằng giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung – cầu, sức mua của đồng tiền. Marx là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Trên cơ sở phát hiện này, Marx đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lịch sử học thuyết kinh tế, ông đã xây dựng học thuyết giá trị – lao động một cách hệ thống và hoàn chỉnh. Đồng thời dựa vào phát hiện này, ông đã trình bày một cách khoa học hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị mà trước đó, chưa ai có thể làm được. Và cũng nhờ đó đã giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược: khối lượng của cải v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60760.DOC
Tài liệu liên quan