Tiểu luận Quan điểm của Người trong mối quan hệ biện chứng giữa hai vấn đề dân tộc và giai cấp

MỤC LỤC

A.MỞ ĐẦU . 1

B.MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP 2

I.Vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin . 2

1.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin . 3

2.Vấn đề giai cấp trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin 4

II.Những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp đã được Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc . 4

1.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh 4

2.Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh 8

3.Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh . 8

III.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong thời đại mới của đất nước . 15

C.KẾT LUẬN 21

 

 

 

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2488 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan điểm của Người trong mối quan hệ biện chứng giữa hai vấn đề dân tộc và giai cấp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưởng Hồ Chí Minh còn là sự kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn củ đất nước. Thứ ba: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo Người “ chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, yêu nước truyền thống đã phát triển thành yêu nước trên lập trường cuẩ giai cấp vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng” Đấu tranh cho dân tộc mình, đồng thời độc lập cho các dân tộc”. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Người tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc. Nhưng Người cũng chủ trương ủng hộ cách mạng Trung Quốc, Lào, Campuchia…và giúp bạn tự giúp mình. Thứ tư, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước. Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Thứ năm, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch chống phá cách mạng để lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu quả đó nhằm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào miền xuôi cũng như miền ngược, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đoàn kết mới tạo nên sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng đã đề ra. Thứ sáu, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân thiện với người nước ngoài sống ở Việt Nam. Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân thiện với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp của họ. Trong những năm chiến tranh và cách mạng, với lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong đó có người đã trở thành anh hùng của Việt Nam. Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện thái độ ôn hoà và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (23 tháng 10 năm 1946), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt đối với người Pháp cũng nên thân thiện. Đối với quân đội Pháp ta phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp ta phải ôn hoà. Để tỏ cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho số người Pháp ủng hộ ta càng thêm đông, sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu khích muốn chia rẽ, không có thể và không có cớ mà chia rẽ. Để cho công cuộc thống nhất và độc lập của chúng ta chóng thành công”. Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thể hiện quan điểm trước sau như một là đoàn kết, thân thiện và bảo vệ tài sản, tính mạng cũng như quyền làm ăn chính đáng của họ trên đất nước Việt Nam, như công dân Việt Nam. Theo Người, chẳng phải hôm qua hôm nay người Hoa kiều mới đến Đông Dương. Họ đã ở đây, họ đã luôn giữ một địa vị rất quan trọng trong đời sống kinh tế của Đông Dương. Nhưng chưa bao giờ lại có những cuộc xung đột giữa người Việt Nam với người Hoa trên đất nước Việt Nam. Ngoài ra, đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan điểm của Hồ Chí Minh là tôn trọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc khác, đồng thời thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Quan điểm đó của Người được khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. 2.Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Những phát hiện của Hồ Chí Minh về vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam là kết quả của một quá trình quan sát, tìm tòi, nghiên cứu ở nhiều nước từ năm 1911, khi Người ra đi tìm đường cứu nước. Từ tầm nhìn xa và từ thực tiễn quá trình nghiên cứu giai cấp công nhân ở các nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào công nhân quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”. Trước khi thành lập Đảng, Người đã đề ra chủ trương “Vô sản hóa”, đưa cán bộ, đảng viên không xuất thân từ thành phần công nhân vào hầm mỏ, nhà máy, đồn điền để tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân đồng thời học tập, tự rèn luyện mình thành người vô sản và thành người cộng sản. “Vô sản hóa” là một yếu tố đầu tiên quan trọng tạo điều kiện cho đảng viên thực sự giác ngộ và trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, giữ vững được bản chất giai cấp công nhân của Đảng. 3.Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người luôn trung thành với quan điểm, tư duy của Quốc tế Cộng sản và Chủ nghĩa Mac – Lênin và vận dụng linh hoạt, sáng tạo những tư tưởng đó vào trong hoàn cảnh cách mạng Việt Nam. Trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam, lịch sử đã chứng kiến những phong trào yêu nước của người dân Việt Nam chống thực dân Pháp nổ ra rầm rộ: các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái…, nhưng tất cả đều thất bại, bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Nguyên nhân cơ bản của sự thất bại này là sự bế tắc về đường lối. Tuy tràn đầy nhiệt huyết và khí phách nhưng các vị lãnh tụ các phong trào ấy đã không nhận thức được bối cảnh thời đại, không xác định được giai cấp trung tâm của thời đại này là giai cấp công nhân – giai cấp tiến bộ của xã hội với phương thức sản xuất mới. Những nhà nho, sĩ tu yêu nước tuy mang trong mình tấm lòng yêu nước, thương dân, mang tinh thần dân tộc lớn lao, nhưng lại thiếu một yếu tố quan trọng đó là lập trường, tư tưởng đúng đắn. Họ không xác định được nền tảng tư tưởng cho cuộc đấu tranh mà họ lãnh đạo trong thời đại mới. Chỉ cho đến khi Nguyễn Ái Quốc quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911, sự bế tắc ấy mới có lời giải. Người ra đi mang theo chủ nghĩa yêu nước bên mình, Người tiếp xúc với ánh hào quang chân lí của chủ nghĩa Mác – Lênin, để rồi từ đó mở ra con đường sáng chói cho dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Điều đó thể hiện sự thấm nhuần sâu sắc, sự kế thừa trung thành của Hồ Chí Minh đối với hệ tư tưởng của Mác – Lênin về vấn đề này cũng như mọi vấn đề khác về chủ nghĩa xã hội. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiên ở các điểm sau: Một là, Người khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; Hai là, chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; Ba là, sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; Bốn là, thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân; Năm là, gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đi lên từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh một mặt đi theo lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, một mặt vẫn luôn nhấn mạnh đến vấn đề dân tộc. Người cho rằng: giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết và trước hết, nhưng giải phóng để giành lại độc lập dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh khác với con đường cứu nước của ông cha ta – gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến (cuối thế kỉ XIX ), với chủ nghĩa tư bản ( đầu thế kỉ XX ). Độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và ý thức hệ tư bản không tránh khỏi những hạn chế và mâu thuẫn bắt nguồn từ bản chất kinh tế - chính trị của các chế độ ấy – những hình thái kinh tế-xã hội dựa trên quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp.Vượt qua hạn chế đó chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Giải phóng dân tộc dẫn tới độc lập dân tộc là phạm trù thuộc về vấn đề dân tộc. Nhưng chủ nghĩa xã hội là phạm trù thuộc về vấn đề giai cấp. Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất…”. Trong xã hội chủ nghĩa không còn mâu thuẫn giai cấp nữa, vấn đề giai cấp được giải quyết triệt để. Chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột, xoá bỏ đến tận gốc rễ của quan hệ bóc lột giai cấp; thiết lập một nhà nước mới thực sự của dân, do dân, vì dân, tất cả đều mang tính dân tộc trên cơ sở nền tảng tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, thì mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Như vậy, giải quyết vấn đề dân tộc luôn phải gắn với mục đích để sao cho vấn đề giai cấp cũng đồng thời được giải quyết. Người khẳng định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải là phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lí luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Hố sâu ấy chính là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của các dân tộc bị trị. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội Quốc tế và trong các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong “Chính cương vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy là lần đấu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều đó phù hợp với xu thế thời đại, phù hợp với lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ của dân tộc. Sức mạnh đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà chính là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu giai cấp trên cơ sở định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã biết rằng: Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mac – Lênin. Từ đó người đã phát huy cao độ chủ nghía yêu nước truyền thống Việt Nam trong sự thống nhất với chủ nghĩa Quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh “những tư tưỏng dân tộc chân chính đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính” (Ănghen ). Sự phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp. Ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và tiếp thu quan điểm Macxit về giai cấp. Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp bị trị khỏi sự áp bức, bóc lột của giai cấp thông trị. Thế nên lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. Điều này hoàn toàn phù hợp với lập luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp đã đề cập ở phần trên. Trong tiến trình cách mạng, nhất là ở những thời điểm có ý nghĩa quyết định như khi chuẩn bị tổng khởi nghĩa trong cách mạng tháng Tám – 1945 hay những năm tháng cam go của cuộc kháng chiến chống Mĩ sau này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh quyền lợi dân tộc lên trên hết và trước hết. Tháng 5/1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Bởi vì “giai cấp vô sản mỗi nước, trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản, không phải chỉ là sự chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh mang giá trị định huớng sâu sắc. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam và tham khảo cách mạng các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích sự kết hợp hữu cơ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, ta có thể thấy Hồ Chí Minh đã vạch ra hướng đi vô cùng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, đó là chìa khoá đi đến thành công của cách mạng Việt Nam, vì những lí do sau đây: Trước hết, muốn giành đuợc thắng lợi triệt để thì cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải đi vào quỹ đạo và phải là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng ấy phải được lãnh đạo bởi chính Đảng của giai cấp công nhân, nhưng phải có toàn dân tham gia, trong đó lực lượng nòng cốt là liên minh công-nông. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa riêng giai cấp công nhân, thậm chí là cả nông dân vào lực lượng cách mạng là hoàn toàn không đủ. Chỉ khi nào toàn dân cùng tham gia đấu tranh thì sức mạnh dân tộc mới trở thành sức mạnh vô song. Sau nữa, cuộc đấu tranh giai cấp – giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc ( tức là mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân, giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ) không tách rời cuộc đấu tranh dân tộc – giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực thù địch xâm lược. Nhưng trước hết và trên hết là phải giải quyết được vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc. “Chính lập trường và lợi ích của giai cấp công nhân đòi hỏi phải giải phóng dân tộc”. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, vấn đề giai cấp được thể hiện ở vấn đề dân tộc, còn vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân, chứ không phải là hi sinh cái nọ cho cái kia. III.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong thời đại mới của đất nước. Từ quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Người đã khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, và Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất. Theo Hồ Chí Minh, “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam”. Phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản, Người cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là “ Đảng của giai cấp vô sản “, đồng thời là “ Đảng của dân tộc Việt Nam “. “Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất,trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân “ (Hồ Chí Minh toàn tập). Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kì của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã qui tụ lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Nhờ đó, ngay từ đầu, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. Điều này cũng thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưỏng của Bác. Trung thành với những quan điểm của V.I.Lênin, Bác vẫn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn thế nữa, Bác còn giữ được tinh thần dân tộc trong quan điểm của mình. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng ( tháng 2/1951 ), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Năm 1953, Bác viết: “Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc…Đảng là đảng của giai cấp lao động mà cũng là đảng của toàn dân”. Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”. Năm 1961, Bác tiếp tục khẳng định: “Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiên vị”. Năm 1965, Người cho rằng: “Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Qua hàng loạt các cách thể hiện khác nhau như vậy, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định được bản chất giai cấp của Đảng ta là Đảng ta mang bản chất giai cấp công nhân. Nhưng Người quan niệm: Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của toàn dân tộc. Quan điểm này có ý nghĩa lớn lao đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cho nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Vịêt Nam là Đảng của chính mình. Trong thành phần của Đảng, ngoài công nhân, còn có những người ưu tú trong giai cấp nông dân, trí thức và các thành phần khác. Đảng ta cũng khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời kì cách mạng. Hồ Chí Minh rèn luyện Đảng luôn luôn chú trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác. Nghị quyết Đại hội lần VII của Đảng đã chỉ rõ: “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng , chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập. Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc…”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ nét sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc, tính nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi hoạt động của Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Mọi biểu hiện tuyệt đối hoá vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc hoặc quá nhấn mạnh vấn đề dân tộc mà xem nhẹ vấn đề giai cấp đều đi ngược với quan điểm của Hồ Chí Minh. Thế nên, một trong bốn nội dung về công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, lí luận có nội dung: Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, chú ý chống giáo điều, cơ hội, chống chủ nghĩa cá nhân… Thực tiễn đã cho thấy, trong 80 năm tồn tại và phát triển của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, và cách mạng Việt Nam 80 năm qua luôn “cần có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” để đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công. Nói chung đây là một tư tưởng khá lớn trong hệ thống tư tưỏng Hồ Chí Minh, mang tính sáng tạo cao, nó cho phép khơi dậy sức mạnh đoàn kết, thống nhất của cả dân tộc, vì lợi ích chung của cả dân tộc. Bởi vậy, trong tư tưởng của mình, Người luôn thể hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở sự lãnh đạo tổng hợp của Đảng Cộng sản. Trong tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, Người cho rằng: Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn bộ dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân, nhưng cũng không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác. Người chỉ rõ: công nông là “gốc cách mệnh”; “..học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Như thế là Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh yếu tố giai cấp trong lực lượng, nhưng lại luôn giữ vững tinh thần dân tộc trong đó. Hai yếu tố dân tộc và giai cấp luôn đan xen, gắn bó trong tư duy của Người và thể hiện ra ở hầu hết nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, việc vận dụng và phát triển sáng tạo, linh hoạt Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là điều hết sức cấp thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thực tế đã chứng minh, có thời kì, trong giai đoạn triển khai công cuộc xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa, khi vạch ra các nhiệm vụ, Đảng ta đã vướng vào một số sai lầm, đưa ra các quyết định nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp mà quên đi hoặc sao nhãng vấn đề dân tộc trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó dẫn đến hậu quả là lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội không được công bằng, không có sự thống nhất và kết hợp chặt chẽ trong nhân dân về mục tiêu và lí tưởng, làm cho sức mạnh dân tộc không được phát huy, không trở thành động lực cốt yếu cho sự phát triển đất nước. Nhưng ngay sau đó, khi nhận ra sai lầm, rút ra bài học kinh nghiệm, Đảng ta đã có những cải biến tích cực cả trong nhận thức lí luận và thực hành xã hội, đi đúng hướng đi của một Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, trong những năm gần đây ở nước ta, có một số ý kiến cho rằng: mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa M

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25386.doc
Tài liệu liên quan