Tiểu luận Sự cần thiết và các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

MỤC LỤC

Trang

A- Đặt vấn đề. 1

B- Nội dung. 2

I- Khái niệm Kinh tế Nông thôn. 2

1. Khái niệm. 2

2. Vai trò cần thiết phát triển kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước. 3

II. Thực trạng, phương hướng và giải pháp để phát triển Kinh tế Nông thôn 4

1. Thực trạng kinh tế nông thôn nước ta trong thời kì đổi mới. 4

2. Quan điểm phát triển kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 10

3. Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam. 12

a. Phương hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam. 12

b. Phát triển kết cấu hạ tầng. 16

c. Áp dụng khoa học - công nghệ - kỹ thuật vào lao động sản xuất. 17

d. Hoàn thiện các chính sách kinh tế - xã hội ở nông thôn. 18

e. Hoàn thiện việc tổ chức quản lý Nhà nước đối với nông thôn. 19

g. Bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. 21

h. Quy hoạch nông thôn. 21

4. Giải pháp phát triển kinh tế nông thôn. 22

C- Kết luận 27

Tài liệu tham khảo 28

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự cần thiết và các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ còn thấp. Dân cư nông thôn nói chung còn nghèo, thu nhập tích luỹ ít, không đủ khả năng tự đầu tư theo hướng yêu cầu thâm canh cao và phát triển dịch vụ nông thôn nhất là đầu tư vào công nghệ tiên tiến. Công nghệ nông thôn chủ yếu sử dụng công nghệ thải loại từ công nghệ thành phố hoặc công nghệ nước ngoài hoặc công nghệ tự tạo nên công nghệ còn lạc hậu. Việc vay vốn phát triển nông thôn còn nhiều hạn chế (thời gian vay ngắn, mức vốn vay ít, không có đủ tài sản để thế chấp). Các trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và đổi mới công nghệ. Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) dựa vào các dự án phát triển nông thôn vừa ít về số lượng vừa nhỏ bé về quy mô. Điều đáng quan tâm là các nguồn vốn này đêù hoạt động kém hiệu quả. Kết cấu hạ tầng cơ sở trong nông thôn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và đời sống. Nhiều hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, chế biến bảo quản và lưu thông tiêu thụ nông sản hàng hoá còn lạc hậu, yếu kém và thiếu hụt nghiêm trọng. ở nhiều vùng nông thôn miền núi, vùng cao, vùng xa điều kiện thuỷ lợi và giao thông còn rất khó khăn. Đây là một trong những trở ngại lớn trong nông thôn, hay trở ngại cho việc tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá; đồng thời là nguyên nhân gây ra nhiều thất thoát, thiệt hại và làm giảm phẩm cấp, chất lượng của hàng nông sản nhất là đối với mặt hàng hải sản, hoa quả và thực phẩm tươi sống (theo số liệu điều tra của Viện Công nghệ sau thu hoạch và một số cơ quan chức năng thì tỷ lệ thất thoát sau khi thu hoạch của hầu hết các loại sản phẩm đều cao hơn đáng kể so với các nước trên thế giới và trong khu vực, tỷ lệ thất thoát lúa là 15%, rau quả 25-30%. Trong khi đó tỷ lệ chế biến sản lượng nói chung của nhiều loại sản phẩm còn ở mức rất thấp như chè mới đạt 40-45%; cây có dầu 15-20%; cao su khoảng 20%; rau quả thực phẩm 20%; thịt lợn 10-15%) mạng lưới thuỷ lợi tuy có tiến bộ nhưng không đồng bộ và hoàn chỉnh nên hiệu quả còn thấp, việc cung cấp điện có khá hơn nhưng chủ yếu mới phục vụ một phần cho đời sống và thuỷ lợi, còn phục vụ cho sản xuất còn khá thấp. Mạng lưới điện ở nông thôn còn thiếu quy hoạch, thiếu an toàn, tổn thất điện khá nhiều làm cho giá điện tăng cao ảnh hưởng khá nhiều đến tăng năng suất lao động trong nông thôn. Tỷ lệ dân số và lao động ở nông thôn còn khá cao, gây sức ép khá lớn về việc làm, về ruộng đất, về y tế, giáo dục. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn là vấn đề bức xúc. Mặc dù, chương trình quốc gia giải quyết việc làm trong những năm qua đã tạo được hơn1 triệu chỗ làm mới mỗi năm nhưng năm 2000 cả nước vẫn có khoảng 1447 nghìn người thất nghiệp, trong đó nông thôn 755 nghìn người chiếm 52%. Đối với khu vực nông thôn ngoài số không có việc làm còn nhiều người thiếu việc làm. Các cuộc điều tra về lao động tại thời điểm 1/7 hàng năm của những năm gần đây cho thấy lao động trong độ tuổi ở nông thôn thường chỉ sử dụng được 70% thời gian lao động. Cụ thể là: năm 1996: 72,3%; năm 1997: 73,1%; năm 1998: 71,1%; năm 1999: 73,6%; năm 2000: 74,2%. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đã làm ảnh hưởng khá nhiều đến đời sống, đến trật tự an ninh xã hội, đến việc di dân tự do ồ ạt vào các đô thị. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở nông thôn nước ta tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Nhìn chung số hộ nghèo và trung bình chiếm tuyệt đại đa số. Số hộ giàu và khá có tăng lên nhưng vẫn còn thấp. Về trình độ học vấn của nhân dân tuy có nâng cao nhưng vẫn còn thấp, số mù chữ vẫn còn đặc biệt là ở vùng xa và cao. Mạng lưới y tế ở nông thôn tuy có phát triển, nhưng ở nhiều vùng có bất cập, đặc biệt ở nhiều vùng khó khăn số bệnh nhân thường muốn về đô thị, thành phố để chữa bệnh. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở các bà mẹ và trẻ em ở vùng xa và cao còn nhiều. Phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế chưa gắn với bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tình trạng tài nguyên thiên nhiên đất, nước, rừng, biển bị khai thác quá mức cho phép dẫn đến nghèo, kiệt ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái là thực tế tồn tại rất đáng lo ngại. Tình hình trật tự an ninh xã hội có tiến bộ. Tuy nhiên, tình hình dân chủ, công bằng xã hội kỷ cương pháp luật chưa được đảm bảo. Tình trạng lấn chiếm đất, tham nhũng, buôn lậu, đầu cơ, cho vay nặng lãi, các tệ nạn xã hội như: mê tín dị đoan, nghiện hút, cờ bạc... chưa giảm, tình hình khiếu kiện trong nhân dân có chiều hướng gia tăng còn những truyền thống tốt đẹp trong gia đình, tình làng nghĩa xóm chưa được phát huy đầy đủ. Như vậy nhìn khái quát thì sự phát triển nông thôn nước ta đến nay đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều mặt yếu kém, bất cập. Đòi hỏi phải có những quyết sách, giải pháp mới cụ thể phù hợp với tình hình đất nước và xu thế phát triển thế giới trong giai đoạn hiện nay nhằm phát triển kinh tế nông thôn theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 2. Quan điểm phát triển kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển kinh tế nông thôn nhất thiết phải có hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường. Nước ta là một nước nghèo đi lên chủ nghĩa xã hội không có cách nào khác là sản xuất và kinh doanh phải có hiệu quả. Quan điểm hiệu quả bao gồm 3 mặt gắn bó với nhau: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Hiệu quả kinh tế đòi hỏi sản xuất ngày càng nhiều nông sản phẩm với giá thành hạ, chất lượng sản phẩm và năng suất lao động cao, tích luỹ và tái sản xuất mở rộng không ngừng. Hiệu quả xã hội đòi hỏi đời sống của nông thôn không ngừng được nâng cao, lao động có việc làm với thu nhập ngày càng tăng, thực hiện xoá đói giảm nghèo, số hộ khá và giàu ngày càng tăng, thực hiện được dân chủ, công bằng, xã hội văn minh, xoá bỏ được các tệ nạn xã hội, phát huy được truyền thống tốt đẹp của cộng đồng nông thôn. Hiệu quả sinh thái đòi hỏi môi trường sinh thái ngày càng được bảo vệ và hoàn thiện. Khi đánh giá sự phát triển của nông thôn mà chỉ dựa vào tăng trưởng kinh tế không thì không đủ, còn phải tính đến đất đai bị xoá mòn, từng bị tàn phá, nguồn nước và không khí bị ô nhiễm. Có đảm bảo cả 3 mặt: hiệu quả kinh tế, xã hội , môi trường thì phát triển kinh tế nông thôn mới bền vững được. Tuỳ theo vùng nông thôn, từng thời gian mà xem xét và giải quyết các mặt hiệu quả sao cho thích hợp. Phát triển nông thôn với kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nước ta hiện nay đang phát triển kinh tế nông thôn theo hướng xã hội hàng hoá ngày càng cao. Muốn vậy đi đôi với phát triển sản xuất phải mở rộng thị trường ở nông thôn ở rất quan trọng. Mở rộng tự do cạnh tranh sẽ tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá ở nông thôn, cũng như giữa nông thôn với đô thị, trong nước và nước ngoài. Người sản xuất có thể mua bán những thứ cần thiết phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng theo giá cả thị trường tránh được tình trạng ép giá, ép cấp. Tham gia vào thị trường có nhiều thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước với các doanh nghiệp Nhà nước, kinh tế tập thể, cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này cùng vận động hợp tác, liên kết, liên doanh một cách đa dạng về hình thức, quy mô và trình độ khác nhau. Cơ chế thị trường đòi hỏi không chỉ hợp tác mà còn phải cạnh tranh, chấp nhận những cơ may và rủi ro theo quy luật cung cầu và giá cả thị trường. Nhà nước cần phải có sự quản lý đối với thị trường để đảm bảo cho sản xuất và đời sống ở nông thôn hoạt động bình thường. Nhà nước quản lý điều tiết các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng và có hiệu quả. Phát triển nông thôn một cách toàn diện có tính đến lợi thế so sánh của các vùng khác nhau. Phát triển nông thôn không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường. Trong kinh tế không chỉ phát triển nông nghiệp và cả công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp không chỉ phát triển trồng trọt mà cả chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản. Tuy nhiên, phát triển nông thôn một cách toàn diện phải tính đến lợi thế của các điều kiện tự nhiên, kinh tế của các vùng đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển, các vùng xung quanh đô thị và các khu công nghiệp. Mỗi vùng có một thế mạnh nhất định vì vận cần phải có quy hoạch, định hướng phát triển các vùng nông thôn khác nhau thích hợp với điều kiện từng vùng. Các vùng trên gắn bó hỗ trợ nhau trong tổng thể phát triển nông thôn của cả nước. Phát triển nông thôn theo từng hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Muốn xoá bỏ dần sự lạc hậu của nông thôn, xây dựng nông thôn giàu đẹp và văn minh phải phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trước tiên phải dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xoá bỏ dần tính chất thuần nông, phát triển công nghiệp và dịch vụ. Việc phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản cho phép nâng cao giá trị nông sản phẩm hàng hoá phụ vụ cho xuất khẩu. Phát triển công nghiệp phải đi đôi với phát triển lâm nghiệp và thuỷ sản. Còn trong nông nghiệp giảm bớt tính chất độc canh, phát triển cây công nghiệp, rau quả, chăn nuôi. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất và xã hội như: giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc, các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, văn hoá, y tế, giáo dục làm thay đổi dần bộ mặt nông thôn. Việc áp dụng khoa học và công nghệ tiến bộ gắn liền với thuỷ lợi hoá, cơ khí hoá, điện khí hoá, công nghệ sinh học trong trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản ngành nghề, nhằm tăng năng suất, sản lượng, chất lượng cây trồng, vật nuôi với giá thành sản phẩm hạ và bảo vệ được môi trường sinh thái bền vững nông thôn. 3. Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam. a. Phương hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam. Vấn đề cơ bản và hết sức quan trọng của việc phát triển kinh tế xã hội nông thôn là xác định cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý, làm cơ sở tiền đề cho việc khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo điều kiện phát triển nhanh các ngành kinh tế nông thôn, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn là cấu trúc bên trong của kinh tế nông thôn. Nó bao gồm các bộ phận cấu thành lên cơ cấu kinh tế nông thôn, các bộ phận đó có mối quan hệ hữu cơ với nhau theo tỷ lệ nhất định về mặt số lượng, liên quan chặt chẽ về mặt chất lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau trong điều kiện thời gian và không gian nhất định tạo thành một hệ thống kinh tế nông thôn. Việc xác lập cơ cấu kinh tế nông thôn chính là giải quyết mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa tự nhiên và con người trong khu vực nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là thay đổi tỷ lệ các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ trong kinh tế nông thôn theo chủ định và định hướng đã định nhằm đạt trạng thái phát triển tối ưu và hiệu quả mong muốn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo sự giao lưu kinh tế giữa các vùng, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho người nông dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp nhưng sản lượng ngành nông nghiệp vẫn tăng lên về tuyệt đối nhằm đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho đất nước và xây dựng một nông thôn mới hiện đại, văn minh. Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX (tháng 3/2002) đã đánh giá: Hơn 10 năm qua, nông nghiệp nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển tương đối toàn diện, công nghiệp ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn bước đầu đã phục hồi và phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng, môi trường sinh thái và đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt... Tuy vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chuyển dịch chậm chưa theo sát với thị trường. Sản xuất nông nghiệp nhiều nơi còn phân tán, manh mún, mang yếu tố tự phát,... công nghiệp chế biến ở nông thôn nhất là công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản phát triển chậm. Ngành nghề dịch vụ chưa thu hút nhiều lao động. Đánh giá trên cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay đang là một chủ trương lớn của Đảng ta nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, kết cấu kinh tế hợp lý, kết cấu hạ tầng phát triển ngày càng hiện đại. Cụ thể phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn như sau: Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn, đặc biệt coi trọng chế biến nông - lâm - thuỷ sản, các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại nông thôn, các ngành nghề thủ công, tiểu thủ công nghiệp. Tranh thủ công nghệ hiện đại, tận dụng công nghệ truyền thống, chú trọng công nghệ tạo ra nhiều việc làm. Đồng thời phải coi trọng việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, mở mang nhiều nghề mới, song phải hết sức quan tâm tới bảo vệ môi trường. Phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ nông thôn. Coi trọng dịch vụ nông thôn phục vụ trực tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển cải thiện đời sống ở nông thôn. Các dịch vụ, bao gồm các khâu thiết yếu về tài chính, thương mại, kỹ thuật và đời sống. Mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyến công, dịch vụ thuỷ sản, thú y, bảo vệ thực vật cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Đảm bảo đáp ứng đầy đủ và kịp thời của sản xuất có hiệu quả, giá thành hạ... Thực hiện xã hội hoá thương mại với các nước bán hành chính nhất là Trung Quốc, Mỹ, EU; đáp ứng thông tin kịp thời cho nông dân và các doanh nghiệp. Đối với nông nghiệp: coi trọng việc đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất lúa gạo hàng hoá, chuyển mạnh sang sản xuất lúa gạo chất lượng cao, gắn với chế biến và tiêu thụ. Đẩy mạnh sản xuất ngô, sắn đáp ứng yêu cầu thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu phát triển mạnh các cây trồng có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu lớn. Mở rộng sản xuất các cây trồng thay thế nhập khẩu. Tăng diện tích trồng các loại cây xuất khẩu: chè, cao su, cây điều, cà phê. Với cây chè mở rộng diện tích đến năm 2010 đạt 100.000 ha; cao su: tiếp tục thâm canh diện tích cao su hiện có, để đến năm 2010 xuất khẩu khoảng 500.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 500 USD/năm; cây điều: đạt mục tiêu xuất khẩu 100.000 tấn; cà phê đạt mục tiêu: đảm bảo thường xuyên có 450.000 ha, sản lượng 650.000 đến 700.000 tấn cà phê và chất lượng tốt, đảm bảo kim ngạch xuất khẩu từ 0,8 đến 1,2 tỷ USD/năm. Ngoài ra, cần tập trung cao độ sản xuất ngô, đậu tương, sắn bằng các giống có năng suất cao, hàm lượng đạm cao. Chăn nuôi: trong 10 năm tới chủ yếu sản xuất đủ nhu cầu trong nước. Thực hiện tổ công tác thú y phòng chống dịch bệnh, xây dựng khu vực an toàn dịch bệnh, cải tạo giống nhất là giống lợi hướng nạc, bò sữa, bò thịt, gà vịt để mở rộng sản xuất thịt chất lượng cao, an toàn thực phẩm, giá thành hạ. Đẩy mạnh tiếp thị, mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi. Đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 600 triệu USD. Phát triển đàn bò sữa khoảng 200.000 con, sản xuất 200.000 tấn sữa, giảm tỷ lệ nhập khẩu sữa từ 93% hiện nay xuống còn 70%. Lâm nghiệp: tăng diện tích trồng rừng, tiếp tục đẩy nhanh khoanh nuôi tái sinh rừng. Tập trung phát triển rừng kinh tế phục vụ chương trình sản xuất giấy và chế biến gõ. Đưa ngành sản xuất lâm nghiệp trở thành ngành quan trọng trong phát triển kinh tế miền núi. Phấn đấu xuất khẩu đạt 1 đến 1,5 tỷ USD/năm, nâng độ che phủ rừng lên 43% vào năm 2010. Thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn có lợi thế phát triển nhất. Thực hiện tốt song song cả 2 chương trình đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản. Tăng tỷ trọng sản lượng khai thác xa bờ, ổn định khai thác vùng gần bờ, duy trì sản lượng ở mức cho phép. Thực hiện đa dạng ohá sản phẩm nuôi trồng. Phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ chuyển một bộ phận lao động khai thác gần bờ sang nuôi trồng và làm dịch vụ. Khai thác và sử dụng có hiệu quả mặt nước, kể cả chuyển một phần đất sản xuất nông nghiệp hiệu quả thấp sang nuôi trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh nuôi ở biển, nước lợ, nước ngọt, tăng sản lượng nuôi trồng tương đương sản lượng khai thác . b. Phát triển kết cấu hạ tầng. Theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn là tổng thể những phương tiện vật chất và thiết chế làm nền tảng cho kinh tế xã hội nông thôn phát triển, bao gồm hạ tầng kinh tế - xã hội của toàn ngành nông nghiệp và nông thôn, của vùng và của thôn xã. Trong từng giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, sự phát triển nông nghiệp nông thôn dựa trên một kết cấu hạ tầng có trình độ phát triển nhất định. Vì vậy trong giai đoạn hiện nay việc phát triển kết cấu hạ tầng là tất yếu. Phương hướng phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn nước ta giai đoạn hiện nay là: tập trung chủ yếu vào xây dựng các công trình thuỷ lợi, phát triển nông thôn, các khâu này phải đi trước một bước bảo đảm cho sản xuất hàng hoá và phục vụ đời sống, sinh hoạt cho dân cư nông thôn cụ thể: Về thuỷ lợi: Tiếp tục phát triển theo hướng lợi dụng tổng hợp, khai thác theo lưu vực sống; cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, sản xuất nuôi, thuỷ sản, du lịch, phòng chống thiên tai... trong nông nghiệp chuyển mạnh sang đầu tư làm thuỷ lợi phục vụ tưới cho cà phê, chè, mía đường, cây ăn quả, rau, nuôi trồng thuỷ sản... hiện đại hoá hệ thống đê sông Hồng, sông Thái Bình để chống được lũ ở mức thiết kế; xây dựng các hồ chứa thuỷ lợi tổng hợp ở miền Trung; kiểm soát lũ có hiệu quả ở đồng bằng sông Cửu Long để nâng cao hiệu quả phòng chống bão lũ và giảm nhẹ thiên tai. Về giao thông nông thôn: Đến năm 2005 có đường ôtô đến tất cả trung tâm xã. Tỷ lệ xã và huyện có mặt đường cứng đạt 80% trong đó bê tông hoá (mặt nhựa hoặc xi măng) đạt 30% đường giao thông nông thôn đi lại an toàn trong cả mùa mưa và khô; xoá bỏ 80% cầu khỉ và thay thế bằng cầu cứng các loại ở đồng bằng sông Cửu Long; phát triển giao thông phục vụ các trung tâm công nghiệp ở nông thôn và giao thông nội đồng, phổ biến các loại xe vận tải nhẹ (1,5 - 4 tấn). Về hệ thống điện: Đến năm 2010, 100% số xã được cung cấp điện lưới quốc gia hoặc bằng các nguồn tại chỗ khác (điện gió, điện mặt trời, điện chạy bằng xăng dầu, điện nhiệt, thuỷ điện nhỏ...) bảo đảm 90% số hộ nông dân được cung cấp điện lưới. Về phát triển các dịch vụ bưu chính viễn thông và các điểm văn hoá đến tất cả các xã; từng bước ứng dụng công nghệ thông tin cho nông nghiệp và nông thôn. Phát triển các thị xã, thị tứ, thị trấn trên địa bàn nông thôn để thực hiện chức năng trung tâm công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, văn hoá - xã hội. Đầu tư thoả đáng cho các vùng nghề, nhất là miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để đạt được mục tiêu công bằng xã hội. c. áp dụng khoa học - công nghệ - kỹ thuật vào lao động sản xuất. Sự xuất hiện các thành tựu khoa học công nghệ mới có tácđộng trực tiếp đến quá trình sản xuất nâng cao năng suất lao động, cho phép tạo sự phân công lao động mới. Đó cũng là yếu tố vật chất quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng. Những thành tựu mới của cách mạng sinh học và việc ứng dụng các thành tựu đó vào sản xuất đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, khả năng thích nghi rộng góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Phương hướng cụ thể: áp dụng khoa học và công nghệ tiến bộ, thích hợp nhằm đạt yêu cầu tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, lama nghiệp, thuỷ sản, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời góp phần phát triển kinh tế nông thôn bền vững. áp dụng công nghệ sinh học để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng sức đề kháng cho cây trồng, vật nuôi, giảm chi phí sản xuất, tận dụng được các phế thải nông nghiệp. áp dụng công nghệ sản xuất giống cây trồng, các chủ lực như lúa, ngô, lạc, điều, bông, rau và một số loại cây ăn quả. Coi đây là hướng đột phá để tăng suất sinh học và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng chịu mặn, chịu phèn, chịu sâu bệnh, tăng khả năng chịu mặn, chịu phèn, chịu sâu bệnh, giàu prôtrin thích hợp ở các vùng khô hạn, phèn mặn. Công nghệ sinh học phục vụ cho chăn nuôi, trước tiên, nhằm chọn lựa nhân giống gia súc có năng suất và chất lượng cao như giống bò, lợn có năng suất thịt, sữa cao, tạo các nguồn có khối vi sinh có hàm lượng prôtrin cao đểlàm thức ăn cho gia súc. Sản xuất các loại thuốc thú y, các loại văcxin mới. Trong việc tạo giống vật nuôi, tăng cường áp dụng công nghệ di truyền phân tử, công nghệ gen. Việc áp dụng công nghệ thông tin cho phép nắm bắt và xử lý nhanh các số liệu của thị trường, qua đó kịp thời nắm bắt thông tin giá cả trên thị trường. Việc phát triển mạng lưới vệ tinh khí tượng thuỷ văn cho phép thu nhận và dự báo trước về diễn biến địa chấn và môi trường sinh thái, có biện pháp xử lý kịp thời và hạn chế được thiên tai. Việc phát triển thông tin liên lạc trong và ngoài nước, giữa các vùng, địa phương, các cơ sở một cách rộng rãi nhằm nắm bắt kịp thời và đúng đắn, lưu thông, phân phối và tiêu dùng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt để quản lý điều chỉnh và cân đối trong quản lý vĩ mô và vi mô kinh tế nông thôn. Cơ khí hoá, điện khí hoá là một trong những quá trình của điện khí hoá nông thôn để giảm bớt lao động thủ công, nặng nhọc của người nông dân và tăng năng suất lao động. áp dụng sao cho có hiệu quả những công nghệ tiên tiến với quy mô, trình độ và các hình thức khác nhau. d. Hoàn thiện các chính sách kinh tế - xã hội ở nông thôn. Các chính sách kinh tế - xã hội luôn luôn có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đối với nông thôn những chính sách chủ yếu sau yêu cầu cần được quan tâm: Chính sách đất đai: chính sách đất đai nhằm cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai một cách lâu dài để người nông dân yên tâm đầu tư, thâm canh sử dụng có hiệu quả. Miễn giảm thuế sử dụng đất cho các đối tượng khác nhau, thúc đẩy tập trung ruộng đất. Chính sách tài chính tín dụng: đảm bảo cho người sản xuất được vay vốn với thủ tục đơn giản, quy mô vốn được vay tương đối lớn và tương đối dài với lãi suất hợp lý. Nâng cao tỷ trọng đầu tư cho phát triển công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ tương xứng với vai trò và vị trí của công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Chính sách mua bán vật tư và sản phẩm: phải hợp lý để người sản xuất sau khi trừ chi phí sản xuất có lãi để mở rộng sản xuất tránh tình trạng giá vật tư đầu vào cao còn giá bán sản phẩm lại thấp. Chính sách bảo trợ sản xuất: nhằm hỗ trợ người sản xuất gặp nhiều khó khăn do sự biến động thị trường giá cả trên thế giới và trong nước làm cho người sản xuất gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm với giá cả hợp lý. Chính sách đào tạo: khuyến khích những người sản xuất, đặc biệt là những nông dân nghèo có điều kiện học tập nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn đủ khả năng trình độ phát triển sản xuất. Chính sách khoa học và công nghệ: khuyến khích người sản xuất có điều kiện áp dụng ngày càng nhiều các tiến bộ khoa học và công nghệ như khoa học công nghệ về sinh học, thông tin, điện, cơ giới, thuỷ lợi... vào lao động sản xuất. Chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng hoá: khuyến khích người sản xuất nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh và xuất khẩu ngày càng nhiều sản phẩm trên thị trường và thế giới. Ví dụ: chính sách thưởng xuất khẩu giá trị kim ngạch xuất khẩu tính theo từng mặt hàng xuất khẩu. e. Hoàn thiện việc tổ chức quản lý Nhà nước đối với nông thôn. Nhà nước quản lý nông thôn bằng một hệ thống công cụ quản lý trong đó nổi lên là các công cụ quản lý bằng pháp luật, bằng chính sách và kế hoạch hoá. Pháp luật là hệ thống các quy phạm có tính chất bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nói chung và nông thôn nói riêng. Hệ thống pháp luật của Nhà nước ban hành đều tác động đến nông thôn với mức độ và phạm vi khác nhau. Vì vậy, phương hướng xây dựng hệ thống pháp luật là: tiếp tục điều chỉnh hoàn thiện các luật đã ban hành và bổ sung những luật mới phù hợp với quá trình đổi mới của đất nước nói chung và nông thôn nói riêng theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Cùng với những luật đã ban hành, Nhà nước ban hành các văn bản để hướng dẫn thi hành luật. Nâng cao trình độ và ý thức hiểu biết vào chấp hành pháp luật trong các tổ chức và trong nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật và xử phạt nghiêm minh vi phạm pháp luật. Hệ thống chính sách là hệ thống các phương thức và các phương tiện đồng bộ nhằm phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng cao đời sống của nhân dân trong điều kiện nhất định với hiệu quả cao. Xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ. Những chính sách này vừa mang tính độc lập nhất định vừa mang tính xen kẽ bổ sung lẫn nhau nằm trong một hệ thống chín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35385.doc
Tài liệu liên quan