Tiểu luận Tài nguyên đối với sự phát triển

Theo thống kê hiện nay tình trạng tàu biển mang cờ Việt Nam bị lưu giữ ở nước ngoài đang trong tình trạng báo động đỏ. Cơ quan chuyên môn đánh giá chất lượng tàu biển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương - Tổ chức hợp tác kiểm tra Nhà nước tại các cảng biển khu vực Châu Á Thái Bình Dương (Tokyo MOU) xếp tàu biển Việt Nam vào danh sách TOP 10 cụ thể đứng thứ 9 trong số các quốc gia có tỉ lệ tàu bị lưu giữ cao nhất thế giới. Nguyên nhân chủ yếu khiến tàu Việt Nam bị lưu giữ tại các cảng nước ngoài là do mất an toàn chống cháy, thiếu trang bị phao cứu sinh, an toàn hàng hải hoặc thậm chí vệ sinh tàu không sạch, để trang thiết bị không đúng nơi quy định

Nhưng không thể không nhắc tới việc trao đổi hàng hóa cũng ngày càng phong phú và nhộn nhịp hơn và tiếp nhận ngày càng nhiều tàu biển của các nước. Ví dụ như : Tổng số lượt tàu các loại đã vào sông Hậu qua luồng Định An tăng khá nhanh, từ 888 lượt năm 2006 lên 7.873 lượt năm 2009. Có được sự tăng trưởng này là do số lượng lượt tàu kéo sà-lan, bắt đầu từ cuối năm 2007, đã tăng lên rất nhanh (0, 542, 2.952, 6.824 lượt). Tuy nhiên trọng tải DWT bình quân mỗi lượt tàu kéo sà-lan sau khi tăng (6.756, 8.288 tấn) đến năm 2008, đã quay trở về mức 4.450 tấn.

 

doc30 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2055 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tài nguyên đối với sự phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước biển xanh trong và là một dung dịch muối tổng hợp rất tốt cho loại hình du lịch nghỉ dưỡng, nhiều eo vụng sóng biển yên lặng thuận lợi cho du ngoạn. Vì vậy, các thiên đường nghỉ dưỡng, công viên đại dương… mọc lên khắp các bờ biển của các nước theo nhu cầu nghỉ ngơi ngày tăng của con người. Ví dụ như Montego là 1 trong những thành phố hiện đại nhất vùng Caribbean. Nơi đây, có dãy đá ngầm trải dài bao quanh vùng vịnh, nước trong xanh, quanh cảnh tuyệt diệu. Hình ảnh: Bờ biển Montego, Jamaica. 2.2. Thực trạng tài nguyên biển tại Việt Nam: 2.2.1. Thực trạng tài nguyên sinh học biển Việt Nam: Trong vùng biển nước ta, đến nay đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Các loài sinh vật đó thuộc về 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có 3 vùng biển: Móng Cái- Đồ Sơn, Hải Vân- Đại Lãnh và Đại Lãnh- Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh học cao hơn các vùng khác. Trong tổng số loài được phát hiện có khoảng 6.000 loài động vật đáy; 2.038 loài cá (trong đó có hơn 100 loài cá kinh tế); 653 loài rong biển; 657 loài động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước. Được biết, trên diện tích gần 1.200 km2 rạn san hô, có tới hơn 300 loài san hô đá phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam. Sống gắn bó với các hệ sinh thái này là trên 4.000 loài sinh vật sống dưới đáy và cá, trong đó có trên 400 loài cá, rạn san hô cùng nhiều đặc hải sản.  a) Rừng ngập mặn: Trước đây rừng ngập mặn nước ta có diện tích khá lớn 400.000 ha, tập trung ở Nam bộ 250.000 ha, nhất là bán đảo Cà Mau, nay diện tích bị thu hẹp chỉ còn khoàng 252.500 ha chủ yếu là rừng thứ sinh, rừng trồng, rừng cây bụi. Rừng ngập mặn ở phía Bắc thường nghèo nàn nhưng ở Nam bộ được thừa hưởng nền nhiệt độ cao và những điều kiện thuận lợi khác “đe, hè” chắn sóng, chống lại sự bào mòn của biển đối với lục địa, đồng thời còng là công cụ của đất liền tiến chiếm đại dương. b, Hải sản: Theo sự phân bố của các vật thể hữu cơ trong biển thì biển Việt Nam có mật độ cá vào loại trug bình trên thế giới và có đủ các loại hải sản chủ yếu của các biển nhiệt đới khác. Trữ lượng đánh bắt khoảng 3 – 3,5 triệu tấn, có giá trị kinh tế cao nhưng chưa được khai thác đúng mức, chỉ mới đạt 60% mức có thể khai thác được hàng năm. * Cá biển: Theo đánh giá sơ bộ có khoảng trên 2000 loài cá trong đó có khoảng trên 100 loài có giá trị kinh tế cao (cá thu, cá trích, ngừ, bạc má,…). Có đủ các loại cá nổi, cá tầng giữa và cá tầng đáy. Nhưng nhiều hơn cả là cá nổi chiếm 63% tổng trữ lượng cá biển. Trữ lượng cá biển nước ta đạt khoảng 3 triệu tấn, cho phép khai thác hàng năm từ 1,2 - 1,4 triệu tấn, trong đó gần 50% sản lượng phân bố ở vùng biển Nam Bộ. Khả năng khai thác tốt nhất là ở độ sâu : 21 - 50 mét chiếm 58% khả năng khai thác toàn vùng biển. Khu vực có độ sâu từ 51 - 100 mét chiếm 24%. Khu vực ven bờ từ 20 mét nước trở vào chiếm 18%. Mức khai thác hiện nay đối với hải sản biển đã đến giới hạn cho phép, cần có biện pháp hạn chế. * Giáp xác, nhuyễn thể: Biển nước ta có 1647 loại giáp xác trong đó có 70 loài tôm, có những loài có giá trị xuất khẩu cao, như tôm he, tôm hùm, tôm sú. Nhuyễn thể có hơn 2.500 loài. Ngoài ra còn nhiều đặc sản như hải sâm, bào ngư, sò, điệp,… + Tôm: Tôm là loại đặc sản có tiềm năng khai thác lớn và có giá trị kinh tế cao, là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta hiện nay. Tôm phân bố rộng khắp ở khu vực gần bờ từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu. Khả năng khai thác tôm biển khá lớn, trong đó trên 70% ở viên biển Nam Bộ. + Mực: Khả năng khai thác mực là 30 - 40 ngàn tấn/năm và tập trung nhiều ở vùng biển Trung bộ (45 - 50%). Đây là nguồn tài nguyên có giá trị, mở ra triển vọng lớn cho việc khai thác và chế biến xuất khẩu trong tương lai. * Rong, tảo biển: Dọc bở biển nước ta, từ vùng trên triều đến vùng dưới triều đều có những thuận lợi cho đời sống của nhiều loài tảo bám. Đến nay, theo số liệu thống kê (1994 - Nguyễn Văn Tiến) trong vùng nước ven bờ đã phát hiện được 653 loài rong biển, 24 biến loài, 20 dạng, trong đó ở miền Bắc có trên 300 loài, ở miền Nam trên 500 loài. Trong chúng, 90 loài (14%) là những đối tượng kinh tế quan trọng cho các ngành công nghiệp hoá chất dược liệu, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón. Các loài rong câu thường có giá trị bậc nhất. Hiện nay, rong biển được trồng khá nhiều trong các đầm nước lợ. c, Ngư trường và thực trạng khai thác hải sản: Các nguồn lợi cá, tôm, mực… tập trung ở những vùng biển nhất định gọi là ngư trường. Nước ta có 15 ngư trường trong đó 12 ngư trường ở ven biển và 2 ngư trường ngoài khơi. Có 4 ngư trường trọng điểm được xác định là : Ngư trường Minh Hải - Kiên Giang; ngư trường Ninh Thuận - Bình Thuận , Bà Rịa - Vũng Tàu; ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa. Hình ảnh: Ngư trường quần đảo Hoàng Sa. Việc khai thác hải sản hiện nay tập trung ở các ngư trường lớn, đặc biệt là ngư trường Đông Nam Bộ, thể hiện ở bảng sau: Vùng Khả năng khai thác cho phép (nghìn tấn/năm) Thực trạng khai thác (nghìn tấn/năm) Vịnh Bắc Bộ 325 114 Ven biển Trung Bộ 240 200 Đông Nam Bộ 490 401 Tây Nam Bộ 250 213 2.2.2. Thực trạng tài nguyên khoáng sản biển Việt Nam: Trong các vùng biển Việt Nam đã biết khoảng 35 loại hình khoáng sản có quy mô trữ lượng khác nhau từ nhỏ đến lớn. a, Dầu mỏ và khí đốt. Nhiều nhà địa chất nước ngoài dựa vào những tài liệu mới mẻ đã mạnh dạn dự đoán rằng, dầu mỏ của thềm lục địa Đông Nam Á có thể có “tầm cỡ Trung Đông”. - Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác 4 – 5 tỷ tấn. Trữ lượng khí đồng hành 250 – 300 tỷ m3. Dầu khí đang có triển vọng lớn với điều kiện khai thác thuận lợi. - Dầu mỏ ở đây được xác định trong các trầm tích trẻ, chủ yếu thuộc tuổi Miôxen (khoảng 28 triệu năm về trước) và thường nằm ở độ sâu 1000 - 2000m. - Hiện nay sản lượng dầu khai thác mỗi năm gia tăng từ 0,4 triệu (1986) lên trên 7,0 triệu tấn (1995). Xuất khẩu thô đạt khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. - Theo những tài liệu thống kê hiện nay gần đây (1989) trữ lượng dầu mỏ trên một số vùng được đánh giá vào khoảng 1.500 triệu tấn. Vùng Trữ lượng dầu mỏ (triệu tấn) Vịnh Bắc Bộ 500 Cửu Long 300 Biển Tây Nam Bộ (Vịnh Thái Lan) 300 Các vùng biển khác 400 b, Hoá chất và khoáng sản. Bờ biển nước ta rất giàu có các chất : thạch anh, cát, sét, cao lanh, đá vôi,… cùng nhiều các hợp chất khác của các nguyên tố hoá học. Đây là nguyên liệu quý cho các ngành công nghiệp quan trọng. Các vùng bãi biển còn chứa lượng nguyên tố đất hiếm lớn lao. Nguyên tố đất hiếm không giống như một nguyên tố hoá học thông thường như vàng, sắt, ôxy,… mà nó gồm 15 nguyên tố trong bảng HTTH của Menđêlêép (Thứ tự từ 57 tới 71). Các dạng hỗn hợp của đất là flaridi, Mismetali (hỗn hợp kim loại của trất cả đất hiếm)… Biển nước ta rất giàu muối, nồng độ muối là 3,5% ngang với biển có độ mặn trung bình thế giới. Suốt dọc bờ biển nước ta có nhiều chỗ có thể dựng được các điểm trường để khai thác muối đặc biệt là các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Bình Thuận, Bà Rịa… Nghề làm muối là nghề truyền thống và giữ vai trò thiết yếu đối với đời sống của nhân dân. Muối ăn cũng như lương thực, thực phẩm, nước uống cần thiết cho đời sống của con người. 2.2.3. Thực trạng tài nguyên năng lượng biển Việt Nam: a, Thủy triều, nhiệt biển, gió biển: Một kho báu nữa của biển nước ta là nguồn năng lượng vô tận của thuỷ triểu, nhiệt biển và gió biển. Các dạng năng lượng này rẻ tiền, sạch và trở thành năng lượng của tương lai. Việt Nam nằm trong khu vực cận nhiệt đói gió mùa với bờ biển dài nên có thuận lợi cơ bản để phát triển năng lượng gió. Ở vùng ven biển, số giờ gió trong tháng là rất cao kể cả mùa hè cũng như mùa đông. Theo kết quả khảo sát chi tiết về năng lượng gió, tại Việt Nam, tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.360 MW bằng hơn 200 lần công suất của Thủy điện Sơn La. b, Năng lượng dòng chảy, sóng biển: Tiềm năng sử dụng năng lượng dòng chảy ở nước ta nói chung khá lớn. Dòng chảy không chỉ có lưu lượng lớn mà còn có lưu tốc ổn định do đó ẩn chứa một nguồn năng lượng cực lớn. Nơi gặp gỡ của các dòng biển nóng và dòng biển lạnh có rất nhiều hải sản , người dân có thể dựa vào đặc điểm này để đánh bắt hải sản. Sóng biển tạo ra nguồn năng lượng vô tận. Các kết quả tính toán cho thấy năng lượng sóng dọc dải ven bờ của nước ta rất phong phú. Dòng năng lượng trung bình yếu nhất đạt 15kW/m; mạnh nhất 30kW/m. Cụ thể vịnh Hạ Long, Quảng Ninh, vịnh Gành Rái, Bà Rịa - Vũng Tàu hội tụ đủ ba yếu tố: Mật độ năng lượng GWh/km2; tiềm năng GWh; hiệu suất GWh/km. 2.2.4. Thực trạng hàng hải và thông tin liên lạc trên biển Việt Nam: a. Các đường hàng hải và cảng biển: Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường quốc tế trong thời điểm hiện nay không chỉ phụ thuộc vào chất lượng và giá thành của sản phẩm mà còn phụ thuộc nhiều vào chi phí vận tải mà doanh nghiệp đó phải chi trả trong quá trình bao tiêu sản phẩm. Các mặt hàng được sản xuất trong nước nếu nhập nguyên liệu thô và xuất sản phẩm bằng đường thuỷ với các tàu biển có trọng tải lớn sẽ là kênh tiêu thụ có hiệu quả, giảm đáng kể chi phí vận tải và tăng hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy, yếu tố cảng biển là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trong việc quyết định lựa chọn vị trí của dự án. Đất nước ta có đường bờ biển dài 3.300 km, giao thông vận tải, buôn bán bằng đường biển từ lâu đã là một thế mạnh. Cụ thể các cảng biển chính hiện nay gồm: cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân ở miền Bắc, cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn ở miền Trung và cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái ở miền Nam. Năm 2007, tổng khối lượng hàng hoá thông qua các cảng tại Việt Nam là 177 triệu tấn, trong đó hệ thống cảng Sài Gòn là 55 triệu tấn. Hình ảnh: Cảng Hải Phòng. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết các cảng biển Việt Nam chỉ mới đạt tiêu chí cảng truyền thống với vai trò cơ bản là xếp dỡ hàng hoá. Trong số đó, có một số ít cảng mới được xây dựng có khả năng phát triển để đạt được các tiêu chí của một cảng hiện đại. b. Tàu biển : Theo thống kê hiện nay tình trạng tàu biển mang cờ Việt Nam bị lưu giữ ở nước ngoài đang trong tình trạng báo động đỏ. Cơ quan chuyên môn đánh giá chất lượng tàu biển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương - Tổ chức hợp tác kiểm tra Nhà nước tại các cảng biển khu vực Châu Á Thái Bình Dương (Tokyo MOU) xếp tàu biển Việt Nam vào danh sách TOP 10 cụ thể đứng thứ 9 trong số các quốc gia có tỉ lệ tàu bị lưu giữ cao nhất thế giới. Nguyên nhân chủ yếu khiến tàu Việt Nam bị lưu giữ tại các cảng nước ngoài là do mất an toàn chống cháy, thiếu trang bị phao cứu sinh, an toàn hàng hải hoặc thậm chí vệ sinh tàu không sạch, để trang thiết bị không đúng nơi quy định… Nhưng không thể không nhắc tới việc trao đổi hàng hóa cũng ngày càng phong phú và nhộn nhịp hơn và tiếp nhận ngày càng nhiều tàu biển của các nước. Ví dụ như : Tổng số lượt tàu các loại đã vào sông Hậu qua luồng Định An tăng khá nhanh, từ 888 lượt năm 2006 lên 7.873 lượt năm 2009. Có được sự tăng trưởng này là do số lượng lượt tàu kéo sà-lan, bắt đầu từ cuối năm 2007, đã tăng lên rất nhanh (0, 542, 2.952, 6.824 lượt). Tuy nhiên trọng tải DWT bình quân mỗi lượt tàu kéo sà-lan sau khi tăng (6.756, 8.288 tấn) đến năm 2008, đã quay trở về mức 4.450 tấn. Hiện nay có trên 30 hãng tầu biển nước ngoài hoạt động thường xuyên trên các tuyến vận tải biển đến Việt Nam để chở hàng xuất nhập khẩu và đã có 20 hãng tầu với 70 tầu đã được cấp phép khai thác tầu Container chuyên dùng dưới hình thức Liner (theo Quyết định của Bộ GTVT). Ngoài ra còn một số hãng khác tuy không trực tiếp đem tầu vào khai thác tại Việt Nam, nhưng đang thực sự khai thác thị trường này thông qua mạng lưới đại lý vận chuyển, môi giới tìm hàng. Bảng phân loại đội tàu chuyên dụng của Tổng công ty hàng hải Việt Nam. Trọng tải & loại tàu 0-5 tuổi 5-10 tuổi 10-15 tuổi 15-20 tuổi Trên 20 tuổi 1. Tàu hàng rời 10.001 - 15.000 dwt 1 15.001 - 20.000 dwt > 20.000 dwt 3 Cộng 1 3 2. Tàu dầu < 1.000 dwt 1.000 - 5.000 dwt 1 1 5.001 - 10.000 dwt 1 1 10.001 - 15.000 dwt 15.001 - 20.000 dwt > 20.000 dwt 2 Cộng 4 1 1 3.RORO/Container < 1.000 dwt 1.000 - 5.000 dwt 5.001 - 10.000 dwt 1 2 10.001 - 15.000 dwt 2 15.001 - 20.000 dwt 1 > 20.000 dwt Cộng 1 5 Tổng cộng (16 tàu) 6 9 1 c. Cáp quang và thông tin liên lạc biển: Về viễn thông quốc tế, chúng ta hiện có hai tuyến cáp quang trên biển là tuyến TVH nối Thái Lan – Việt Nam – Hồng Kông và tuyến SEA – ME – WE 3 nối châu Âu – châu Á . Hiện nay tại Việt Nam có các công ty viễn thông trong nước đóng góp xây dựng tuyến cáp biển: Saigon Postel (20 triệu USD), Viettel (20 triệu USD), FPT Telecom (10 triệu USD). Đầu năm 2004, VNPT bắt đầu xây dựng tuyến cáp quang biển Bắc-Nam. Cáp quang trên biển sẽ cung cấp các dịch vụ thoại, dịch vụ Internet, truyền số liệu, quảng bá cho kênh truyền hình, truyền dẫn cho các bộ ngành và đặc biệt đảm bảo an toàn cho mạng trục Bắc Nam. Hiện nay, Công ty viễn thông quốc tế VTI (Đơn vị thành viên của tập đoàn Bưu chính viễn thông VN - VNPT) đã đưa vào hoạt động hệ thống cáp quang biển quốc tế AAG (Asia America Gateway) tại VN. Hệ thống cáp quang biển này được đưa vào khai thác sẽ cho phép các nhà viễn thông mở ra khả năng kinh doanh loại hình dịch vụ mới, tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng truyền dẫn và nguồn vốn đạt hiệu quả đầu tư cao, đồng thời kết nối trực tiếp với các nước tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên hiện nay, cáp quang biển bị cắt trộm khá nhiều, được đánh giá cực kỳ nguy hiểm, chưa có nước nào xảy ra chuyện hàng chục km cáp quang bị cắt trộm như vậy. 1.500 tấn cáp bị cắt trộm là con số thống kê được cơ quan chức năng thông báo với báo chí sáng 5/6. Và tình trạng này đã khiến mạng viễn thông VN trở nên mất an toàn... 2.2.5. Thực trạng về một số tài nguyên biển khác của Việt Nam: a, Dân cư ven biển và hải đảo: Vùng ven biển Việt Nam có dân cư tập trung khá đông đúc, chiếm khoảng 30% tổng dân số của cả nước. Số người trong độ tuổi lao động có khoảng 10,2 triệu người. Dự báo đến năm 2011 dân số vùng ven biển khoảng gần 27 triệu người, trong đó gần 18 triệu người ở độ tuổi lao động. Gần đây, dân cư và cuộc sống của người dân trên một số đảo đã có bước phát triển nhờ chính sách di dân và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo. Tuy vậy, quy mô kinh tế biển Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD; trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới ước đạt 1 .300 tỷ USD, Nhật Bản 468 tỷ USD, Hàn Quốc 33 tỷ USD. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. b, Các bảo tàng biển và cổ vật: Hàng trăm nghìn cổ vật được tìm thấy cả dưới đáy biển đã phần nào cho thấy chứng tích của các hoạt động liên quan đến “lịch sử sông nước” Việt Nam; tầm quan trọng, vị trí chiến lược của Việt Nam trong những cuộc giao lưu thương mại quốc tế trên biển, trên sông… Trong khoảng 20 năm qua, việc phát hiện và khai thác cổ vật dưới nước hầu hết do ngư dân và chuyên gia nước ngoài hợp tác khai quật. Ở Việt Nam hiện nay quy mô của bảo tàng hải dương học khá phong phú và đa dạng: - Sa bàn, hình ảnh và các mô hình sinh thái biển. - Bể nuôi sinh vật biển. - Bảo tàng đa dạng sinh học. - Các mẫu vật lớn như: + Bộ xương cá voi lưng gù dài 18 m, nặng 18 tấn (Bộ xương được khai quật tại Tỉnh Nam Hà năm 1994). + Bộ xương nàng tiên cá (Dugong dugon) khai quật tháng 11/1997 tại bãi Lò Vôi (Côn Đảo), loài này đang bị nguy cơ tuyệt chủng. - Các mẫu vật nhỏ: + Những con Chim Yến trong chiếc tổ làm từ nước dãi của nó trên các vách đá treo leo giữa biển + Bạch tuộc đốm xanh lần đầu tiên thu mẫu được ở Việt Nam năm 1999, loài này có độc tố rất độc có thể gây chết người nếu bị cắn… c, Du lịch biển: Nước ta có lợi thế phát triển du lịch biển do: vùng biển rộng gấp 3 lần đất liền, bờ biển dài trên 3.260 km. có trên 3.000 đảo lớn nhỏ, khí hậu nhiệt đới gió mùa, bãi biển đẹp, giàu đa dạng sinh học, nhiều phong cảnh ven biển đẹp… Dọc ven biển có không dưới 126 bãi cát lớn nhỏ có khả năng chứa khoảng vài chục đến vài trăm ngàn người, trong đó có khoảng 20 bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế. Sự kết hợp hài hòa đó đã tạo cho biển Việt Nam có tiềm năng du lịch rất lớn. Các khu nghỉ dưỡng, chữa bệnh, du lịch sinh thái, lặn ngầm, tắm biển ngày càng nhiều và sang trọng. * Các bãi tắm biển nổi tiếng: - Miền Bắc: + Tỉnh Quảng Ninh: Trà Cổ, Vân Đồn, Bãi Cháy, Tuần Châu. + Thành phố Hải Phòng: Cát Bà, Đồ Sơn… - Miền Trung: + Tỉnh Nghệ An: Cửa Lò + Tỉnh Hà Tĩnh: Xuân Thành, Thiên Cầm… + Huế: Thuận An + Đà Nẵng: Hội An, Sơn Trà… - Miền Nam: + Bà Rịa – Vũng Tàu: Bãi Sau, Bãi Trước, Bãi Dâu, Bãi Dứa + Kiên Giang: Phú Quốc, Hòn Chông… Hình ảnh: Đảo Cát Bà – Hải Phòng. III. Cơ hội và thách thức đối với tài nguyên biển Việt Nam: 3.1. Cơ hội đối với tài nguyên biển Việt Nam: Trong xu thế "lấy đại dương nuôi đất liền", chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xác định một trong những mục tiêu cơ bản là "phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển”. Với nguồn tài nguyên biển dồi dào hiện có, Việt Nam có cơ hội để phát triển kinh tế biển xứng tầm với nhiều quốc gia giàu mạnh trên thế giới. 3.1.1. Cơ hội giao lưu quốc tế đường biển: Việt Nam là nước gắn liền với lục địa nhưng có tỷ lệ bờ biển trên diện tích thuộc top 10 thế giới. Với bờ biển dài hơn 3.260km bao bọc lãnh thổ Việt Nam ở cả 3 hướng Đông, Nam và Tây Nam và diện tích lãnh thổ trên bộ rộng 320.000km2, tính đơn giản thì cứ 100km2 diện tích, ta có tương đương 1km bờ biển (cao gấp 6 lần tỷ lệ này của thế giới). Vùng biển Việt Nam rộng khoảng 1 triệu ki lô mét vuông, án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Dọc bờ biển có một số trung tâm đô thị lớn, 90 cảng biển lớn nhỏ và gần 100 địa điểm có thể xây dựng cảng (kể cả cảng ở qui mô trung chuyển thế giới). Vì vậy, Việt Nam rất có lợi thế trong việc giao lưu quốc tế bằng đường biển. 3.1.2. Cơ hội phát triển công nghiệp khai khoáng: Ven bờ biển nước ta có nhiều loại khoáng sản và vật liệu xây dựng quan trọng phục vụ phát triển công nghiệp và hơn 6 vạn héc ta ruộng muối biển. Biển và biển ven bờ Việt Nam chứa nhiều sa khoáng như Ti, Zr, Sn... và vật liệu xây dựng (cát, cuội, sỏi...) làm vật liệu san lấp. Đây là lợi thế so sánh phát triển công nghiệp khai khoáng ven biển của nước ta, đặc biệt phải tính đến tác động của điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tuy nhiên, tài nguyên khoáng sản biển nói chung và dầu khí nói riêng thuộc nhóm tài nguyên không tái tạo, nên rất cần xây dựng chính sách, chiến lược quy hoạch, khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản một cách hợp lý để phát triển kinh tế xã hội bền vững. Theo dự đoán của các chuyên gia nước ngoài, Việt Nam có trữ lượng dầu khá lớn, ước tính khoảng 300 tỉ thùng (mỗi thùng - 159 lít). Họ còn dự báo vào thập kỷ đầu của thế kỷ XXI nước ta có thể sản xuất tới 300 đến 500 nghìn thùng trong mỗi ngày đêm. Nhờ vậy trong những năm qua, nhất là khi nền kinh tế mở cửa thì hàng loạt các hãng, các công ty dầu khí nổi tiếng trên thế giới vào Việt Nam để hợp tác thăm dò khai thác và tinh chế dầu mỏ như hàng shell (Hà Lan), Total (Pháp), BP (Anh)… cùng với nhiều công ty khác của Ấn Độ, Indônêxia… Mức khai thác dầu khí năm 2005 là 18,8 triệu tấn dầu thô và 6,89 tỷ m3 khí, sản phẩm dầu thô gần như xuất khẩu toàn bộ, kim ngạch xuất khẩu dầu đạt 7,44 tỷ USD, là ngành có đóng góp lớn nhất cho GDP kinh tế biển hiện nay. Khai thác dầu mỏ và khí đốt trên thềm lục địa riêng hay nền công nghiệp dầu khí của nước ta nói chung đang mở ra những triển vọng to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, ngành này càng được đẩy mạnh, càng được mở rộng thì mặt trái của nó gây ra cũng sẽ tăng tiến, đe doạ đến đời sống của sinh vật biển và đến môi trường tại một vùng biển được coi là trù phú nhất của đất nước. Không những thế, bờ biển nước ta còn rất giàu có các chất : thạch anh, cát, sét, cao lanh, đá vôi,… cùng nhiều các hợp chất khác của các nguyên tố hoá học. Đây là nguyên liệu quý cho các ngành công nghiệp quan trọng. Chẳng hạn : các loại cát (cát trắng, cát vàng, cát đen) không chỉ đơn thuần sử dụng chúng làm vật liệu xây dựng mà còn là nguyên liệu cho ngành quang học. Từ cát người ta có thể chế ra thuỷ tinh, pha lê trong suốt hay cùng một vài chất khác tạo ra các loại pha lê có màu rực rỡ như sắc cầu vồng. Cát quý có nhiều ở Cát Hải, Nghệ Tĩnh, Bình - Trị - Thiên. Cát ở Cam Ranh nổi tiếng nhất thế giới, có giá trị xuất khẩu cao, trữ lượng xấp xỉ 4 - 5 trăm triệu tấn. Trước đây người ta định xây dựng ở đây nhà máy sản xuất pha lê với công suất ba vạn tấn trong một năm. 3.1.3. Cơ hội mở rộng xuất khẩu hải sản: Ưu điểm của biển Việt Nam là có thềm cát lục địa mở rộng, kèm theo những dãy sơn đảo rất thuận tiện cho việc đánh cá. Đồng thời biển Việt Nam còn có những dòng hải lưu ven biển và những dòng sông lớn từ các vùng sâu trong nội địa chảy ra đem theo những sinh vật trôi nổi làm mồi cho cá, khiến cho mật độ hải sản có thể cao hơn so với một số vùng biển nhiệt đới khác. Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực với 75 loài tôm, 25 loài mực, 2.100 loài cá, 7 loài bạch tuộc cùng nhiều loại nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao như ngọc trai, vẹm, hào, bào ngư, sò huyết, ngao… Vì thế có nhiều cơ hội mở rộng xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản trong 5 tháng đầu năm 2010 đã đạt 1,62 tỉ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó xuất khẩu tôm đông lạnh đã tăng 29,5% so với cùng kỳ, đặc biệt tại các thị trường EU, Trung Quốc, Hàn Quốc... Mặt hàng cá tra, basa mặc dù bị thiệt hại do đồng euro mất giá so với đồng USD nhưng cũng có mức tăng trưởng 12,3%. Mỹ vẫn là nhà nhập khẩu cá tra và tôm lớn thứ 2 của VN. Từ đầu năm đến nay cá tra VN xuất khẩu sang Mỹ đã đạt trên 13.000 tấn, trị giá 40 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của VN sang Mỹ và Canada cũng đã tăng hơn 500% so với cùng kỳ năm trước. Không chỉ tăng về lượng, giá xuất khẩu tại các thị trường này đang ngày càng hấp dẫn với mức giá trung bình khoảng 3,83 USD/kg. Khai thác hải sản và nuôi trồng thủy sản nước lợ vốn là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của biển đã đóng góp khoảng 4,5 tỷ USD trong tổng giá trị thủy sản xuất khẩu (2008); tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động đánh cá trực tiếp, nuôi thủy sản và 50 vạn lao động dịch vụ liên quan. 3.1.4. Cơ hội phát triển du lịch biển: Với bờ biển dài trên 3.000 km, hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, hàng loạt những bãi tắm cát trắng, nước trong xanh trải dài ven biển là những điều kiện thuận lợi cho du lịch biển Việt Nam phát triển. Những bãi biển, vịnh biển của Việt Nam được du khách cả thế giới biết đến như vịnh Hạ Long, vịnh Nha Trang hay bãi biển Đà Nẵng được Tạp chí Forbes bầu chọn là một trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh… đều nói lên sức hút của biển Việt Nam đối với du khách trong và ngoài nước. Dọc bờ biển Việt Nam đã có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc phát triển du lịch, trên 30 bãi biển đã được đầu tư và khai thác. Trong đó, các khu vực biển có tiềm năng lớn đã đầu tư phát triển là vịnh Hạ Long - Hải Phòng - Cát Bà; Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam; Vân Phong - Đại Lãnh - Nha Trang; Vũng Tàu - Long Hải - Côn Đảo; Hà Tiên - Phú Quốc; Phan Thiết - Mũi Né. 3.2. Thách thức đối với tài nguyên biển Việt Nam: Lịch sử phát triển của thế giới cho thấy những bước đột phá mang tầm thế giới cho đến nay hầu như đều bắt nguồn từ những quốc gia – biển (đại dương). Đó là Italia, Anh, Nhật bản, Singapo, Trung Quốc… Ngày ngày, thế giới đang bước vào giai đoạn bùng nổ phát triển mới xu hướng ngày càng khẳng định tầm quan trọng to lớn của biển và đại dương. Tình trạng khan hiếm nguyên liệu, năng lượng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết, dẫn tới cạnh tranh thị trường, tranh chấp lãnh thổ và xung đột quốc gia thừong xuyên và gay gắt hơn. Vươn ra biển khai thác đại dương đã trở thành khẩu hiệu mang tính chiến lược của toàn thế giới. Tuy nhiên, tài nguyên biển Việt Nam vẫn còn có nhiều thách thức đang được đặt ra. 3.2.1. Thách thức trong việc quản lí tài nguyên biển: Tài nguyên biển thuộc dạng tài nguyên chia sẻ, chứa đứng “yếu tố không gian”, là tiền đề phát triển đa ngành. Song việc quản lí biển, đảo đến nay vẫn theo cách tiếp cận mỏ kiểu “điền tư, ngư chung” và chủ yếu quản lí theo ngành. Trong một thời gian dài, quản lí biển đã thuộc về nhiều ngành, cơ quan chủ yếu quan tâm đến vấn đề chủ quyền an ninh trên biển,… Vì vậy, quản lí tài nguyên môi trường biển xem như bỏ trống. Các phương thức cách tiếp cận mới chậm được áp dụng, nếu đã áp dụng cũng chưa có khả năng nhân rộng như: tiếp cận hệ thống tổng hợp, liên ngành trong quản lí biển và vùng bờ, quản lí dựa vào hệ sinh thái và đồng quản lí. Khu vực biển Đông đang có tranh chấp gay gắt nên việc giải quyết tranh chấp liên quan đến bi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận Tài nguyên biển đối với sự phát triển.doc
Tài liệu liên quan