Tiểu luận Tục thờ cúng tổ tiên

MỤC LỤC

1. PHONG TỤC THỜ CÚNG LÀ GÌ? 2

2. TỤC THỜ CÚNG XUẤT HIỆN TỪ KHI NÀO? 2

3. QUAN NIỆM THỜ CÙNG TỔ TIÊN 3

4. BÀN THỜ GIA TIÊN 4

5. GIỖ CHẠP 4

6. NHÀ THỜ HỌ ( TỪ ĐƯỜNG ) 5

7. GIÁO DÂN VỚI VIỆC THỜ CÚNG TỔ TIÊN 6

8. CÁC LOẠI THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA HÀN QUỐC 7

 

 

doc7 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4495 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tục thờ cúng tổ tiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa Việt Nam Học --------------- TIỂU LUẬN GIỮA KỲ TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN Sinh viên: 1. PHONG TỤC THỜ CÚNG LÀ GÌ? Dân tộc Việt Nam rất trọng lễ, và trọng lễ thì ân nghĩa giữ phần quan trọng. Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra mình. Người con hiếu thảo biết ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, và đã hiếu với cha mẹ phải hiếu với ông bà tổ tiên tức là nguồn gốc của mình. Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải phụng dưỡng, phải tuân theo những lời dạy bảo của bậc bề trên, phải lựa ý chiều chuộng các Người, phải ăn ở sao cho các Người được hài lòng. Ở Hàn Quốc có tục ngữ như “ Cây không có rễ cây không thể tồn tại được, không có tổ tiên thì mình không thể tồn tại được”. Khi các Người trăm tuổi, ngoài việc lo ma chay chôn cất, con cháu phải thờ cúng các Người, cũng như thờ cúng tổ tiên về trước. Thờ cúng tổ tiên là việc lập bàn thờ tại nhà và cúng bái trong những ngày sóc vọng giỗ tết... Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, thì con người ta phải có tổ tiên mới có thể có mình được. Bỏ tổ tiên không thờ cúng cũng tức là quên nguồn gốc, huống chi ông bà là những người sinh dưỡng cha me và cha mẹ là người sinh dưỡng mình (trích trong "Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam" của Toan Ánh). 2. TỤC THỜ CÚNG XUẤT HIỆN TỪ KHI NÀO? Không có tài liệu nào ghi chính xác về tục thờ cúng của dân tộc Việt Nam xuất hiện từ khi nào. Chỉ cho rằng tục thờ cúng có từ thời vua Hùng Vương. Thời gian xuất hiện tục thờ cúng tổ tiên của Hàn Quốc cũng không biết rõ từ khi nào. Chỉ cho rằng đã có lâu rồi. Nguôn gốc của thờ cúng là ngày xưa người ta muốn tránh từ thiên tai, bệnh tật, và những mãnh thú. Cho nên họ thờ cúng trời, đất, sớm và các mãnh thú. Nhưng hiện nay tục thờ cúng được ảnh hưởng Nho Giáo nên trở thành phong tục thờ cúng tổ tiên của hiện đại. 3. QUAN NIỆM THỜ CÙNG TỔ TIÊN Trong quan niệm dân gian Việt Nam, qua việc thờ cúng tổ tiên, giới hữu hình và giới vô hình luôn luôn có sự mật thiết. Sụ thờ cúng chính là môi trường gặp gỡ của giới hữu hình và vũ trụ thần linh. Đối với người Việt Nam cổ, chết chưa phải là hết, thể xác tuy chết đi nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn hằng "lui tới" gia đình. Thể xác tiêu tan nhưng linh hồn vẫn còn bất diệt. Tục ta lại tin rằng dương sao âm vậy, người sống cần gì, sống làm sao thì người chết cũng như vậy và cũng có một cuộc "sống" ở cõi âm như cuộc sống của người trên dương thế, nói khác đi, người chết cũng cần ăn, uống, tiêu pha, nhà ở như người sống. Tin như vậy, việc cúng lễ là cần thiết, và việc thờ cúng tổ tiên không thể không có được. Tục lại tin rằng vong hồn người khuất thường luôn ngự trên bàn thờ, có ảnh hưởng nhiều đến hành động của người sống. Nhiều người vì sợ vong hồn cha mẹ buồn đã tránh những hành vi xấu xa, và đôi khi định làm một công việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng, xem công việc lúc sinh thời cha mẹ có chấp nhận hay không. Người ta sợ làm cho vong hồn cha mẹ phải tủi hổ qua hành động của mình và mang tội bất hiếu.(Trích trong "Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam" của Toan Ánh) 4. BÀN THỜ GIA TIÊN Theo điều tra năm 1999 – 2000, hầu như nhà nào cũng thờ gia tiên không kể trưởng thứ, cứ lập gia đình ra ở riêng là dành một chỗ trang trọng nhất để thờ. Với những gia đình chưa có điều kiện kinh tế hoặc con thứ thì cũng vẫn có một ban thờ (Ở thành phố thường bằng gử, treo trên tường, hoặc đặt trên mặt tủ; Ở nông thôn thì có cả ban thờ bằng tre, gử, nhiều loại, có bát hương, lọ hoa, ảnh hoặc tranh truyền thần) của ông bà hoặc bố mẹ. Những nhà có điều kiện thì đóng mới hoặc mua bàn thờ đặt ở gian trang trọng, câu đối, hoành phi. Bàn thờ gia tiên là nơi biểu hiện - vật thể hoá những tình cảm, tránh nhiệm của thế hệ đang sống với các thế hệ trước của gia đình (Gia tiên). Ngoài các ngày kỵ (Giỗ chạp), ngày một (Ngày sóc), ngày rằm (Ngày vọng) trong tháng, các lễ tiết trong năm (Hàn thực, Đoan ngọ, Trung thu, Tết Nguyên Đán) thì mọi vui buồn trong gia đình đều được chủ nhà “báo cáo” với gia tiên về chứng giám, giàu có thì mâm cỗ, khá chút thì hoa quả, đĩa xôi, chén rượu… nghèo thì nén hương, chén nước sạch… 5. GIỖ CHẠP Trong gia đình, việc cúng giỗ gia tiên, tổ tiên chỉ được thực hiện với những người trong phạm vi từ bốn đời trở xuống (Người mà chủ gia đình gọi là cụ, còn từ đời thứ 5 trở lên được giỗ chung trong phạm vi họ tộc hay trong chi phái). Giỗ chạp, theo phong tục xưa chỉ diễn ra ở nhà con trai trưởng - bậc trai trưởng. Những ngày giỗ, tuỳ theo tình hình kinh tế của nhà trưởng mà cử bàn to hay nhỏ, nhiều hay ít. Có một thực tế là không phải tất cả các gia đình đều có con trai hay tất cả những con trai trưởng đều còn, trong những trường hợp như vậy, từ lâu ở người Việt thường có chế độ thừa tự (Con trai thứ của bậc thứ được nhận phần cúng giỗ) hoặc con gái cũng cúng cha mẹ, ông bà. 6. NHÀ THỜ HỌ ( TỪ ĐƯỜNG ) Không phải tất cả các họ, tộc đều có (hoặc còn) nhà thờ - một địa điểm thờ cúng tổ tiên chung của các thành viên trong họ - theo nghĩa là những người được coi là có chung một cụ tổ về đằng cha, vì tuỳ thuộc những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Tuy nhiên, nhà thờ họ (Từ đường) là một hiện tượng ngày càng phổ biến, phát triển của cư dân Việt nói chung, của vùng Nam Định nói riêng. Tính đến năm 1998, theo số liệu điều tra của Sở Văn hoá – Thông tin tỉnh Nam Định, toàn tỉnh có đến 3.368 từ đường chính phái, hoặc chi, nhánh của các dòng họ, chi phái thì có bấy nhiêu từ đường. Thôn Hưng Thịnh, xã Hoàng Nam, huyện Nghĩa Hưng với 30 họ, 34 nhà thờ; thôn Bách Tính, Nam Trực có 15 nhà thờ họ; làng Hoành Nha, xã Giao Tiến, huyện Giao Thuỷ có 54 từ đường; Trà Lũ có 18 từ đường. mặt khác có một thực tế, do những điều kiện lịch sử , kinh tế xã hội cụ thể mà Nam Định càng đi về mạn Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, những làng có lịch sử khai phá từ khoảng vài trăm năm trở lại, những từ đường lại mọc lên nhiều hơn. Trong những điều kiện của một cư dân tiểu nông, mỗi lần phải rời quê hương bản quán đi khai khẩn vùng đất mới, ý thức về quê hương, tổ tiên, dòng họ lại có dịp trửi dậy. 7. GIÁO DÂN VỚI VIỆC THỜ CÚNG TỔ TIÊN Trong các dòng truyền giáo hoạt động ở Việt Nam như dòng Tiên, dòng Phanxico, Hội truyền giáo Pari thì dòng Đa Minh - vốn được giao cai quản địa phận đông Đàng Ngoài, trong đó có Nam Định, cũng dần dần chấp nhận một số phong tục, quan niệm của người Việt trong đó có chuyện tang ma, tưởng nhớ người thân đã khuất trong gia đình. Các tín đồ Công giáo đã tham gia thờ cúng tổ tiên với từng cấp độ khác nhau như thờ cúng người có công mở đất lập làng, tổ nghề, thờ cúng họ tộc, quan niệm về hồn, vía của người đã mất, các hình thức giỗ chạp, những giọng điệu hát kinh, cầu kinh cho người qua đời. Từ năm 1974, theo tinh thần của Công giáo cả nước, giáo dân Nam Định, được tổ chức tham dự các nghi lễ tôn kính tổ tiên, ông bà với năm điểm quy định: - Được đặt bàn thờ tổ tiên thấp hơn bàn thờ Chúa. - Được đốt đèn nhang, vái lạy trước bàn thờ tổ tiên. - Được cúng giỗ trong gia đình theo phong tục địa phương. - Trong hôn lễ, dâu rể được làm lễ tổ, lễ gia tiên trước bàn thờ tổ tiên. - Trong tang lễ, được vái lạy thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương. Trước đây, giáo dân thường chôn cất người chết một lần và đào sâu chôn chặt, xây mộ trong nghĩa địa chung, (Nghĩa địa của giáo dân thường được quy hoạch gọn gàng, quy mô hơn những bãi tha ma, nghĩa địa của dân không theo đạo). Hơn chục năm trở lại đây, nhiều giáo dân cũng thực hiện việc cải táng. 8. CÁC LOẠI THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA HÀN QUỐC Ngày xưa Hàn Quốc có nhiều loại tục thờ cúng tổ tiên. Nhưng bây giờ người ta đều quên rồi. Nên người Hàn Quốc thường thờ cúng 2 loại. - Giỗ chạp (Ghi Je) Hàng năm vào ngày tổ tiên chết, con và cháu thờ cúng tổ tiên gọi là Giỗ chạp. Ngày xưa, vào ngày đó thờ cúng tổ tiên từ 12giờ đêm đến 1giờ sáng, nhưng bây giờ, nếu vào buổi đêm thì mấy giờ cũng được. - Cha Le Vào ngày tết và ngày sinh nhật của tổ tiên thì cúng. Hiện nay vào ngày Trung Thu thì mới thờ cúng tổ tiên. - Món ăn để trên bàn thờ(Che Su) Các món ăn để trên bàn thờ để cho tổ tiên. Những người Hàn Quốc nghĩ rằng, vào ngày thờ cúng thì các tổ tiên vào nhà và ăn các món ăn. Nên người Hàn Quốc phải chuẩn bị món ăn tổ tiên thích. TÓM LẠI Sự thờ cúng tổ tiên của Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm giống nhau và khác nhau. Nho giáo ảnh hưởng đến Hàn Quốc và Việt Nam. Vì thế có nhiều điểm giống nhau. Lý do thờ cúng tổ tiên của hai nước là dân tộc của hai nước đều kính trọng tổ tiên và nghĩ rằng sau khi người chết không phải là hết. Tính của tổ tiên sống cùng với con và cháu. Điểm khác nhau lớn nhất là ở gia đình Hàn Quốc không có bàn thờ. Ngày xưa ở Hàn Quốc mọi gia đình đều có bàn thờ, nhưng đến bây giờ ở gia đình không còn bàn thờ nữa. Chỉ còn mấy gia đình thôi. Còn lại, chỉ vào ngày Tết thì mới làm bàn thờ được. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVHOA (41).doc
Tài liệu liên quan