Tiểu luận Vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

 Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong “Chính cương vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy là lần đấu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại ,phù hợp với lợi ích của các giai cấp và dân tộc . Sức mạnh đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà chính là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu giai cấp trên cơ sở định hướng xã hội chủ nghĩa.

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11264 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài làm: Hồ Chí Minh ,vĩ lãnh tụ vĩ đại của dân tộc,Người không chỉ là một nhà quân sự tài ba ,một nhà chính trị sáng suốt mà còn là một nhà tư tưởng lớn. Người không chỉ mang lại cho người dân Việt Nam nền hòa bình thống nhất mà còn để lại cho chúng ta một tài sản tinh thần vô giá ,đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh với hạt nhân là chủ nghĩa Mac-Lenin.Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng sau sắc to lớn tới cách mạng Việt Nam ,như ngọn đuốc soi đường đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi. Một trong những nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp ,một trong những nhân tố đảm bảo thành công cho cách mạng Việt Nam ,một đóng góp to lớn cho kho tàng lí luận cách mạng của thế giới. I)Vấn đề dân tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mac-Lenin: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ sở hữu của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, … Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và bóc lột sức lao động, chống bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám. Đó là cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản. Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt địa vị và lợi ích giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là những cuộc cách mạng xã hội. Nguyên nhân dẫn tới đấu tranh giai cấp là do sự đối lập về lợi ích cơ bản ( lợi ích về kinh tế ) giữa các giai cấp trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Thông qua đấu tranh giai cấp, mâu thuấn cơ bản – giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất – được giải quyết, từ đó thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Bên cạnh vấn đề giai cấp là vấn đề dân tộc. . Dân tộc là một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ dựa trên một cơ sở chung về kinh tế, văn hoá, ngôn ngữ. Hiểu theo nghĩa rộng thì dân tộc là toàn bộ nhân dân một nước, là quốc gia - dân tộc. Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ,trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản ,Mac-Engel đã đề cập như sau : Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như vậy, Marx-Engels đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì: - Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng: tư sản và vô sản. - Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản. -  Vào thời của Marx, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh. Do vậy ,trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp công nhân.Marx-Engels viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo Marx-Engels, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Lenin từng nhận xét, đối với Marx so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi. Đến thời Lenin , khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lenin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Lenin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại." Sau khi Lenin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản. II) vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có những vận dụng linh hoạt và sáng tạo đối với thực tiễn cách mạng Viện Nam. Trong tư tưởng của mình ,Hồ Chí Minh cho rằng phải biết giải quyết hài hòa các vấn đề dân tộc và giai cấp song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết trước hết. Quan điểm này khác với chủ nghĩa Mac-Lenin và Quốc tế cộng sản, và Người đã bảo vệ luận điểm của mình trước sự phê phán của Quốc tế cộng sản.Điều này đã được thể hiện ở tất cả các luận điểm lớn của Người. Trước khi học thuyết Mac-Lenin được truyền bá vào Việt Nam ,đã có rất nhiều các phong trào yêu nước nổ ra rầm rộ như phong trào Duy Tân ,Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái….nhưng tất cả đều thất bại.Nguyên nhân cơ bản của sự thất bại này là sự bế tắc về đường lối. Tuy tràn đầy nhiệt huyết và khí phách nhưng các vị lãnh tụ các phong trào ấy đã không nhận thức được bối cảnh thời đại, không xác định được giai cấp trung tâm của thời đại này là giai cấp công nhân – giai cấp tiến bộ của xã hội với phương thức sản xuất mới.Chỉ cho đến khi Nguyễn Ái Quốc quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911, sự bế tắc ấy mới có lời giải. Người đã tiếp xúc với ánh hào quang chân lí của chủ nghĩa mac-Lenin để từ đó mở ra con đường đi đên độc lập cho dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng của mình ,Người rất coi trọng vấn đề dân tộc đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước ,nhưng người đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; Người sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân; gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đây chính là sự thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đi lên từ chủ nghĩa yêu nước ,Hồ Chí Minh một mặt đi theo lí luận của Mac-Lenin ,một mặt vẫn nhấn mạnh đến vấn đề dân tộc.Người cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Vì vậy cần giải quyết các vấn đề dân tộc trước nhưng theo người thì giải phóng dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội –đây chính là phạm trù thuộc về vấn đề giai cấp. Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất…”. Trong xã hội chủ nghĩa không còn mâu thuẫn giai cấp nữa, vấn đề giai cấp được giải quyết triệt để. Chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột, xoá bỏ đến tận gốc rễ của quan hệ bóc lột giai cấp; thiết lập một nhà nước mới thực sự của dân, do dân, vì dân, tất cả đều mang tính dân tộc trên cơ sở nền tảng tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, thì mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Như vậy, giải quyết vấn đề dân tộc luôn phải gắn với mục đích để sao cho vấn đề giai cấp cũng đồng thời được giải quyết. Người khẳng định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong “Chính cương vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy là lần đấu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại ,phù hợp với lợi ích của các giai cấp và dân tộc . Sức mạnh đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà chính là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu giai cấp trên cơ sở định hướng xã hội chủ nghĩa. Như chúng ta đã biết ,Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩ Mac-Lenin. Chính từ lòng yêu nước nồng nàn mà người đã ra đi để rồi tìm đến với chân lí cách mạng chủ nghĩa mac-Lenin. Từ đó Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước của dân tộc với tinh thần của Quốc tế cộng sản trên thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp .nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc là tiền đề để tiến tới giải phóng giai cấp. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp bị trị khỏi sự áp bức, bóc lột của giai cấp thông trị. Thế nên lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. Trong tiến trình cách mạng, nhất là ở những thời điểm có ý nghĩa quyết định như khi chuẩn bị tổng khởi nghĩa trong cách mạng tháng Tám – 1945 hay những năm tháng cam go của cuộc kháng chiến chống Mĩ sau này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh quyền lợi dân tộc lên trên hết và trước hết. Tháng 5/1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Bởi vì “giai cấp vô sản mỗi nước, trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản, không phải chỉ là sự chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh mang giá trị định huớng sâu sắc. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam và tham khảo cách mạng các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích sự kết hợp hữu cơ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, ta có thể thấy Hồ Chí Minh đã vạch ra hướng đi vô cùng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, đó là chìa khoá đi đến thành công của cách mạng Việt Nam, vì những lí do sau đây: Trước hết, muốn giành đuợc thắng lợi triệt để thì cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải đi vào quỹ đạo và phải là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng ấy phải được lãnh đạo bởi chính Đảng của giai cấp công nhân, nhưng phải có toàn dân tham gia, trong đó lực lượng nòng cốt là liên minh công-nông. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa riêng giai cấp công nhân, thậm chí là cả nông dân vào lực lượng cách mạng là hoàn toàn không đủ. Chỉ khi nào toàn dân cùng tham gia đấu tranh thì sức mạnh dân tộc mới trở thành sức mạnh vô song. Sau nữa, cuộc đấu tranh giai cấp – giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc ( tức là mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân, giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ) không tách rời cuộc đấu tranh dân tộc – giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực thù địch xâm lược. Nhưng trước hết và trên hết là phải giải quyết được vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc. “Chính lập trường và lợi ích của giai cấp công nhân đòi hỏi phải giải phóng dân tộc”. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, vấn đề giai cấp được thể hiện ở vấn đề dân tộc, còn vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân, chứ không phải là hi sinh cái nọ cho cái kia. Từ quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Người đã khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, và Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất. Theo Hồ Chí Minh, “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam”. Phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản, Người cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là “ Đảng của giai cấp vô sản “, đồng thời là “ Đảng của dân tộc Việt Nam “. “Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất,trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân “ (Hồ Chí Minh toàn tập). Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kì của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã qui tụ lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Nhờ đó, ngay từ đầu, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. Điều này cũng thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưỏng của Bác. Trung thành với những quan điểm của V.I.Lênin, Bác vẫn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn thế nữa, Bác còn giữ được tinh thần dân tộc trong quan điểm của mình. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng ( tháng 2/1951 ), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Năm 1953, Bác viết: “Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc…Đảng là đảng của giai cấp lao động mà cũng là đảng của toàn dân”. Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”. Năm 1961, Bác tiếp tục khẳng định: “Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiên vị”. Năm 1965, Người cho rằng: “Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Qua hàng loạt các cách thể hiện khác nhau như vậy, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định được bản chất giai cấp của Đảng ta là Đảng ta mang bản chất giai cấp công nhân. Nhưng Người quan niệm: Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của toàn dân tộc. Quan điểm này có ý nghĩa lớn lao đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cho nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Vịêt Nam là Đảng của chính mình. Trong thành phần của Đảng, ngoài công nhân, còn có những người ưu tú trong giai cấp nông dân, trí thức và các thành phần khác. Đảng ta cũng khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời kì cách mạng. Hồ Chí Minh rèn luyện Đảng luôn luôn chú trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác. Nghị quyết Đại hội lần VII của Đảng đã chỉ rõ: “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng , chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập. Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc…”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ nét sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc, tính nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi hoạt động của Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Mọi biểu hiện tuyệt đối hoá vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc hoặc quá nhấn mạnh vấn đề dân tộc mà xem nhẹ vấn đề giai cấp đều đi ngược với quan điểm của Hồ Chí Minh. Thế nên, một trong bốn nội dung về công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, lí luận có nội dung: Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, chú ý chống giáo điều, cơ hội, chống chủ nghĩa cá nhân… Thực tiễn đã cho thấy, trong 80 năm tồn tại và phát triển của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, và cách mạng Việt Nam 80 năm qua luôn “cần có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” để đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công. Trong tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc , Trong tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, Người cho rằng: Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn bộ dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân, nhưng cũng không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác. Người chỉ rõ: công nông là “gốc cách mệnh”; “..học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Như thế là Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh yếu tố giai cấp trong lực lượng, nhưng lại luôn giữ vững tinh thần dân tộc trong đó. Hai yếu tố dân tộc và giai cấp luôn đan xen, gắn bó trong tư duy của Người và thể hiện ra ở hầu hết nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong vấn đề nhà nước dân chủ , một lần nữa Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Trong tư tưởng của mình Người định nghĩa vấn đề dân chủ rất đơn giản dễ hiều. Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở vấn đề dân làm chủ dân là chủ thì chưa thể thể hiện hết tư tưởng của Hồ Chí Minh. Người đã khẳng đinh rằng người dân muốn có được độc lập tự do yên ấm hạnh phúc thực sự thì phải xây dựng đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Trong văn kiện tại Đại hội lần IX của Đảng ta đã nêu rõ: “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chịu dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. III)kết luận: Dân tộc và giai cấp là hai vấn đề luôn tồn tại đan xen xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng của Bác. Khi nói đến vấn đề dân tộc luôn phải lấy cơ sở giai cấp làm điểm tựa để giải thích và phát triển. Còn khi bàn về vấn đề giai cấp thì chắc chắn phải đi liền với việc giải quyết cho tốt vấn đề dân tộc. Điều đó không những là minh chứng đắt giá cho sự trung thành của Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn thể hiện sự tài tình của Người trong việc vận dụng hợp lí, phát triển sáng tạo lí luận ấy trong thực tiễn cách mạng nước nhà. Tư tưỏng ấy như ánh hào quang le lói đến từng ngõ nhỏ của hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, là một trong những mái chèo đắc lực đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thành công rực rỡ. Bởi thế, dù đang sống trong thời bình, mỗi công dân Việt Nam cần có ý thức trau dồi và rèn luyện để thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu rõ và sâu mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những cán bộ, Đảng viên và những nhà lãnh đạo đất nước trong việc dùng đó làm cơ sở để hoạch định chiến lược, chính sách xây dựng và phát triển đất nước, đưa dân tộc vượt qua mọi khó khăn thử thách, vững bước trong tiến trình: xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt là ở thế kỉ XXI này, mở đầu thiên nhiên kỉ thứ ba của một thế giới đấy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỉ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Nhưng dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh trong đó có quan hệ dân tộc – giai cấp vẫn luôn là quốc bảo của đất nước, luôn phù hợp với xu thế thời đại. Từ đó chứng tỏ cho cả dân tộc Việt Nam và bạn bè thế giới rằng: Tư tưởng cao đẹp của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lí sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của dân tộc và cả nhân loại./. ___Hết___

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25410.doc
Tài liệu liên quan