Tiểu luận Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài trong pháp luật hiện hành

Có thể nói, người phụ nữ Việt Nam được xem như một món hàng rất dễ mua, qua các quảng cáo trên báo chí ở HQ. Hiện nay ở HQ, trên bất kỳ nhật báo nào cũng dễ dàng tìm thấy những lời quảng cáo như “Cô dâu Việt Nam sẵn sàng, chỉ cần có ý định (của bạn)”. Không những vậy, việc lấy vợ Việt Nam vô cùng dễ dàng, cho dù đàn ông HQ là người thế nào cũng có thể cưới được vợ Việt Nam “Người già, người muốn tái hôn, người đã có con, người khuyết tật đều có thể lấy trinh nữ Việt Nam xinh đẹp”. Để thêm sức thuyết phục cho việc tiếp thị lấy vợ Việt Nam, những quảng cáo nói trên còn liệt kê chi tiết về những ưu điểm của con gái Việt Nam. Đó không chỉ hấp dẫn về hình thức như “dáng người đẹp nhất trên thế giới” và quyến rũ hơn so với phụ nữ một số nước trong châu lục “khác với phụ nữ Trung Quốc và Philippines, phụ nữ Việt Nam có mùi cơ thể dễ chịu” mà còn có những phẩm hạnh tuyệt vời như “xuất giá tòng phu”, “tôn trọng người già, thờ cúng tổ tiên 4 đời”, “giữ gìn trinh tiết và chung thủy với chồng”.

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 16193 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài trong pháp luật hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ói riêng và áp dụng pháp luật nói chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này nhưng chủ yếu và cốt lõi là xuất phát từ những thay đổi trong tình hình kinh tế và xã hội của đất nước. 2.2.1. Thứ nhất về mặt xã hội Ngày nay khi cuộc sống của người dân có những thay đổi đáng kể trong nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có sự vận động không ngừng của từng cá nhân cụ thể để thích ứng với môi trường thực tế đó. Xu hướng quốc tế hóa được mở rộng, đưa Việt Nam hòa nhập với cộng đồng thế giới, tạo ra sự giao lưu liên kết giữa những cá nhân, công dân trong nước với người nước ngoài. Biểu hiện rõ nét là các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được hình thành và ngày càng trở nên phổ biến tại Việt Nam. Nguyên nhân đầu tiên và dễ dàng nhận thấy đó là: số lượng người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống và làm việc gia tăng đáng kể. Hàng năm Việt Nam thu hút hàng ngàn lượt người đến hoạt động kinh doanh, giao lưu kinh tế văn hóa, du lịch, thăm thân nhân… do chính sách mở cửa của Nhà nước ngày càng cải thiện theo chiều hướng thông thoáng hơn, mở cửa hợp tác với nhiều quốc gia trên thế giới. Trong khi đó một số người có khả năng trong nước lại ra nước ngoài sinh sống, học tập và làm việc dẫn đến tình trạng kết cấu dân số có những biến động rõ rệt. Chính sự ảnh hưởng trực tiếp về tình hình này mà việc kết hôn đã mở rộng đối tượng chủ thể và ngày càng trở nên sôi động để đáp ứng những mục đích nhu cầu của cá nhân tham gia. 2.2.2. Thứ hai, xuất phát từ nhận thức của các chủ thể kết hôn Do nhu cầu của cuộc sống ngày càng cao, trình độ nhận thức tương đối được mở rộng, người dân không chỉ quan tâm đến các vấn đề thiết yếu của cuộc sống mà bên cạnh đó còn là những đòi hỏi về vật chất lẫn tinh thần mang tính hiện đại hơn. Để đáp ứng được điều này, có nhiều cách thức được các chủ thể áp dụng và một trong số đó là hình thành các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó, kết quả này cũng nảy sinh trong một tình trạng ngược lại. Nếu những đối tượng trên chủ yếu là sinh sống tại các đô thị lớn trong cả nước, thì phần đông còn lại là một bộ phận dân cư sống tại vùng nông thôn, miền núi. Những người này có cuộc sống khó khăn và trình độ nhận thức còn hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay đây lại là đối tượng kết hôn với người nước ngoài phổ biến trên thực tế. Cả hai nhóm chủ thể trên tuy ở những hoàn cảnh điều kiện sinh sống khác nhau, nhưng khi kết hôn với người nước ngoài thì phần lớn đều nhằm một mục đích đó là đáp ứng nhu cầu cá nhân. Ví dụ: kết hôn là để được đi ra nước ngoài; kết hôn theo sự áp đặt của cha mẹ, gia đình; kết hôn theo phong trào để tránh bị coi thường bởi những người xung quanh; thậm chí kết hôn chỉ vì muốn một lần được đi máy bay…. Điều này đã dẫn đến thực trạng là hôn nhân hiện nay bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau của cuộc sống và không được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính. 2.2.3. Thứ ba, kết hôn và mục đích kinh tế. Đa số các trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay các bên nam nữ đều nhằm vào lợi ích kinh tế nhất định, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam. Khi đất nước bước sang cơ chế thị trường, xóa bỏ bao cấp, hàng loạt những thay đổi trong chính sách của nhà nước. Trong đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, hợp tác giao lưu với nhiều quốc gia trên thế giới trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa… tuy nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có những ảnh hưởng nhất định đến lối sống của người dân Việt Nam, đua đòi chạy theo những mục tiêu thực dụng, xem thường những giá trị đạo đức truyền thống. Cụ thể các tình trạng này được minh họa rõ nét trong hôn nhân. Hôn nhân ngày nay được thương mại hóa chính các chủ thể trong quan hệ đó. Được hình thành trên cơ sở tình yêu hầu như chiếm một tỷ lệ rất ít, thay vào đó là kết hôn để đạt được lợi ích kinh tế trước mắt. Hạnh phúc gia đình được đem ra mua bán trao đổi bằng những khoản tiền. Phổ biến là người phụ nữ do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, muốn thay đổi cuộc sống bằng việc kết hôn với người nước ngoài, họ sẵn sàng chấp nhận các cuộc hon nhân này dù không có tình yêu hay chênh lệch tuổi tác, người chồng bị dị tật…. 2.2.4. Thứ tư, kết hôn dưới tác động của hoạt động môi giới. Thực trạng đang tồn tại của hoạt động môi giới bất hợp pháp là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng tiêu cực đến đến kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay. Trước hết môi giới xuất hiện do nhu cầu khách quan của chính các chủ thể đăng ký kết hôn. Về bản chất hoạt động này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để các bên nam nữ trong và ngoài nước tìm hiểu tiếp xúc lẫn nhau. Chỉ riêng hoạt động của hình thức này đã làm tăng đáng kể các trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài trên thực tế. Một số cá nhân là tổ chức đã lợi dụng việc môi giới để kiếm lợi nhuận bằng chính thủ đoạn gian dối nhưng về hình thức lại là hợp pháp. Điều này đã đưa đến hậu quả sau hôn nhân đã làm ảnh hưởng đến các bên trong quan hệ đặc biệt là người phụ nữ. Nhìn theo một hướng khác, môi giới có thể dẫn đến hạnh phúc gia đình nếu các bên đến với nhau bằng tình yêu chân chính và vì mục đích tốt đẹp của hôn nhân. Nhưng ngược lại, phần đông các cuộc hôn nhân hiện nay chịu ảnh hưởng từ các yếu tố khách quan, chủ quan từ bên ngoài mà trong đó có việc giới thiệu về lợi ích tốt đẹp khi kết hôn với người nước ngoài của các đối tượng môi giới. Đây cũng là nguyên nhân của tình trạng các cặp vợ chồng chung sống với nhau chỉ trong một thời gian ngắn và sau đó là ly hôn, nền tảng của gia đình không được đảm bảo. 2.2.5. Thứ năm, về mặt pháp lý. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài trên cơ sở những phát sinh thay đổi từ thực tế cuộc sống. Đây không chỉ đơn thuần mang tính chất nội bộ của vùng miền mà có liên quan đến vấn đề quốc gia dân tộc , mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới nhà nước đã xây dựng một hành lang pháp lý cụ thể cũng là nguyên nhân thúc đẩy và làm phát sinh tình trạng kết hôn có tính chất nước ngoài. Bởi pháp luật được đặt ra không chỉ là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội mà còn là một trong những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân tại quốc gia đó. Tại thời điểm này cơ sở pháp lý của hôn nhân có yếu tố nước ngoài được ghi nhận cụ thể trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như tại Nghị định số 68 và 69 của Chính phủ. Về mặt nội dung các văn bản này đã được nhà làm Luật xây dựng trên cơ sở lý luận cũng như thực tiễn. Ghi nhận những thay đổi của tình hình xã hội để điều chỉnh phù hợp đối với quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng pháp luật lại nảy sinh nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân cũng như các chính sách của nhà nước, do tính chất biến đổi không ngừng của các hiện tượng trong xã hội. Một số cá nhân đã không tuân thủ quy định của pháp luật về kết hôn, đi ngược lại với tinh thần chung của pháp luật hôn nhân và gia đình hiện nay. Tóm lại, tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài là một hiện tượng xã hội phát sinh từ nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Chính sự tác động của nguyên nhân này vào quan hệ hôn nhân và gia đình đã làm nảy sinh những hạn chế, phức tạp trong hoạt động kết hôn cần phải được khắc phục và giải quyết kịp thời.  2.3. Thực trạng việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài theo Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/NĐ-CP.  Theo đánh giá của Ông Trần Thất- Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp trong Báo cáo chuyên đề công tác hành chính tư pháp tại Hội nghị giao ban công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2008, 2 Nghị định điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch có yếu tố nước ngoài là Nghi định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2007/NĐ-CP đã đưa công tác hộ tịch có yếu tố nước ngoài nói chung và việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng đi vào quỹ đạo ổn định, cơ bản đáp ứng được yêu cầu quản lý Nhà nước, cũng như giải quyết thấu đáo được các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng không tránh khỏi những tồn tại có nguyên nhân từ vấn đề cơ bản nhất, vấn đề nhân sự. Theo tổng kết của Vụ Hành chính Tư pháp, khi giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài, cán bộ Hộ tịch của các Sở Tư pháp có rất nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc áp dụng các quy định về thủ tục không thống nhất. Cùng một việc, nhưng địa phương này giải quyết dễ dàng, địa phương khác lại gây khó khăn, thậm chí không giải quyết, dẫn đến bức xúc trong dư luận. Chính vì vậy, đã có trường hợp, đương sự phải làm động tác chuyển hộ khẩu từ địa phương này sang địa phương khác mới được công nhận việc kết hôn. Một số cán bộ hộ tịch lại không cập nhật kịp thời những quy định mới, thậm chí không nghiên cứu kỹ những quy định hiện hành nên đã dẫn đến việc gây phiền hà cho các bên kết hôn. Nhiều khi, chính người đi làm thủ tục đăng ký kết hôn lại hiểu luật hơn cán bộ giải quyết việc đăng ký kết hôn. Nhưng vì tâm lý “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, nên họ vẫn phải đáp ứng đủ các giấy tờ mà cán bộ yêu cầu, dù biết rõ mười mươi rằng pháp luật không có quy định nào yêu cầu như vậy. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nước ta mở rộng giao lưu về nhiều mặt với các nước, người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống lâu dài ngày càng nhiều, bà con Việt kiều về nước thăm thân nhân, họ hàng, đầu tư kinh doanh đông hơn, két theo số lượng kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng ngày càng tăng. Trong khi đó, pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài còn nhiều sơ hở. Quy định về công nhận và ghi chú việc kết hôn đã tiến hành ở nước ngoài còn lỏng lẻo, chưa cụ thể, thủ tục ghi chú khá đơn giản. Đương sự chỉ cần xuất trình giấy tờ hộ tịch đã đăng ký hợp lệ tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận và ghi chú vào sổ hộ tịch (tức là công nhận giá trị pháp lý giấy tờ hộ tịch đó tại Việt Nam). Trong khi đó, pháp luật về hôn nhân gia đình của phía Hàn Quốc quy định rất “thoáng”: Khi người đàn ông Hàn Quốc muốn kết hôn với phụ nữ Việt Nam, họ yêu cầu phía nữ gửi giấy xác nhận độc thân, bản sao khai sinh, chứng minh nhân dân để kê khai việc kết hôn và được nhập tên vào sổ hộ khẩu gia đình người chồng tại Hàn Quốc. Sau đó, họ tiếp tục đến lãnh sự quan Hàn Quốc tại TP. Hồ Chí Minh để được cấp giấy chứng nhận không cản trở việc kết hôn theo luật pháp Hàn Quốc và đến Sở Tư pháp làm thủ tục ghi chú. Điều đáng nói là suốt quá trình đó người phụ nữ Việt Nam vẫn chưa từng đến Hàn Quốc, mọi thủ tục tại Hàn Quốc do bên nam thực hiện. Phần lớn các cô gái lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc hiện nay đều xuất thân từ những gia đình nghèo ở vùng sâu, vùng xa, không có việc làm và thu nhập ổn định. Hầu hết có trình độ học vấn thấp, không có điều kiện tiếp cận thông tin, càng không am hiểu pháp luật. Lợi dụng tình hình đó, nhiều tổ chức, cá nhân hoạt động môi giới kết hôn nhằm trục lợi đã ráo riết khai thác, đối tượng chính mà bọn chúng nhằm vào là phụ nữ nghèo ở vùng sâu. Một số trường hợp phụ nữ lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc, đã theo chồng định cư ở nước ngoài và may mắn có được cuộc sống ổn định, có việc làm, sau đó lại đưa người nước ngoài về nước để giới thiệu, mai mối cho chị em, họ hàng và cứ thế ngày càng nhân rộng…Một bộ phận phụ nữ nông thôn ảnh hưởng lối sống thực dụng, đua đòi chạy theo xu hướng lấy chồng nước ngoài với hy vọng “đổi đời” đã dễ dàng chấp nhận sự mai mối để lấy chồng ngoại quốc. Trước thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài diễn biến phức tạp, những năm gần đây Chính phủ đã chỉ đạo chấn chỉnh công tác quản lý và đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Tại Long An, năm 2006 UBND tỉnh ban hành Quyết định số 52 quy định về thủ tục, trình tự và thời hạn giải quyết việc hộ tịch, lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp; chỉ đạo Sở Tư pháp tăng cường thực hiện quy định về phỏng vấn các bên kết hôn trong thủ tục đăng ký kết hôn và thủ tục ghi chú. Trên cơ sở đó, Sở Tư pháp đã thành lập đội ngũ cán bộ phỏng vấn độc lập với Phòng nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, nên đã hạn chế tiêu cực, lạm quyền trong quá trình giải quyết và nâng chất lượng phỏng vấn. Tỉnh cũng chỉ đạo ngành Công an tăng cường thực hiện biện pháp xác minh để làm rõ các trường hợp kết hôn có nghi vấn. Công an xác minh, phỏng vấn đã giúp cho việc giải quyết đúng pháp luật, loại trừ các trường hợp kết hôn giả tạo thông qua môi giới kết hôn bất hợp pháp hoặc kết hôn nhằm mục đích khác. Đầu tháng 12/2007, UBND tỉnh tiếp tục ban hành Chỉ thị về tăng cường quản lý quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó áp dụng nhiều biện pháp như tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho phụ nữ, ngăn chặn, triệt phá các đường dây môi giới kết hôn; Tăng cường công tác phỏng vấn, xác minh, mạnh dạn từ chối giải quyết với những trường hợp kết hôn qua môi giới, kết hôn vội vã hoặc hai bên chưa giao tiếp được với nhau. Tuy nhiên, mọi cố gắng của địa phương cũng chỉ là tạm thời, bởi hiện nay Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP đã bộc lộ nhiều hạn chế, không theo kịp diễn biến thực tế của quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. 2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng điều cấm (Điều 9 và Điều 10) của Luật Hôn nhân và Gia đình trong việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Theo quy đinh của Luật Hôn Nhân Và Gia Đình năm 2000, thì điều kiện kết hôn (Điều 9 và Điều 10) chính là các quy định mang tính pháp lý bắt buộc mà Nhà nước đặt ra cho các bên nam, nữ khi kết hôn phải tuân thủ. Muốn xác lập một hôn nhân hợp pháp thì đòi hỏi phải có sự thừa nhận của Nhà nước tức là phải đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên trên thực tế khi áp dụng điều kiện kết hôn, ta gặp không ít những khó khăn và vướng mắt khi áp dụng chúng.  Thực tế công tác tư pháp ở các Sở Tư Pháp cho thấy khi giải quyết đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thì: nếu trường hợp pháp luật của hai bên kết hôn có sự tương đồng về điều kiện kết hôn thì khi giải quyết cho hai bên đăng ký kết hôn Sở Tư Pháp không gặp bất kỳ sự khó khăn và vướng mắc nào khi giải quyết cho đăng ký kết hôn. Sau khi nhận hồ sơ thì lúc đó Sở Tư Pháp mới xem xét đến phần các bên có điều kiện đăng ký kết hôn hay không. Thông thường khi các bên đến nộp hồ sơ thì họ hầu như đã chuẩn bị đầy đủ và phù hợp với các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều đáng nói ở đây chính là trường hợp khi Sở Tư Pháp nhận hồ sơ của các bên kết hôn mà phát hiện pháp luật hai nước của hai bên kết hôn có sự khác nhau về điều kiện kết hôn, tức là pháp luật hai nước có sự xung đột về điều kiện kết hôn. Đối với trường hợp này Sở Tư Pháp sẽ tiến hành trả hồ sơ đăng ký kết hôn của các bên và không chấp nhận cho đăng ký kết hôn.Vì đối với trường hợp này rõ ràng pháp luật hai nước của hai bên kết hôn có sự khác biệt về điều kiện kết hôn thì làm sao có thể tiến hành cho đăng ký kết hôn được. Điều này được xem là khó khăn và vướng mắc khi áp dụng điều kiện kết hôn khi tiến hành cho hai bên đăng kí kết hôn nên hầu như mọi Sở Tư Pháp đều từ chối cho đăng kí kết hôn. Sau đây sẽ là một vài phân tích để làm rõ những điều đã được nêu ở trên. 2.4.1 Thứ nhất, đối với trường hợp pháp luật hai nước của hai bên đăng ký kết hôn có sự tương đồng về điều kiện kết hôn. Sau khi nhận đầy đủ hồ sơ giấy tờ hợp lệ của các bên kết hôn, Sở Tư Pháp sẽ xem xét và trải qua giai đoạn phỏng vấn nếu thấy hai bên kết hôn không vi phạm điều kiện kết hôn thì Sở Tư Pháp sẽ chấp nhận cho hai bên đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, thực tế của việc kết hôn này dù phù hợp với các điều kiện kết hôn do hai nước đặt ra nhưng không phải trường hợp kết hôn nào cũng dựa trên tình yêu chân chính và với mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc. Những năm gần đây những phương tiện truyền thông đại chúng liên tục phản ánh không ít trường hợp các cô gái Việt Nam lấy chồng ngoại nhưng cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Họ bị đối xử bất công, bị đánh đập, thậm chí có nhiều người đã chết, có thể do tự tử hoặc trước sự đánh đập tàn nhẫn của người chồng. Điển hình gần đây nhất là trường hợp cô dâu Huỳnh Mai đã chết thảm khốc tại đất Hàn trong tầng hầm căn nhà của người chồng sau tám ngày bị giết với 18 chiếc xương sườn bị gãy. Đây là trường hợp điển hình cho thấy việc người vợ quá ít tuổi kết hôn với người chồng quá nhiều tuổi do họ không hiểu nhau cả về ngôn ngữ và lối sống. Đặc biệt là phương diện tình cảm họ không thấu hiểu được tâm lý mong muốn của nhau. Trường hợp trên là một trong vô số trường hợp cho thấy quá trình phỏng vấn theo quy định của pháp luật Việt Nam để biết được yếu tố tự nguyện của các bên, sự thấu hiểu lẫn nhau về lối sống… đang có vấn đề. Mặc dù giai đoạn phỏng vấn là vô cùng quan trọng giúp cơ quan nhà nước kiểm tra được việc kết hôn của hai bên là do tự nguyện hay do ép buộc, lừa dối hay vì mục đích vụ lợi khác; đồng thời phỏng vấn còn giúp kiểm tra được mức độ hiểu biết giữa hai bên, khả năng giao tiếp ngôn ngữ chung ra sao… nhưng vì thực tế Sở Tư Pháp các tỉnh đã làm không tốt giai đoạn này nên đã chấp nhận cho các bên đăng ký kết hôn một cách dễ dàng mặc dù họ thật sự không hiểu ngôn ngữ của nhau; Vì lý do dơn giản hơn nữa là các cô gái Việt Nam lấy chồng chỉ vì mục đích là kiếm được nhiều tiền từ việc kết hôn này.  Trước đây theo quy định của Nghị Định số 68/2002/NĐ-CP thì sau khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký kết hôn của các bên, Sở Tư Pháp sẽ tiến hành thẩm tra xác minh hồ sơ, chỉ những trường hợp nào qua thẩm tra xác minh mà phát hiện thấy có nghi vấn hoặc có khiếu nại tố cáo về việc kết hôn thì mới tiến hành phỏng vấn các bên. Tuy nhiên theo Nghị Định sửa đổi số 69/2006/NĐ-CP thì tất cả các hồ sơ đăng ký kết hôn bắt buộc phải trải qua giai đoạn phỏng vấn. Trong vòng 20 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ, Sở Tư Pháp sẽ tiến hành phỏng vấn hai bên kết hôn nên bắt buộc các bên kết hôn phải có mặt tại Việt Nam để tham gia cuộc phỏng vấn này. Như vậy qua phỏng vấn sẽ giúp tránh được trường hợp đi đến kết hôn chóng vánh của hai bên chỉ qua môi giới, thậm chí hai bên không thể giao tiếp bằng ngôn ngữ chung với nhau, không hiểu biết rõ về hoàn cảnh gia đình của nhau. Qua phỏng vấn cơ quan Tư pháp cũng có thể từ chối cho đăng ký kết hôn nếu phát hiện kết hôn là giả tạo (thường nhằm mục đích xuất cảnh trái phép, không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, bền vững, kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác, kết hôn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam (như sự chênh lệch quá đáng về tuổi tác giữa hai bên: ông già 80 tuổi lấy cô gái 18 tuổi). Như đã nói ở trên pháp luật quy định như vậy, nhưng thực tế không ít các trường hợp kết hôn là giả tạo để xuất cảnh trái phép, hoặc vì lợi ích kinh tế mà kết hôn nhưng cơ quan Tư pháp vẫn giải quyết cho đăng ký kết hôn. Vậy có quy định giai đoạn phỏng vấn cũng chỉ là hình thức. Các bên có giả dối thì cán bộ Tư pháp cũng không biết. Có chăng chỉ biết được họ không thể giao tiếp được bằng ngôn ngữ để có thể hiểu thấu lẫn nhau mà từ chối cho đăng ký kết hôn. Tháng 4 năm 2006, có một bài viết đăng trên báo Chosun (Hàn Quốc) đề cập đến phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc (HQ), bài báo đã tạo nên một làn sóng dư luận phản đối dữ dội không chỉ ở Việt Nam mà cả ở HQ, vì nó không dừng ở lĩnh vực truyền thông đại chúng mà còn tác động đến cả lĩnh vực ngoại giao. Nhưng điều gì tạo nên làn sóng phản đối quyết liệt như vậy? Chúng ta thử xem, qua lăng kính báo chí nước ngoài nhìn nhận vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn có yếu tố nước ngoài như thế nào.  Có thể nói, người phụ nữ Việt Nam được xem như một món hàng rất dễ mua, qua các quảng cáo trên báo chí ở HQ. Hiện nay ở HQ, trên bất kỳ nhật báo nào cũng dễ dàng tìm thấy những lời quảng cáo như “Cô dâu Việt Nam sẵn sàng, chỉ cần có ý định (của bạn)”. Không những vậy, việc lấy vợ Việt Nam vô cùng dễ dàng, cho dù đàn ông HQ là người thế nào cũng có thể cưới được vợ Việt Nam “Người già, người muốn tái hôn, người đã có con, người khuyết tật đều có thể lấy trinh nữ Việt Nam xinh đẹp”. Để thêm sức thuyết phục cho việc tiếp thị lấy vợ Việt Nam, những quảng cáo nói trên còn liệt kê chi tiết về những ưu điểm của con gái Việt Nam. Đó không chỉ hấp dẫn về hình thức như “dáng người đẹp nhất trên thế giới” và quyến rũ hơn so với phụ nữ một số nước trong châu lục “khác với phụ nữ Trung Quốc và Philippines, phụ nữ Việt Nam có mùi cơ thể dễ chịu” mà còn có những phẩm hạnh tuyệt vời như “xuất giá tòng phu”, “tôn trọng người già, thờ cúng tổ tiên 4 đời”, “giữ gìn trinh tiết và chung thủy với chồng”. Trong bối cảnh báo chí nhìn nhận việc kết hôn với phụ nữ Việt Nam như vậy, cũng dễ hiểu vì sao nhật báo Chosun lại có thể “bình thản kể lại một câu chuyện bất thường mà như là bình thường” sau đây: “Trên bàn tiếp khách làm bằng tre, một người đàn ông HQ đang ngồi, 11 phụ nữ đang hồi hộp với ước mơ thoát khỏi cái nghèo. Người đàn ông HQ nhìn lướt qua một lượt khuôn mặt những cô gái đang ngồi xếp chân sang một bên. Sau 20 phút, ông ta quyết định không chọn nữa và nói “Ôi, thật ngại quá, không biết chọn ai bây giờ”. Người đàn ông HQ ngoài 35 tuổi, không nghề nghiệp, có mẹ đang điều hành một quán ăn. Trước khi xem mắt trực tiếp 11 cô gái này, ông ta đã xem qua ảnh của họ “ông chuyển qua phòng bên cạnh, mở đĩa CD có thời gian một tiếng rưỡi, thời gian ghi hình là tháng 4/2006. Trên màn hình lần lượt xuất hiện 150 cô gái có mã số. Ống kính quay từ khuôn mặt rồi đến toàn thân. Chỉ được 20 phút, ông lại bỏ cuộc. Có lẽ ông đã chọn được hai trong số 11 cô gái lúc nãy” Người đàn ông HQ này sang Việt Nam tìm vợ , với mục đích về để giúp bà mẹ của mình, như lời ông ta hỏi với cô gái được chọn “Tôi đang thất nghiệp nhưng sẽ xin việc làm. Mẹ tôi đã có tuổi và đang kinh doanh một cửa hàng thức ăn nhỏ. Có nuôi mẹ tôi được không?. Cũng chính vì mục đích lấy vợ về phục vụ gia đình, nên người đàn ông HQ này sau một lúc chần chừ cũng chọn Sen (cô gái xuất thân từ một vùng quê nghèo khó cách TP.HCM 4 giờ xe chạy) vì “Mẹ tôi dặn đi dặn lại là chọn cô nào có tướng tá to lớn để mai mốt còn phục vụ cơm nước cho bà”. Phải chăng vì lấy vợ Việt Nam dễ, giá thấp lại có chất lượng cao như trên, xu hướng đàn ông HQ lấy vợ Việt Nam ngày càng nhiều ? Theo cục thống kê HQ, chỉ trong vòng năm năm tỉ lệ kết hôn với nước ngoài của HQ tăng lên ba lần, trong đó lấy vợ Viêt Nam tăng 43 lần, năm 2001 là 143 người, đến năm 2005 là 5.822 người. Con số này chiếm 1/5 tổng số người HQ kết hôn với người nước ngoài, đứng thứ hai sau Trung Quốc (18.527 người). Nhưng hầu hết phụ nữ Trung Quốc này có gốc là người Hàn. Như vậy, chiếm số lượng nhiều nhất trong tổng số người nước ngoài mà đàn ông HQ kết hôn là phụ nữ Vệt Nam. Bên cạnh những quảng cáo cho việc lấy vợ Việt Nam như một món hàng dễ mua, cũng có những bài viết cho thấy sự khó khăn trong đời sống gia đình của những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài “phụ nữ Châu á đến Hàn Quốc để kết hôn và có cuộc sống mới đều gặp rất nhiều khó khăn vì sự khác biệt về mặt văn hóa và những định kiến ở Hàn Quốc” (Tuổi trẻ, ngày 5/5/2006). Đồng thời, người HQ cũng băn khoăn khi thấy không ít đàn ông HQ chỉ có thể lấy vợ nước ngoài “thật đáng buồn khi nghĩ đến chuyện thanh niên ở các vùng quê phải ra nước ngoài để kiếm vợ chỉ vì không thể kiếm vợ ở HQ” ( Tuổi trẻ ngày 5/5/2006). Những kiểu quảng cáo xúc phạm nhân phẩm phụ nữ Việt Nam như vậy đã tạo nên làn sóng phản ứng dữ dội ở HQ và đặc biệt ở Việt Nam, bởi vì đó không đơn giản chỉ là “nỗi đau và trách nhiệm, mà đây còn là nỗi nhục hình hình ảnh phụ nữ Việt Nam dưới con mắt người nước ngoài” ( Võ Văn Kiệt). Có thể nói, dư luận HQ dẫu rằng có những phản ánh với nhật báo Chosun về bài viết của phóng viên Chae Sung Woo, nhưng cũng phủ nhận một thực tế những quảng cáo đó đang đáp ứng nhu cầu của một bộ phận nam giới HQ đang gặp khó khăn trong hôn nhân với phụ nữ trong nước và họ đến Việt Nam, một đất nước có thị trường hôn nhân lý tưởng, dễ có cơ hội kết hôn bởi vì có nhiều cô gái- đặc biệt ở các vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long- đang có giấc mơ đổi đời qua việc kết hôn với người nước ngoài. Thêm nữa, Việt Nam và HQ có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, con người nên thế hệ con cái mai sau sẽ không có những khác biệt so với người gốc HQ; như quan niệm của người HQ “vì sự tương đồng về dung mạo nên khi sinh con sẽ không khác gì lắm với người HQ” ( tuổi trẻ 25/4/2006). Ở Việt Nam, từ nhiều năm trước dư luận xã hội vá báo chí cũng đã nhiều lần lên tiếng và cảnh báo trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài ngày càng gia tăng. Từ năm 1995 đến nay, hàng trăm bài báo ở Việt Nam đã điều tra các đường dây tuyển các thôn nữ về thành phố Hồ Chí Minh nuôi nhốt trong những phòng trọ, cho những người đàn ông lớn tuổi, tật nguyền từ Trung Quốc, Đài Loan đến tuyển lựa. Chưa kể hàng trăm bài báo mô tả cảnh cô dâu Việt Nam ở Trung Quốc, Đài Loan bị ngược đãi, làm vợ tập thể trốn về nước ( phụ nữ 28/4/2006). Có thể nói, qua báo chí đã cho thấy một sự biến đổi chuẩn mực xã hội, giá trị xã hội trong quan niệm của các thôn nữ ở khu vực đồng bằng Sông Cửu Long về hôn nhân với người nước ngoài. Có ý kiến nhận xét về đặc điểm hôn nhân với người nước ngoài hiện nay là “Xu hướng lấy chồng HQ tăng lên, trẻ hóa cô dâu. Trước đây lấy chồng thì được tiền, nay các cô dâu thôn nữ bỏ tiền ra cưới chồng ngoại quốc”. báo chí cũng phản ánh một trường hợp cô gái trẻ ở phía bắc “ Cưới chồng” Đài Loan với số tiền quy ra 10 tấn thóc. Bởi lý do kết h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài bài tập học kỳ môn luật hôn nhân và gia đình.doc
Tài liệu liên quan