Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện hình thức công ty cổ phần và xí nghiệp cổ phần trong chủ nghĩa tư bản

 

 

Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở vịêt nam 1

I) Mở đầu 1

II) Những vấn đề lý luận liên quan đến cổ phần hoá 2

1) Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện hình thức công ty cổ phần và xí nghiệp cổ phần trong chủ nghĩa tư bản: 2

2) Lịch sử ra đời của các công ty cổ phần 6

II)Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp ở Việt Nam: 10

1) Mô tả quá trình diễn ra: 10

2) Những khó khăn, vướng mắc trở ngại cần tháo gỡ: 13

III) Những giải pháp đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá 19

1) Mục tiêu cổ phần hoá: 19

2) Kế hoạch cổ phần hoá 22

3) Những giải pháp cụ thể 23

IV) Kết luận 26

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện hình thức công ty cổ phần và xí nghiệp cổ phần trong chủ nghĩa tư bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p phát triển nhất thế giới do vậy đây cũng được coi là một trong những nước đi đầu trong việc hình thành các công ty cổ phần đặc biệt trong lĩnh vực thương nghiệp. Do vậy nước Anh là nước có nhiều công ty cổ phần nhất trong giai đoạn này. Tuy nhiên, trước những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần còn ít, hình thức chưa đa dạng, quy mô nhỏ. Giai đoạn III: Giai đoạn phát triển Sau những năm 70 của thế kỷ XIX, công ty cổ phần phát triển rất nhanh ở tất cả các ngành, các nước mở rộng quy mô. Các tổ chức độc quyền ra đời như xanhdican, tơrơt, các ten . Đồng thời với đó là sự hình thành các trung tâm tài chính quốc tế, giao dịch chứng khoán. ở nước Anh vào năm 1910 có 20 sở giao dịch chứng khoán, năm 1930 có 86000 công ty cổ phần. ở Mĩ năm 1909 có 22000 công ty cổ phàn, năm 1939 số công ty cổ phần chiếm 51% trong tổng số các xí nghiệp. Giai đoạn IV: Giai đoạn trưởng thành Các công ty cổ phần không chỉ ở trong 1 lãnh thổ quốc gia nhất định mà nó được đặt ở nhiều nơi trên thế giới hay còn gọi là các công ty đa quốc gia hay xuyên quốc gia. Bên cạnh đó các công ty cổ phần không chỉ thu hút những thương nhân giàu có mua cổ phần mà nó còn thu hút người công nhân mua cổ phần. Ngoài việc quy mô được mở rộng ngày càng lớn thì cơ cấu tổ chức của các công ty cổ phần ngày càng hoàn thiện, pháp luật ngày càng kiện toàn. 3) Sự cần thiết của việc hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam Cổ phần hoá là chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước từ một chủ sở hữu duy nhất(toàn dân) thành doanh nghiệp đa sở hữu theo đó tuỳ vị trí và tính chất cụ thể của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà nhà nước gĩư vai trò chi phối hoặc không cần giữ vai trò chi phối nữa. Kinh tế thị trường và sự hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam Trong nền kinh tế thị trường thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt , muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi cần có số vốn lớn cho sản xuất thì mới có khả năng tồn tại, phát triển trên thị trường. Các doanh nghiệp Nhà nước cũng không thể tránh khỏi tình trạng này. Như chúng ta đã thấy các doanh nghiệp nhà nước do trước đây tất cả đều do Nhà nước bao cấp nên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thường làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả nên nhà nước lại phải tiếp tục bỏ vốn vào để tránh khỏi tình trạng các doanh nghiệp đó bị phá sản. Như vậy khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ giúp cho nguồn vốn tăng lên. Bởi vì dù bán một phần tài sản doanh nghiệp bằng hình thức bán cổ phần, hoặc gọi thêm vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu , thì vốn doanh nghiệp tăng lên trong khi vốn hữu hình của doanh nghiệp vẫn còn nguyên đấy. Vốn tăng lên sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển tài sản cố định và giúp cho phát triển cả vốn lưu động, càng cần thiết đối với doanh nghiệp đang làm ăn có hiệu quả. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường vốn đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất của doanh nghiệp. Trong thực tiễn cổ phần hoá , vốn nhà nước vẫn có thể tăng lên do định giá lại tài sản doanh nghiệp theo giá thị trường và giá cả của những thương hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn trong 12 đơn vị của tổng công ty thủy tinh và gốm xây dựng thì giá trị tài sản được đánh giá lại tăng thêm 22 tỷ đồng, giá trị của thương hiệu là 37 tỷ đồng, làm cho tổng vốn của nhà nước tăng thêm 59 tỷ đồng. Đó là chưa kể, nay tính đúng giá cả quyền sở dụng đất thì vốn của nhà nước còn tăng lên nhiều nữa. Như vậy để có thể huy động được nguồn vốn lớn mà không cần đến nguồn vốn trợ cấp của nhà nước thì cần phải cổ phần hoá, nhất là trong giai đoạn hịên nay nước ta đang bước vào thời kỳ kinh tế thị trường, nhu cầu vốn rất bức xúc. Xuất phát từ yêu cầu cũng cố và nâng cao vai trò kinh tế của nhà nước Củng cố vai trò của doanh nghiệp nhà nước- bộ phận rường cột, năng động của kinh tế nhà nước, nhờ hiệu quả ngày càng cao của nó và lực lượng vật chất, tài chính to lớn do nhà nước chi phối được. Đây là mục đích bao trùm và cũng là hệ quả tất yếu của các mục đích trên. Nếu bán, khoán, cho thuê, giải thể hoặc chuyển đổi thành doanh nghiệp tư nhân tư bản chủ nghĩa thì không thuộc phạm trù "cổ phần hoá" doanh nghiệp nhà nước của ta. Trong trường hợp cụ thể nhất định mà chuyển đổi thành hợp tác, thì vẫn thuộc phạm trù "cổ phần hoá " doanh nghiệp nhà nước của ta. Trong trường hợp cụ thể nhất định mà chuyển đổi thành doanh nghiệp hợp tác, thì vẫn còn thuộc phạm trù "cổ phần hoá" và vẫn có thể chấp nhận được. Để chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả tốt nhất thì vấn đề tối ưu nhất là cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, vì khi doanh nghiệp cổ phần hoá vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhà nước, vẫn bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, chúng ta có bài học kinh nghiệm sâu sắc không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội với tốc độ quá nhanh, vượt quá khả năng hiện tại của nền kinh tế, mà phải có bước đi vững chắc. Cho nên phương án tốt nhất của chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là Nhà nước nên giữ cổ phần chi phối trong các lĩnh vực, những ngành, những khâu then chốt của nền kinh tế quốc dân để giữ quyền điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng cần tránh tình trạng ở những nơi vốn kinh doanh có hiệu quả, lúc đầu nhà nước có tỷ lệ cổ phần chi phối, nhưng về sau cứ giảm dần, đến mức không chi phối nữa. Như vậy đây chính là phương án tốt giúp cho nhà nước có thể chi phối được trong rất nhiều ngành then chốt quan trọng của đất nước nhằm phát triển nước ta đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Chính điều này giúp cho nhà nước vừa quản lý được nền kinh tế một cách có hiệu quả lại vừa có thể huy động được nguồn vốn lớn trong kinh doanh và kinh nghiệm quản lý của những nhà kinh doanh giỏi, nhà kinh doanh doanh nước ngoài đồng thời lại khuyến khích được người lao động sản xuất. Bên cạnh đó việc cổ phần hoá còn tạo nên động lực trực tiếp cho các nhà đầu tư, những người bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh. ở đây chủ sở hữu rất cụ thể, đó là các cổ đông, lợi ích rất cụ thể đó là lợi tức của các cổ phần. Lợi tức cổ phần là động cơ trực tiếp thôi thúc các cổ đông mà đại diện là hội đồng quản trị quan tâm quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao. Lợi tức cổ phần hiện nay thường đạt 12%-15%, nghĩa là cao hơn mức lãi suất ngân hàng. Chính điều này đã giúp cho người kinh doanh tích cực lao động. Chính những điều trên đã dẫn tới 1 điều tất yếu là đảm bảo và mở rộng việc làm, tăng thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp, đảm bảo mục tiêu của đất nước là làm cho "dân giàu, nước mạnh". Nền kinh tế nước ta đang trên con đường đổi mới theo hướng kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô cuả nhà nước, nên đòi hỏi cần rất nhiều nguồn lực tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển. Do đó việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước một mặt giúp cho việc huy động tối đa nguồn lực vốn và nguồn lực con người, nhưng vẫn không làm mất đi vai trò của nhà nước. Trong nền kinh tế này nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo. Như vậy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước là một việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay. II)Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp ở Việt Nam: 1) Mô tả quá trình diễn ra: Từ đầu thập niên 90, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Song cho đến nay, tiến trình cổ phần hoá diễn ra rất chậm. Trong suốt 6 năm (1992-1998) chỉ có 120 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Phải đến hội nghị lần thứ chín của Ban chấp hành Trung ương khoá IX thì chủ trương xúc tiến nhanh tiến độ và đẩy mạnh hơn công việc đó. Thực tiễn cổ phần hoá đang bắt đầu sôi động, và diễn ra khá nhanh . Trong những năm đầu của thực hiện đổi mới thì cổ phần hoá đã đạt được một số các thành tựu hết sức quan trọng. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước, xét tổng thể trên tất cả các mặt như: doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn. Qua báo cáo hoạt động của các doanh nghiệp , kể cả những doanh nghiệp trước đây bị thua lỗ thì doanh thu bình quân tăng gần gấp 2 lần so vơí trước khi thực hiện cổ phần hoá. Điển hình là công ty cổ phần cơ điện lạnh. Năm 1999 công ty này đạt 178 tỷ đồng, tăng gần gấp 4 lần so với doanh thu trước khi cổ phần hoá là 46 tỷ đồng. Lợi nhuận các doanh nghiệp tăng bình quân 2 lần, cổ tức bình quân đạt từ 1-2%/ tháng. Vốn của doanh ngiệp tăng gần 2,5 lần so với trước khi cổ phần hoá ( bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận, thu hút thêm vốn đầu tư từ bên ngoài). Nổi bật nhất là công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An có số vốn tăng 2,4 lần. Các doanh nghiệp nộp ngân sách bình quân tăng 2 lần so với trước khi cổ phần hoá, điển hình là công ty cổ phần bông Bạch tuyết thành phố Hồ Chí Minh tăng 2,7 lần. Về việc làm và thu nhập cho người lao động Hầu hết trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, việc làm và thu nhập của người lao động có xu hướng tăng lên. Số lao động của doanh nghiệp trở thành cổ đông khá đông. Trong số doanh nghiệp cổ phần hoá trong năm 2003, 58% cổ phần do những người lao động trong doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần nắm giữ. Chế độ người lao động được quan tâm thoả đáng. Do mở rộng sản xuất, số lao động ở doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hoá tăng 12%. Riêng công ty cổ phần cơ điện lạnh thành phố Hố Chí Minh tăng từ 334 lên 731người. Thu nhập bình quân của người lao động làm việc trong các công ty cổ phần tăng bình quân hàng năm gần 20% (chưa kể thu nhập có được từ cổ tức). Với cơ chế quản lý mới, người lao động được coi là chủ nhân thực sự trong công ty cổ phần. Nhờ đó, họ đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho công ty, cho Nhà nước và xã hội. Về huy động vốn Việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thu hút một lượng lớn nguồn vốn trong xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất. Chỉ tính riêng 370 doanh nghiệp doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, giá trị phần vốn Nhà nước của các doanh nghiệp này là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện cổ phần hoá đã thu hút thêm 1432 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác đầu tư vào các công ty cổ phần. Đồng thời, Nhà nước cũng thu lại được 714 tỷ đồng để đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Phần vốn của nhà nước nhìn chung đều tăng 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Bên cạnh đó nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước cũng được xử lý một phần. Theo báo cáo của 35 tỉnh, thành phố và 18 tổng công ty và một số bộ thì đến hết quý I năm 2003 trong số 3645 tỷ đồng nợ đọng tồn đã xử lý được 2728 tỷ. Tổng nợ của doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại đã xử lý được 10512 tỷ đồng bằng 49,8%. Tổng số nợ của doanh nghiệp nhà nước, các ngân hàng còn 13435 tỷ, bằng 60% mức ở thời điểm tháng 8-2001. Trong số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá trong giai đoạn này thì bình quân nhà nước sở hữu 38% vốn điều lệ, cán bộ công nhân viên chức của các doanh nghiệp này mua 54%, còn 8% là cổ đông bên ngoài. Số doanh nghiệp nhà nước có cổ phần chi phối của Nhà nước chiếm 26% tổng số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá. Nhiều doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đã đổi mới được công nghệ, nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tính cạnh tranh. Sau gần 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hóa thì các doanh nghiệp nhà nước đã thu những thành tưụ rất đáng kể đó là vốn điều lệ tăng, doanh thu tăng, nợ ngân hàng giảm, lợi nhuận trước thuế tăng, nộp ngân sách tăng, thu nhập của người lao động tăng. Chính những thành tựu trên là nền tảng vững chắc cho việc phát triển đất nước sau này. 2) Những khó khăn, vướng mắc trở ngại cần tháo gỡ: Mặc dù trong những năm gần đây cổ phần hoá các doanh nghiệp có diễn ra với tốc độ khá nhanh chónh, thành tựu đạt được so với thời kỳ trước cũng có rất đáng kể, tuy nhiên ta cũng cần phải nhìn vào thực trạng hiện nay . Tình trạng chung của quá trình cổ phần hoá là diễn ra chậm, dường như chỉ mới bắt đầu, chặng đường dài của nó ở phía trước. Các doanh nghiệp được cổ phần hoá phần lớn có quy mô nhỏ, lượng vốn cổ phần hoá ít, cổ phần hoá ở mức độ không cao, mang nặng tính nội bộ, hạn chế các nhà đầu tư lớn, nên mục tiêu huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh còn hạn chế, chưa thu hút được các nhà đầu tư có tiềm năng, công nghệ kinh nghiệm quản lý.. Sau đây tôi xin được nêu ra một vài vướng mắc còn tồn tại trong quá trình cổ phần hoá ở nước ta. Về mặt tư tưởng: Một bộ phận không nhỏ trong các cán bộ, công chức , người lao động trong doanh nghiệp và nhân dân chưa hiểu thấu đáo thực chất và lợi ích của quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Chưa phân biệt rõ sự khác biệt giữa cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với quá trình tư nhân hoá(chuyển từ sở hữu nhà nước thành sở hữu tư nhân). Do sợ "chệnh hướng" nên không ít cán bộ, kể cả một số cán bộ lãnh đạo còn có tư tưởng chần chừ, do dự khi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tiến hành cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, tất yếu phải thay đổi nhiệm vụ và theo đó là quyền lợi của một số người đang trực tiếp hay gián tiếp quản lý, điều hành doanh nghiệp. Do vậy, đã và sẽ có một số cán bộ quản lý Nhà nước, cán bộ lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp chưa hoàn toàn đồng tình, thậm chí còn có hành vi, việc làm gây khó khăn, cản trở quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó việc tuyên truyền, giáo dục và đấu tranh với tư tưởng này chưa được đặt ra một cách nghiêm khắc và chưa có biện pháp hữu hiệu, đủ mạnh để khắc phục. Đối với người lao động trong doanh nghiệp, lợi ích cao nhất của họ là việc làm và thu nhập. Hiệu quả lao động của công ty cổ phần chắc chắn sẽ cao hơn khi còn là doanh nghiệp nhà nước, và vì vậy, việc làm và thu nhập của người lao động sẽ được đảm bảo hơn. Nhưng ở nhiều nơi công tác tuyên truyền, vận động còn yếu, chưa giúp người lao động nhận thức đúng và hiểu rõ được lợi ích của cổ phần hoá để từ đó ủng hộ và tíh cực tham gia cổ phần hoá doanh nghiệp. Về khuôn khổ pháp lý Từ năm 1992 đến 5/1996 hình thức văn bản cao nhất mới là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Mãi đến 7/5/1996, Chính phủ mới ban hành nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Một số định hướng, chính sách chưa được thể chế hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tất yếu sẽ có một bộ phận tài sản Nhà nước chuyển hoá thành sở hữu của các thành phần kinh tế khác. Do vậy, cần thiết phải có một đạo luật của Quốc hội, hoặc ít ra là một pháp lệnh do uỷ ban thường vụ quốc hội quy định. Về tổ chức cổ phần hoá các cấp chính quyền có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn, tổ chức triển khai và quyết định doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Từ khi có chủ trương cổ phần hoá đến nay, nhà nước chủ yếu dựa vào sự tự nguyện của doanh nghiệp, các ngành, các cấp,...Là một công việc mới nên việc tự nguyện đăng ký là cần thiết trong 1-2 năm đầu để người lao động và các nhà đầu tư, các nhà quản lý có điều kiện tìm hiểu và làm quen với mô hình quản lý mới. Nhưng chỉ dựa vào sự tự nguyện thì không thể thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá . Nhà nước là chủ sở hữu doanh nghiệp. Nhà nước là người chủ động quyết định chỉ tiêu doanh nghiệp nhà nước triển khai cổ phần hoá. Bộ trưởng các bộ, Chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố là người được chính phủ phân công, phân cấp phải lựa chọn và tổ chức thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp trong phạm vi quản lý và phạm vi trách nhiệm của mình. Những năm qua, các cấp chính quyền chưa sử dụng đúng thẩm quyền đại diện chủ sở hữu của mình, chưa tích cực chủ động lựa chọn và chưa giao nhiệm vụ cổ phần hoá cho các doanh nghiệp nhà nước như một chỉ tiêu pháp lệnh. Một số nơi, chính quyền chưa thực sự quan tâm đến công tác cổ phần hoá, còn khoán trắng cho Ban chỉ đạo, thậm chí nhiều nơi còn chậm thành lập ban chỉ đạo . Ban chỉ đạo thực chất chỉ là cơ quan tư vấn cho chính quyền trong việc lập chương trình, lựa chọn, đôn đốc, kiểm tra quá trình cổ phần hoá, không có thẩm quyền quyết định các vấn đề cụ thể. Thành phần của Ban chủ yếu là kiêm nhiệm. Nhiêm vụ, chức năng, mối quan hệ giữa các ban ngành, các cấp chưa được xác định cụ thể.Tóm lại, hiệu lực của Ban này đối với tiến trình cổ phần hoá còn rất hạn chế. Thực tế chứng minh rằng, nơi nào có cấp uỷ, thủ trưởng đơn vị thực sự quan tâm, đề cao trách nhiệm thì nơi đó triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tương đối tốt. Ngược lại nếu cấp uỷ, thủ trưởng đơn vị ít quan tâm, không kiên quyết thì đơn vị đó triển khai chậm trễ, thậm chí không tiến triển được. Về cơ chế, chính sách Xét trên toàn bộ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua, cơ chế chính sách của nhà nước chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu phong phú và đa dạng của quá trình cố phần hoá. Những khó khăn, chậm được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, nổi bật là các vấn đề sau đây. Về đối tượng bán cổ phần và quyền hạn chế mua cổ phần Nước ta đã có hàng ngàn dự án đầu tư nước ngoài vào Vệt Nam dưới hình thức trực tiếp đã có rất nhiều dự án 100% hoặc đại bộ phận vốn nước ngoài. Nhưng trong nhiều năm, chúng ta chưa có quy chế bán cổ phần cho người nước ngoài để tạo khuôn khổ pháp lý cho họ được trực tiếp đầu tư vào công ty cổ phần. Điều này đã hạn chế đến huy động vốn công nghệ và năng lực quản lý của họ, nhất là những nhà đầu tư chiến lược. Về quyền mua cổ phần giai doạn trước năm 2002, Nhà nước khống chế quyền mua của mỗi cá nhân không quá 5% , mỗi pháp nhân không quá 10% tổng số cổ phần phát hành. Điều này là phù hợp với lĩnh vực nhà nước cần nắm cổ phần chi phối và những nớí người mua cổ phần nhiều. Nhưng đối với lĩnh vực nhà nước không giữ cổ phần chi phối, thậm chí có lĩnh vực nhà nước không cần tham gia cổ phần, hoặc tại các doanh nghiệp kém lợi thế, người mua không nhiều mà khống chế cổ phần như trên thì không thúc đẩy cổ phần hoá, hạn chế huy động vốn. Người mua cổ phần ngoài doanh nghiệp còn thấp,do đó chưa huy động vốn nhàn rỗi của xã hội. Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã mở rộng đối tương và bỏ quy định về giới hạn khi mua cổ phần lần đầu ; các chủ nợ của doanh nghiệp có thể chuyển nợ thành vốn góp cổ phần; quy định người lao động giữ cổ phần được mua theo giá ưu đãi trong một thời gian nhất định; dành tối thiểu 30% số cổ phần còn lại(sau khi trừ số cổ phần Nhà nước cần nắm giữ và số bán theo gía ưu đãi) để bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp, trong đó ưu tiên cho nhà đầu tư có tiềm năng và công nghệ, thị trường, vốn và kinh nghiệm quản lý theo phương thức đấu thầu thông qua tổ chức tài chính trung gian hoặc doanh nghiệp tự tổ chức đấu thầ`u; không khống chế tỷ lệ giá trị ưu đãi bán cổ phần cho người lao động mà chỉ giới hạn số cổ phần cho 1 năm công tác và tổng giá trị ưu đãi không vượt quá giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau khi trừ giá trị cổ phần nhà nước nắm giữ. Về xác định giá trị doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá: Trước hết là quy trình xác định giá trị doanh nghiệp còn phiền hà, phân qua 3 giai doạn: Hội đồng thẩm định của doanh nghiẹp- Kiểm toán- Hội đồng thẩm định của nhà nước, sau đó cơ quan thẩm quyền mới công bố giá trị. Giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá phải là giá trị thực tế mà người mua người bán đều chấp nhận được, nhưng tổ chức kiểm toán chủ yếu chỉ dựa vào chứng từ, sổ sách kế toán để xác định. Do đó hầu như các kết quả kiểm toán không sử dụng được vào việc công bố giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá. Điều này một mặt làm chậm quá trình cổ phần hoá, mặt khác làm tăng chi phí của doanh nghiẹp. Theo cơ chế thị trường, việc định giá thực chất là quá trình cùng trao đổi, thoả thuận giữa người mua, người bán, chứ không thể người mua (doanh nghiệp ) quy định trước, mà người bán (Nhà nước) định sau như đã thực hiện trong các năm qua. Người bán thì muốn bán toàn bộ tài sản hiện có, người mua chủ yếu tính đến nhu cầu sử dụng tài sản trong tương lai. Vì vậy, tất yếu có mâu thuẫn giữa người mua và người bán. Sẽ có một bộ phận giá trị (xét theo nhu cầu sử dụng), người mua không chấp nhận (tài sản không cần dùng, kém phẩm chất) cần phải loại trừ ra khỏi doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Lẽ ra phải có quy chế để bên mua (doanh nghiệp), bên bán(đại diện cho nhà nước) đàm phán về giá trị cho tới khi hai bên có thể thoả thuận được. Do chưa chú ý đúng mức đến quyền lợi của người mua nên có những trường hợp nhà nước công bố nhưng không bán bán cổ phần được, quá trình cổ phần hoá bị bế tắc, hoặc quá trình định giá phải kéo dài. Về việc xác định giá trị lợi thế của doanh nghiệp là cần thiết để đảm bảo công bằng về giá nhưng về phương pháp tính còn hạn chế là: Khi xác định tỷ suất lợi nhuận của 3 năm liền kề với thời điểm cổ phần hoá dựa trên vốn nhà nước hiện hành. Nhưng khi xác định lợi thế lại dựa trên số vốn Nhà nước đã được đánh giá lại. Sự không đồng nhất này làm thiệt hại cho người người mua cổ phần nếu như vốn Nhà nước theo giá đánh lại tăng lên; làm thiệt hại cho nhà nước nếu vốn nhà nước theo giá đánh lại giảm đi. Lợi thế căn cứ vào kết quả kinh doanh thực tế của doanh nghiệp, nhưng tương lai của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của nhiều sự biến động khác, đặc biệt là càng cạnh tranh cao thì giá trị siêu ngạch do lợi thế đem lại cũng giảm đi. Do đó tính 100% lợi thế vào giá trị doanh nghiệp để bán thì người mua cổ phần bị thiệt thòi. Chế độ ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá : Nhìn chung, người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước còn nghèo. Vì vậy, để họ được sở hữu một số cổ phần, tạo quyền làm chủ thực sự cho người lao động là cần thiết. Tuy nhiên vấn đề này còn một số tồn tại. Nhà nước duy trì hai hình thức : cấp quyền sử dụng cổ phần (quyền sở hữu vẫn là của nhà nước) và mua chịu cổ phiếu trong 5 năm với lãi suất 5% / năm. Việc quản lý, thu hồi các cổ phiếu rất khó khăn. Hơn nữa cổ phiếu không được tự do chuyển nhựơng nên không thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, không thật hấp dẫn đối với người sở hữu cổ phần này; Số cổ phần cấp cho người lao động hưởng cổ tức khống chế 6 tháng lương cấp bậc và chức vụ là quá thấp so với mức khống chế tối đa 10% giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (6 tháng lương cấp bậc, chức vụ chỉ chiếm khỏang 2,7% vốn nhà nước tại doanh nghiệp). Do đó rất ít trường hợp doanh nghiệp được hưởng ưu đãi tới 10% như Nhà nước đã quy định. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này đem lại việc làm và thu nhập cho người lao động nhiều hơn khi chưa cổ phần hoá. Lợi ích đó mới cơ bản, lâu dài chứ không phải ở chỗ người lao động được hưởng ưu đãi nhiều hay ít. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm huy động vốn đầu tư và phát triển, nên nếu ưu đãi quá nhiều sẽ mâu thuẫn với mục tiêu này. Quy trình tổ chức triển khai cổ phần hoá chưa hợp lý Quy trình cổ phần hoá còn rườm rà, phức tạp. Sự phân công, phân cấp giữa các ngành, địa phương và doanh nghiệp còn chưa rõ ràng, còn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, có những công việc không cần thiết phải phân chia thành nhiều công đoạn, nhiều tổ chức tham gia. Mỗi việc hay công đoạn do một tổ chức đảm nhiệm, nhưng không xác định thời gian tối đa phải hoàn thành. Do vậy, hầu như mọi công việc đều kéo dài quá mức cần thiết. Việc hướng dẫn nghiệp vụ cho triển khai cổ phần hoá chưa được kịp thời và chu đáo. Hầu như các Bộ, các cấp khi triển khai công việc đều lúng túng nhất là trong việc xây dựng đề án cổ phần hoá, điều lệ thành lập công ty, cách thức thẩm định giá trị doanh nghiệp, vấn đề xử lý lao động, xử lý tài sản, công nợ của doanh nghiệp. Chậm tổng kết công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hoá là một bộ phận cải cách doanh nghiệp nhà nước là một lĩnh vực công tác rất mới mẻ đối với nước ta. Quá trình triển khai cổ phần hoá phải xử lý nhiều vấn đề kinh tế, xã hội và nghiệp vụ cụ thể. Phải vừa học, vừa làm, vừa từng bước bổ sung để hoàn chỉnh dần. Cần thường xuyên tổ chức sơ kết tổng kết ở mỗi ngành, mỗi địa phương để đánh giá mặt mạnh, nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục trong cả nước. Thông qua sơ kết, tổng kết còn giúp cho các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp học tập lẫn nhau. Vấn đề này làm chưa tốt. Chưa tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp. Thực tế, trong thời gian qua còn có sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại hình doanh nghiệp khác, trong đó có công ty cổ phần. Doanh nghiệp nhà nước thường được ưu đãi hơn về quyền sử dụng đất, được vay vốn các ngân hàng thương mại quốc doanh không phải thế chấp, với lãi suất ưu đãi, được khoanh nợ, xoá nợ khi gặp rủi ro, được xét giảm, miễn thuế dễ dàng... Khi chuyển sang hoạt động theo Luật công ty, thì công ty cổ phần không được hưởng "ân huệ" trên, đó là sự "thiệt thòi" và làm giảm khả năng cạnh tranh của các công ty này. Vấn đề thị trường chứng khoán Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước và thị trường chứng khoán có mối liên hệ gắn bó với nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển.Trong những năm qua, cổ phần hoá chưa làm tốt nên cũng chưa có tiền đề hình thành và phát triển nhanh thị tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0578.doc
Tài liệu liên quan