Tóm tắt Luận án Đóng góp của văn xuôi tự sự lưu trọng lư giai đoạn trước 1945 - Hồ Thị Thanh Thủy

Đời sống sinh hoạt chốn thị thành

Từ khi thực dân Pháp đặt ách cai trị trên đất nước ta và đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc

địa, bộ mặt thị thành đã có nhiều đổi khác, mang tính chất tư sản hóa. Dân số thị thành tăng lên với rất

nhiều thành phần, giai cấp khác nhau, với những quan niệm sống, phong cách sống và thị hiếu nghệ13

thuật khác nhau. Có thể nói độc giả thị thành là thành phần chủ yếu của độc giả văn học thời kỳ đó.

Do vậy, không có lý gì sinh hoạt chốn thị thành lại không trở thành một đề tài hấp dẫn của sáng tác

văn chương. Hơn nữa, với nó, những tư tưởng mới mẻ có được điều kiện bộc lộ mạnh mẽ và những

thử nghiệm nghệ thuật cũng có được mảnh đất thi thố. Nếu cuộc sống ở nông thôn thường được tái

hiện với vẻ bình lặng, tàn tạ thì cuộc sống nơi thị thành thường được thể hiện với bầu không khí xô

bồ, náo nhiệt, nhố nhăng, nơi sự tha hóa diễn ra như một quy luật có tính phổ biến.

Viết về thành thị trước hết phải kể đến những cây bút hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Vũ

Trọng Phụng, Tam Lang. Thế giới thị thành trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là thế giới của

những kẻ dưới đáy: phu xe, kép hát, con sen, thằng quýt. Bên cạnh thế giới của bọn tư sản hãnh

tiến mới phất lên với đủ tình huống nhố nhăng, bịp bợm trong Số đỏ, Vũ Trọng Phụng thể hiện sinh

động của sống của nhiều kiếp người sống chui rúc vào khắp các xó xỉnh tối tăm của chốn được gọi

là phồn hoa. Thành thị trong các tác phẩm Nam Cao gắn với cảnh ngộ của người trí thức nghèo. Họ

là những người có ước mơ hoài bão, nhưng cuộc sống cơm áo không cho họ ngẩng đầu lên. Mọi

ước mơ đều thui chột, họ sống trong bi kịch “đời thừa”, “chết mòn”.

Chốn phồn hoa, đô hội cũng là nơi những tệ nạn nhức nhối như mại dâm, cờ bạc, hút xách

tha hồ phát triển. Những cô gái điếm vật vờ sống chui rúc khắp mọi ngõ ngách, xó xỉnh để kiếm

sống qua ngày, những gia đình tan nát vì cờ bạc, những số phận bị đẩy đến đường cùng. - đó là

những chất liệu làm nên các trang văn bi đát, chua cay của Trọng Lang (với Hà Nội lầm than), của

Tam Lang (với Đêm sông Hương), của Vũ Trọng Phụng (với Lục xì, Cạm bẫy người), của Nguyễn

Đình Lạp (với Ngoại ô, Ngõ hẻm)

Lưu Trọng Lư cũng viết về những con người trong môi trường đô thị. Trong khi tái hiện khá

sống động đời sống của giới trí thức, những nam thanh nữ tú kiểu mới thời bấy giờ, ông không quên

phê phán lối sống hưởng lạc và chỉ ra sự hèn yếu của nhân vật. Không xoáy sâu vào những kiếp

sống đói nghèo, lay lắt như nhân vật của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Đình Lạp, nhân vật

chủ yếu của Lưu Trọng Lư là những nam thanh nữ tú kiểu mới, sống theo lối Âu hóa nhưng hèn

yếu, ưa lối sống vật chất hưởng lạc. Và nhiều bi kịch đã đến với họ. Về phương diện này, ngòi bút

Lưu Trọng Lư có màu sắc hiện thực theo cách riêng của ông.

pdf27 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Đóng góp của văn xuôi tự sự lưu trọng lư giai đoạn trước 1945 - Hồ Thị Thanh Thủy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hụ trong tình yêu. Khuynh hướng thẩm mỹ thị dân thường đánh vào cái tò mò, éo le, vắt ra nước mắt, nên nội dung phải có phần ly kì, phương xa, lắt léo, lạ lẫm. Như vậy, những khuynh hướng thẩm mỹ chính của thời đại đã được Lưu Trọng Lư chọn lọc, tiếp thu và thể hiện trong sáng tác. Nhà văn vẫn bộc lộ nỗi lòng luyến tiếc những ký ức đẹp, những giá trị vàng son một thời. Nhưng mặt khác, nhà văn thấy sự thắng thế tất yếu của tư tưởng Âu hóa, của những giá trị mới nảy sinh do tiếp thu lối sống, sinh hoạt phương Tây. Tất cả những điều ấy thể hiện qua tâm trạng, cảm xúc đầy phức tạp của nhân vật, nhất là nhân vật thị dân trong tác phẩm của ông. 2.3. Nguyên tắc phản ánh - biểu hiện trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945 2.3.1. Chú ý đến những uẩn khúc trong tình cảm của nhân vật Với Lưu Trọng Lư, những bí ẩn trong tình cảm của các nhân vật như một mạch ngầm lan tỏa trong suốt tác phẩm. Những đau đớn, hờn tủi, cảm giác về cản trở, xa cách trong tâm hồn của các chàng trai - cô gái trẻ trong độ hẹn hò được nhà văn quan tâm lột tả. Viết về tình yêu của đôi trai gái nơi thôn dã, Khói lam chiều là câu chuyện tình ngây thơ từ thuở chăn trâu cắt cỏ của Vịnh và Đối. Cũng viết về những trắc ẩn trong tâm hồn con người, nhưng ở tiểu thuyết Em là gái bên song cửa và Cô bé hái dâu, Lưu Trọng Lư lại đưa người đọc đến với một chuyện tình qua khung cửa sổ được gắn kết bởi một sợi dây, hoặc đưa thư tín vào truyện ngắn để thể hiện thế giới tâm lý, tư tưởng của nhân vật. Bên cạnh những đau đớn trong tình yêu của các chàng trai - cô gái trẻ đang độ hẹn hò, Lưu Trọng Lư còn viết về những uẩn khúc trong tâm hồn của những nhân vật đã thành chồng, thành vợ. Có khi sự éo le trong số phận của các nhân vật lại được nhà văn lồng ghép vào những câu chuyện ly kỳ. Nhìn tổng thể, có thể nói văn học công khai trên văn đàn Việt Nam 1930 - 1945 là bộ phận văn học của muôn ngàn uẩn khúc. Điều này có liên quan tới bối cảnh chính trị - văn hóa - xã hội thời đó, cũng liên quan tới sự chi phối mạnh mẽ của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học phương Tây cộng với những ảnh hưởng tương đồng từ trào lưu tiểu thuyết “mới” của văn học Trung Quốc (cũng được nảy nở từ những kích thích của văn học phương Tây). Tuy cũng viết về những uẩn khúc trong tình cảm của nhân vật như các tác giả cùng thời, nhưng trong những trang văn của mình, Lưu Trọng Lư thường đẩy nó vào một không gian bảng lảng sương khói, tương tự không gian của những câu chuyện cổ. 2.3.2. Chú ý miêu tả những thân phận phụ nữ không may mắn Có sự chia sẻ với định hướng sáng tác của nhiều nhà văn đương thời, trong các sáng tác văn xuôi tự sự của mình, Lưu Trọng Lư cũng chọn thể hiện những thân phận phụ nữ không may mắn như một trong những nguyên tắc phản ánh - biểu hiện trong khuynh hướng thẩm mỹ của mình. Trước hết, ông miêu tả hình ảnh những cô gái mới lớn mang trong mình tư tưởng tân thời, muốn tìm tới một tình yêu tự do và một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, nhưng rồi phải đối mặt với thực tại đau đớn do chính gia đình, xã hội gây ra (Cô Nguyệt, Cô Nhung, Em là gái bên song cửa). Ngoài việc thể hiện số phận bất hạnh của những cô gái sống trong môi trường đô thị và trong đại gia đình phong kiến, Lưu Trọng Lư còn viết về thân phận của những cô gái đã sa chân làm gái giang hồ. Khi đi vào bi kịch của nhân vật nữ, đúng như Lại Nguyên Ân nhận xét, Lưu Trọng Lư không chỉ nhìn thấy số kiếp “sống làm vợ khắp người ta” của họ, mà còn nhận ra một điều nghịch lý, đó là nét nghệ sĩ tài hoa cùng tâm hồn thanh khiết như là phần tốt đẹp trong con người họ.. Hình ảnh người mẹ trong văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư cũng hiện ra với những bất hạnh, khổ đau. Người mẹ tần tảo, hi sinh vì chồng con được nhắc đi nhắc lại nhiều trong văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư trước 1945 như một nỗi ám ảnh qua các tiểu thuyết: Dòng họ, Chiếc cáng xanh, 11 Gió cây trút lá, Bến cũ, Em là gái bên song cửa. Qua những quan hệ trong dòng tộc theo chế độ phụ hệ giành vị trí trước sau, trên dưới trong gia tộc, Lưu Trọng Lư đã cho thấy người mẹ là người phụ nữ có vị trí quan trọng trong gia đình, nhưng cũng phải chịu nhiều thiệt thòi với thân phận là người kế thất (vợ lẽ). Số phận người phụ nữ là một trong những chủ đề được nhiều nhà văn giai đoạn 1930 - 1945 quan tâm thể hiện. Khi viết về những thân phận phụ nữ không may mắn, Lưu Trọng Lư vẫn có nét riêng: ông quan tâm tới số phận của những cô gái trẻ tài hoa, giàu tình cảm, có tri thức nhưng luôn gặp bất hạnh. Trong đó ấn tượng nhất là những nữ sinh xuất thân trong gia đình quan lại, được gửi học ở trường Tây, biết tiếng Pháp, yêu văn chương của Pháp, có quan niệm tình yêu tự do, nhưng những tàn dư của ý thức nho giáo lỗi thời đã đẩy những thân phận như Nguyệt, Nhung, Cẩn, Quỳnh phải chấp nhận sống cuộc sống vô nghĩa hoặc lựa chọn cái chết để giải thoát cho mình. Qua thân phận của những phụ nữ, Lưu Trọng Lư muốn gửi gắm một thông điệp: trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang trên đường Âu hóa, có rất nhiều số phận phụ nữ bất hạnh, thiệt thòi. Tuy sống trong đau khổ, nhưng ở họ vẫn luôn bảo tồn những vẻ đẹp tâm hồn và đó là căn cốt, là giá trị vĩnh cửu mà văn chương phải đề cao. 2.3.3. Phối trí hài hòa không gian xa xăm với không gian cụ thể Cũng miêu tả không gian trong cái nhìn đượm buồn, bế tắc như những tác giả cùng thời, nhưng Lưu Trọng Lư chú ý sự đan cài giữa không gian xa xăm với không gian cụ thể. Ông đem xáo trộn thực với mộng, mộng với thực, tiên với người, tiên với tục tạo nên một không gian mộng ảo ẩn hiện trong cuộc sống trần thế. Trong không gian ấy, các con vật biết trò chuyện, chim muông có thể nói và hiểu được tiếng người, các cây cỏ, hoa lá có thể khiêu vũ và đá cuội có thể mỉm cười. Trong văn xuôi Lưu Trọng Lư có nhiều mô típ gần gũi với truyện cổ tích, truyện cổ, với các nhân vật Đức Vua, Hoàng Hậu, Công Chúa, Hoàng Tử Dù rất “say” trong việc tạo dựng không gian xa xăm, Lưu Trọng Lư không quên miêu tả không gian cụ thể của cuộc sống thực tại và không gian của ký ức. Đây cũng là sở trường của ông. Không gian này gắn với những hồi ức và kỷ niệm của tác giả về gia đình, về tuổi thơ và đặc biệt là về hình ảnh người mẹ. Nó cũng chứa đựng vẻ “xa xăm” đặc biệt, tương thích một cách nghịch lý với không gian mộng ảo mang màu huyền thoại. Lưu Trọng Lư viết về hai loại không gian như là một sự đối lập nghiệt ngã. Không gian cõi tiên, mộng ảo hoặc hoài niệm là chốn nhân vật được hưởng những điều tốt đẹp và yên bình. Ngược lại, không gian thực tại, không gian cõi trần là nơi họ đang đối mặt với nhiều đau đớn, thách thức. Dường như Lưu Trọng Lư đang đặt mình vào giữa hai thế giới, và thế giới mộng ảo là nơi ông muốn tìm đến như một sự giải thoát, một sự lãng quên. Chương 3 DẤU ẤN CỦA VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ TRƯỚC 1945 Ở HỆ THỐNG ĐỀ TÀI VÀ HỆ THỐNG HÌNH TƯỢNG 3.1. Một số đề tài và hình tượng nổi bật của văn xuôi tự sự Việt Nam trước 1945 3.1.1. Đề tài chính 3.1.1.1. Xung đột gia đình Gia đình không phải là một đề tài mới trong văn học nói chung, văn học Việt Nam nói riêng. Ngay từ thời trung đại, cả trong thơ và trong văn xuôi, những quan hệ gia đình đã được thể hiện khá sâu sắc, theo đó, các vấn đề xã hội cũng được soi tỏ dưới một góc nhìn độc đáo. Đề tài gia đình tiếp tục được khơi sâu trong sáng tác của nhiều nhà văn giai đoạn trước 1945. Khi khai thác những xung đột trong gia đình, các nhà văn có cơ hội thấy được tương quan lực lượng giữa những nỗ lực bảo vệ, 12 giữ gìn luân lý truyền thống và những khát vọng đổi khác, vốn được khơi lên nhờ sự kích thích của tư tưởng tự do tư sản đề cao cái tôi cá nhân. Ở sáng tác của Hồ Biểu Chánh, xung đột gia đình hiện ra lắm vẻ, khi thì gắn với việc cưỡng ép hôn nhân (Tiền bạc bạc tiền), khi thì gắn với những toan tính, vụ lợi (Thầy thông ngôn)... Qua vấn đề gia đình, Hồ Biểu Chánh muốn khẳng định đạo lý nhà nho cũng như những truyền thống ứng xử tốt đẹp của người nông dân Nam Bộ. Khác với Hồ Biểu Chánh, tác phẩm của các tác giả Tự lực văn đoàn lại khai thác sự xung đột gay gắt giữa ý thức cá nhân đang trỗi dậy và khuôn phép đạo đức gia đình Nho giáo truyền thống. Các nhà văn Tự lực văn đoàn đã đứng về phía cái mới, cái tích cực để bảo vệ cho quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc riêng của những người phụ nữ. Trung tâm chú ý của các nhà văn hiện thực phê phán là những vấn đề mang tính nhân sinh, trước hết là vấn đề cơm áo, vấn đề áp bức, bóc lột, vấn đề giàu nghèo. Tuy nhiên, trong tác phẩm của họ, vấn đề gia đình cũng hiện lên thật ám ảnh. Có thể kể đến hai cuốn tiểu thuyết đều mang tính tự truyện: Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng và Sống nhờ của Mạnh Phú Tư. Văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945 cũng có đề cập đến đề tài gia đình, tuy nhiên ông không khai thác sâu các xung đột trong gia đình truyền thống hay sự đổ vỡ gia đình như các nhà văn cùng thời. Ông chủ yếu sử dụng những ký ức, hoài niệm về gia đình, dòng họ, quê hương làm chất liệu sáng tác. 3.1.1.2. Những thảm cảnh ở nông thôn Cho đến tận nửa đầu thế kỷ XX, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, với dân số hơn 90% là nông dân. Hoàn toàn là điều tự nhiên khi nông dân trở thành một đối tượng được quan tâm hàng đầu của văn học. Khi nói đến đối tượng này, cuộc sống bi đát của họ trước chính sách khai thác thuộc địa của thực dân là điều được chú ý đặc biệt. Văn học Việt Nam vốn có truyền thống cảm thương, bởi vậy, những thảm cảnh ở nông thôn luôn làm các nhà văn ưu tư, thổn thức. Thêm nữa, do chịu ảnh hưởng của những tác phẩm hiện thực phê phán phương Tây, việc đào sâu vào nỗi khốn cùng của những người lao động dưới đáy càng trở thành một nỗi thôi thúc đối với các cây bút có thiên hướng tả chân xã hội. Viết về thảm cảnh nông thôn trước hết phải kể đến Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao. Phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố cho thấy những hủ tục lạc hậu, thói hiếu danh ở hương thôn đã gây nên nhiều thảm họa cho người nông dân. Không khí chung bao trùm lên toàn bộ nông thôn trong tác phẩm Nam Cao là một không khí xơ xác, nghèo đói, hoang vắng đến rợn người. Thỉnh thoảng có ồn ào lại là những vụ rạch mặt ăn vạ, đâm chém, la làng của những kẻ du côn như Chí Phèo. Nhân vật nông dân của Nam Cao dường như bị đẩy về hai cực: hoặc hiền lành nhu nhược đến mức tê liệt về tinh thần hoặc sa ngã, tha hóa. Số phận nông dân và bức tranh nông thôn cũng được phản ánh hết sức chân thực và sinh động trong Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), Giông tố, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng. Khi tái hiện những thảm cảnh ở hương thôn, tác phẩm của Lưu Trọng Lư tuy không dữ dội như các tác phẩm của dòng văn học hiện thực phê phán, nhưng không thiếu những câu chuyện thương tâm. Dù vậy, Lưu Trọng Lư không đi sâu khai thác những cảnh đời bi thảm, sự bần cùng hóa hay hình ảnh của bọn cường hào ác bá với những mâu thuẫn gay gắt. Ông nhìn thấy nhiều hiện thực đau lòng nhưng muốn thực hiện một sự dung hòa êm thấm. Với cách kể chuyện từ tốn, điềm tĩnh, Lưu Trọng Lư không đẩy câu chuyện lên tới cao trào đầy đau đớn như Tắt đèn, Bước đường cùng... 3.1.1.3. Đời sống sinh hoạt chốn thị thành Từ khi thực dân Pháp đặt ách cai trị trên đất nước ta và đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa, bộ mặt thị thành đã có nhiều đổi khác, mang tính chất tư sản hóa. Dân số thị thành tăng lên với rất nhiều thành phần, giai cấp khác nhau, với những quan niệm sống, phong cách sống và thị hiếu nghệ 13 thuật khác nhau. Có thể nói độc giả thị thành là thành phần chủ yếu của độc giả văn học thời kỳ đó. Do vậy, không có lý gì sinh hoạt chốn thị thành lại không trở thành một đề tài hấp dẫn của sáng tác văn chương. Hơn nữa, với nó, những tư tưởng mới mẻ có được điều kiện bộc lộ mạnh mẽ và những thử nghiệm nghệ thuật cũng có được mảnh đất thi thố. Nếu cuộc sống ở nông thôn thường được tái hiện với vẻ bình lặng, tàn tạ thì cuộc sống nơi thị thành thường được thể hiện với bầu không khí xô bồ, náo nhiệt, nhố nhăng, nơi sự tha hóa diễn ra như một quy luật có tính phổ biến. Viết về thành thị trước hết phải kể đến những cây bút hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang... Thế giới thị thành trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là thế giới của những kẻ dưới đáy: phu xe, kép hát, con sen, thằng quýt... Bên cạnh thế giới của bọn tư sản hãnh tiến mới phất lên với đủ tình huống nhố nhăng, bịp bợm trong Số đỏ, Vũ Trọng Phụng thể hiện sinh động của sống của nhiều kiếp người sống chui rúc vào khắp các xó xỉnh tối tăm của chốn được gọi là phồn hoa. Thành thị trong các tác phẩm Nam Cao gắn với cảnh ngộ của người trí thức nghèo. Họ là những người có ước mơ hoài bão, nhưng cuộc sống cơm áo không cho họ ngẩng đầu lên. Mọi ước mơ đều thui chột, họ sống trong bi kịch “đời thừa”, “chết mòn”. Chốn phồn hoa, đô hội cũng là nơi những tệ nạn nhức nhối như mại dâm, cờ bạc, hút xách tha hồ phát triển... Những cô gái điếm vật vờ sống chui rúc khắp mọi ngõ ngách, xó xỉnh để kiếm sống qua ngày, những gia đình tan nát vì cờ bạc, những số phận bị đẩy đến đường cùng... - đó là những chất liệu làm nên các trang văn bi đát, chua cay của Trọng Lang (với Hà Nội lầm than), của Tam Lang (với Đêm sông Hương), của Vũ Trọng Phụng (với Lục xì, Cạm bẫy người), của Nguyễn Đình Lạp (với Ngoại ô, Ngõ hẻm) Lưu Trọng Lư cũng viết về những con người trong môi trường đô thị. Trong khi tái hiện khá sống động đời sống của giới trí thức, những nam thanh nữ tú kiểu mới thời bấy giờ, ông không quên phê phán lối sống hưởng lạc và chỉ ra sự hèn yếu của nhân vật. Không xoáy sâu vào những kiếp sống đói nghèo, lay lắt như nhân vật của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Đình Lạp, nhân vật chủ yếu của Lưu Trọng Lư là những nam thanh nữ tú kiểu mới, sống theo lối Âu hóa nhưng hèn yếu, ưa lối sống vật chất hưởng lạc. Và nhiều bi kịch đã đến với họ. Về phương diện này, ngòi bút Lưu Trọng Lư có màu sắc hiện thực theo cách riêng của ông. 3.1.2. Những hình tượng nhân vật nổi bật 3.1.2.1. Con người nổi loạn Khái niệm “con người nổi loạn” được dùng ở đây để chỉ một loại hình nhân vật khá đặc biệt của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Đó là loại nhân vật có cấu trúc nhân cách phức tạp, có những hành động khó lường theo quan niệm truyền thống, dám chống lại các khuôn phép đặt định cứng nhắc để theo đuổi tự do cá nhân. Khi xây dựng loại hình nhân vật này, các nhà văn Việt Nam rõ ràng có tiếp thu tư tưởng đề cao con người cá nhân trong văn học phương Tây. Giữa “con người nổi loạn” trong văn học Việt Nam và “con người nổi loạn” trong văn học phương Tây có nhiều điểm gần gũi, tuy nhiên, sự khác biệt vẫn rõ, do những mẫu hình con người ấy được hình thành dựa trên những tiền đề văn hóa, xã hội không giống nhau. Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết gia có nhiều tác phẩm phỏng tác từ văn học phương Tây. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo, nhưng Hồ Biểu Chánh vẫn nhìn thấy một thực tế: con người cá nhân đang trỗi dậy mạnh mẽ, chống lại những khuôn khổ, nề nếp cũ. Nhiều nhân vật của ông đã phản ứng quyết liệt với gia đình, với lễ giáo để bảo vệ cho tình yêu. Các nhà văn Tự lực văn đoàn đã xây dựng được nhiều nhân vật “nổi loạn”. Mai trong Nửa chừng xuân (Khái Hưng) dám đấu tranh để khẳng định cái tôi cá nhân trước gia đình phong kiến. Mai dám vượt lên những rào cản của lễ nghi phong kiến, đấu tranh quyết liệt cho hạnh phúc, tình yêu tự do và bình đẳng. Loan trong Đoạn tuyệt (Nhất Linh) đẩy cuộc đấu tranh mà Mai đã tiến hành lên một mức cao hơn. Cô phản ứng bà mẹ chồng cổ hủ ngay từ buổi đầu về nhà chồng. Cô đấu tranh kịch liệt để bảo vệ những giá trị mà mình theo đuổi, tự định đoạt hạnh phúc cho mình. 14 Từ 1936 trở đi, cuộc sống xã hội ngày càng ngột ngạt. Trong bối cảnh đó, các tiểu thuyết gia trụ cột của Tự lực văn đoàn cho ra đời các tiểu thuyết “khác lạ” như Bướm trắng (Nhất Linh, 1941), Thanh Đức (Khái Hưng, 1943), miêu tả khá sống động kiểu người nổi loạn vô chính phủ, sống vô luân, trụy lạc, bệnh hoạn. Lưu Trọng Lư gặp gỡ với Hồ Biểu Chánh trong Chút phận linh đinh, Hoàng Ngọc Phách trong Tố Tâm ở cách thể hiện sự nổi loạn nửa vời của nhân vật. Trong những tiểu thuyết viết về thận phận người phụ nữ, Lưu Trọng Lư cũng đã thể hiện họ như những nhân vật mang tính cách nổi loạn. Chẳng hạn, tiểu thư họ Phan trong Tàn một kiếp đã từ bỏ thân phận và cuộc sống giàu sang, phú quý để “quẩy bầu gánh” đi theo và làm vợ một anh Xẩm mù có tài đánh đàn. Nàng công chúa Lã Mai trong tiểu thuyết Công chúa Lã Mai trái ý vua cha, thà không lấy chồng chứ không chịu “lấy làm chồng, một người trong cái đám người tầm thường” mà nàng khinh bỉ. 3.1.2.2. Con người tha hóa Con người tha hóa là loại hình nhân vật mà văn học giai đoạn trước 1945 nói chung, văn học hiện thực phê phán nói riêng hết sức quan tâm. Trong khi tập trung phản ánh sự tha hóa như một hiện tượng phổ biến trong xã hội thực dân nửa phong kiến, các nhà văn hiện thực phê phán đã thực sự xây dựng được những điển hình bất hủ, thể hiện sự phát triển của tư duy tiểu thuyết trong cách khám phá, miêu tả hiện thực, con người. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một thế giới tha hóa, dị dạng, vật hóa cao độ. Con người trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan bị tha hóa, méo mó, “vật hóa” một cách khủng khiếp. Trong Giông tố, Trúng số độc đắc, Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, nhiều nhân vật chính như Mịch, Long, Phúc, Huyền... đều là những kẻ tha hóa. Họ xuất thân là những trí thức có lòng tự trọng, những thiếu nữ nông dân trong trắng. Nhưng hoàn cảnh xã hội đen tối đã xô đẩy họ. Những lợi ích vật chất, tiền và tình đã cuốn trôi họ, khiến họ không thể cưỡng lại. Khi đã trượt dài vào vũng lầy, họ chỉ còn biết đổ cho số phận, đổ cho hoàn cảnh. Những nhân vật của Nam Cao phần lớn đều là những người lương thiện, nhưng do không đủ khả năng để chống lại những cạm bẫy của xã hội nên họ dần bị biến chất và tha hóa. Khác với nhiều nhà văn hiện thực, Lưu Trọng Lư ít chú ý giải thích nguyên nhân xã hội của sự tha hóa. Ông chỉ tập trung phản ánh thảm cảnh của tha hóa, chủ yếu với lớp thanh niên tân thời như Huy (Từ thiên đường đến địa ngục), Lương (Cô gái tân thời), Minh (Một người đau khổ). Từ những con người ít nhiều có hoài bão, họ nhanh chóng đầu hàng, chạy theo lối sống hưởng lạc. Nguyên nhân trước hết không phải do xã hội mà do lối sống hời hợt, dễ buông xuôi theo hoàn cảnh ở họ. Có lúc, nhà văn còn thi vị hóa lối sống giang hồ, hưởng lạc. 3.1.2.3. Con người nạn nhân xã hội Hình tượng con người nạn nhân xuất hiện tập trung trong sáng tác của các nhà văn thuộc khuynh hướng văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Các nhà văn thường quan tâm tới hình tượng những con người nhỏ bé bị chèn ép, bị tước đoạt quyền lợi, từ ruộng đất, miếng ăn cho tới quyền làm người. Với tư duy duy vật, cắt nghĩa nguyên nhân nghèo đói, bất hạnh là từ xã hội, các nhà văn hiện thực phê phán đã mở rộng phạm vi phản ánh, đi sâu thể hiện cuộc sống cơ cực của nhiều tầng lớp trong xã hội, vạch ra các mâu thuẫn giai cấp chủ yếu. Trên đề tài trí thức, đời sống đô thị, văn học hiện thực phê phán cũng dựng lên nhiều thảm cảnh đau lòng. Những Hộ, Điền, Thứ (Nam Cao), Long, Phúc, Huyền (Vũ Trọng Phụng), bác Vuông, Huyền (Nguyễn Đình Lạp)... đều nhanh chóng trở thành những nạn nhân của một xã hội ngột ngạt, không cho con người được tồn tại, được sống đúng nghĩa con người. Văn xuôi Lưu Trọng Lư cũng viết về những con người nạn nhân, nhưng họ trước hết là nạn nhân của những hủ tục, của thói xấu của những kẻ có quyền. Nhiều nhân vật trong văn xuôi Lưu 15 Trọng Lư là nạn nhân của chế độ phụ quyền, của kiểu ứng xử phong kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Và đó là nguyên nhân dẫn đến cái chết trong tâm hồn của nhiều nhân vật. 3.2. Nét riêng của hệ đề tài trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945 3.2.1. Đề tài con người trong môi trường đô thị Văn học lãng mạn thường hay dựng lên sự tương phản giữa cuộc sống của con người cá nhân ưa tự do, phóng khoáng với môi trường sống ở đô thị vốn mang đặc trưng ngột ngạt, đầy những toan tính phàm tục. Với Lưu Trọng Lư, khả năng cảm nhận và biểu hiện đời sống đương thời, đặc biệt là đời sống của những nhân vật cùng sống trong bầu không khí đô thị trước Cách mạng tháng Tám được tái hiện khá toàn diện. Nhà văn không có ý định bao quát bức tranh rộng lớn, xô bồ muôn màu sắc của con người trong môi trường đô thị mà chủ yếu đi sâu vào cuộc đời của tầng lớp tiểu tư sản, tầng lớp văn nghệ sĩ mà ông có gắn bó, thông thuộc (vì thực chất ông cũng là một người thuộc số họ). Ông cũng không quá đi sâu miêu tả những bi kịch tinh thần của những con người ấy theo kiểu Nam Cao. Đọc những sáng tác văn xuôi tự sự của ông, có thể thấy rõ tính hai mặt của thứ văn minh vật chất được bày ra ở chốn thị thành. Một mặt, nó bộc lộ tính hiện đại của không gian sống với những nhu cầu thụ hưởng có thật và chính đáng của con người, mặt khác nó cũng mang theo nhiều hiểm họa, sẽ cuốn không ít kẻ vào con đường sa đọa, đánh mất chính mình. Ở đây, rõ ràng cái nhìn của ông về “ánh sáng kinh kỳ” là cái nhìn không thiên lệch, định kiến. Chính vì thế, ông có được những trang văn thật trong trẻo khi phác họa hình ảnh học sinh Hà thành những năm trước Cách mạng. 3.2.2. Đề tài con người lỡ vận Trong sáng tác trước 1945, Lưu Trọng Lư thường quan tâm đến “những kẻ thất cơ lỡ vận”. Đây cũng là đề tài này quen thuộc của các nhà văn lãng mạn nói chung và các nhà văn lãng mạn Việt Nam nói riêng. Nguyễn Tuân với Vang bóng một thời đã dựng lên sống động hình ảnh của những kẻ sống lạc thời, bất đắc chí và thường ôm những hoài niệm về dĩ vãng. Các nhà văn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hồ Dzếnh... đã có nhiều tác phẩm viết về những con người sống bế tắc, vỡ mộng công danh sự nghiệp, chấp nhận một cuộc sống quẩn quanh, tù đọng. Viết về con người lỡ vận, Lưu Trọng Lư chú trọng xây dựng các nhân vật là những nam thanh, nữ tú. Nhiều người xuất thân từ gia đình quyền quý, nhưng do hoàn cảnh đẩy đưa, họ bị rơi xuống đáy xã hội. Một số nhân vật dã sử như quan lớn Lê cũng được nhà văn nhìn nhận như những con người lỡ vận. Trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư, sự lỡ vận nhiều khi gắn với chuyện ái tình. Có nhân vật đã từ bỏ chí lớn để chạy theo tiếng gọi của tình yêu và trở thành đấng nam nhi thoái chí. Chẳng hạn, thầy Khóa Văn trong Cảm hóa (tiểu thuyết Hương Giang sử). Trong tiểu thuyết Trà Hoa Nữ, Lương Hà Dật đại diện cho kiểu nhân vật “bán đồ nhi phế”, không theo đuổi mục đích đến cùng. Nhân vật lỡ vận trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945 khá đa dạng: những anh hùng ôm hận vì giấc mơ phục quốc không thành; những cô gái giang hồ nhưng vẫn giữ được nét đài các, tài hoa; những sư ông không thể rũ bỏ hết bụi trần để dâng mình cho cõi Phật... Với kiểu nhân vật này, Lưu Trọng Lư đã góp phần làm cho hình tượng con người lỡ vận trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám trở nên sinh động, phong phú hơn. 3.2.3. Đề tài kỷ niệm riêng tư Kỷ niệm riêng tư không phải là đề tài riêng của văn học lãng mạn hay những tác phẩm viết theo khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa. Nhưng phải thừa nhận rằng, ở loại hình sáng tác này, đề tài kỷ niệm riêng tư được đặc biệt ưa thích và có những điểm nhấn đặc thù. Ở văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư, những kí ức về tuổi thơ, về bản thân, về gia đình, quê hương thường được trở đi trở lại thường xuyên. Trong các trường hợp này, người kể chuyện xưng “tôi” gần như trùng khít với tác giả, và do vậy, dáng dấp tự truyện của các sáng tác cũng được bộc lộ rõ. 16 Lồng ghép trong câu chuyện tình trắc trở ở tiểu thuyết Bến cũ là kí ức về tuổi thơ, gia đình của chính nhà văn. Những kí ức về gia đình, dòng tộc được Lưu Trọng Lư thể hiện sinh động trong tiểu thuyết Dòng họ. Đây “Được coi như một cuốn tiểu luận kiêm hồi ức về gia đình và quê hương tác giả”. Khi viết về đề tài mà chúng tôi gọi ước lệ là “kỷ niệm riêng tư”, nhà văn đã sử dụng rất thành công hình thức thư tín. Thư tín là phương tiện để đưa tin và cũng là cách trao đổi tình cảm thầm kín, tế nhị mà con người ưa dùng. Chính vì lẽ đó khi viết về những kỷ niệm riêng tư, Lưu Trọng Lư không ngại đưa vào trong truyện ngắn, tiểu thuyết của mình những bộc bạch tình cảm dưới hình thức viết thư. Lưu Trọng Lư thường lấy những kí ức về tuổi thơ, bản thân, gia đình, quê hương làm chất liệu để hư cấu nên tác phẩm. Nhiều hình ảnh trong văn xuôi cũng là hình ảnh ám ảnh trong nhiều bài thơ ông: chiếc cáng điều lững thững bên sườn núi; hình ảnh người mẹ với “Nét cười đen nhánh sau tay áo” và “Áo đỏ người đưa trước dậu phơi (Nắng mới), hình ảnh những cô em ngồi buồn bên song cửa (Tình điên, Một mùa đông)... Nhìn chung, với đề tài kỷ niệm riêng tư, Lưu Trọng Lư đã thực hiện được một sự kết nối tự nhiên giữa thơ và văn xuôi. Người ta có thể đọc các truyện ngắn, tiểu thuyết mà ông viết để hiểu hơn về thơ ông cũng như ngược lại. Đã nói tới kỷ niệm riêng tư, người ta không thể không nhớ đến những bối cảnh không gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_dong_gop_cua_van_xuoi_tu_su_luu_trong_lu_gia.pdf
Tài liệu liên quan