Tổng quan về quỹ tiền tệ quốc tế IMF

MỤC LỤC

Lời nói đầu Trang 2

I/Tổng quan về Quỹ tiền tệ Trang 3

II/Bối cảnh lịch sử và mục dích của Quỹ tiền tệ Trang 3

III/Cơ cấu tổ chức .Trang 5

IV/Chức năng cơ bản của IMF .Trang 6

V/Hoạt động .Trang 7

VI/Những nguồn tài chánh IMF .Trang 9

VII/Việt Nam và IMF .Trang 15

Đáng giá chung .Trang 17

 

doc19 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 12044 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan về quỹ tiền tệ quốc tế IMF, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uy định của văn bản hiệp định đầu, các nước thành viên đều áp dụng hệ thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định. Trong hiệp định có ghi : ''Tất cả các thành viên công nhận là chỉ cho phép diễn ra trên lãnh thổ nước mình những hoạt động hối đoái giữa các đồng tiền của mình với đồng tiền của những nước thành viên nào tôn trọng một sự cách biệt không quá 1% chế độ đồng giá''. 2.Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán - Ðể thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế IMF đã cung cấp cho các nước thành viên các khoản tín dụng cho các nước có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán 3.Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của các nước thành viên Ta sẽ đi vào tìm hiểu rõ hơn chức năng của IMF trong phần hoạt động Hoạt động: Tương trợ tài chánh khi các nước hội viên cần được giúp đỡ vẫn là hoạt động chính của Quỹ. Nhưng cách thức kiểm soát, đề phòng và nhìn trước những khó khăn của các nước hội viên là yếu tố quan trọng trong bối cảnh một nền kinh tế thế giới ngày càng liên quan mật thiết với nhau 1. Kiểm soát chính sách tiền tệ của các nước hội viên : - Hiện nay Quỹ có một hoạt động nghiên cứu quan trọng về tình trạng kinh tế tổng quát, chính sách tiền tệ của mỗi nước hội viên để có thể nhìn trước những khó khăn một nước để có thể phải đối đầu và do đó cần sự giúp đỡ của Quỹ - Theo quy chế (Article IV), IMF tham khảo mỗi nước mỗi năm một lần hoặc nhiều lần nếu Quỹ nhận định là nước có nhiều nguy hiểm sẽ rơi vào tình trạng khó khăn kinh tế. Hằng năm, một nhóm chuyên viên của Quỹ được cử tới thủ đô mỗi nước quãng hai tuần để thu thập tại chỗ những dữ kiện kinh tế có ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền như những thống kê về xuất nhập khẩu, lương bổng, giá cả, việc làm, chỉ số phân lãi, số lượng tiền quốc gia đang lưu hành, đầu tư, thuế vụ, ngân sách quốc gia. và đối thoại với những vị đại diện chính phủ về sự hữu hiệu của những chính sách kinh tế đang được áp dụng, những dự trù thay đổi để có một chính sách trao đổi ngoại tệ một cách tự do không bị kiểm soát hay giới hạn. Nhóm chuyên viên trở về trụ sở Washington và lập một bản tường trình chi tiết để ban điều hành có thể góp ý kiến cho nước hội viên phải sửa đổi hay canh tân trong những lãnh vực có nhiều thiếu sót. Những tài liệu này là yếu tố cơ bản để IMF quyết định giúp đỡ hay không khi cần thiết. 2. Giúp đỡ tài chánh : - IMF chỉ cho vay tiền những nước nào gặp khó khăn về vấn đề thanh toán trong cán cân chi tiêu ngoại địa, nghĩa là số tiền ngoại tệ có từ xuất khẩu không đủ để thanh toán những hàng hoá nhập khẩu. Một nước có thể tiêu xài nhiều hơn là điều mình có. Không ai, không nước nào cho vay mượn thường xuyên một nước thích ăn tiêu hơn những gì mình có. Do đó chỉ còn cách thắt lưng buộc bụng, giảm tiêu xài trong nước : bớt nhập khẩu, giảm chi tiêu quốc gia. để tìm lại được mức thăng bằng của giá trị đồng tiền và cán cân chi tiêu ngoại địa. IMF cho mượn tiền trong mục đích này. - Những nước gặp khó khăn như trên có thể rút ra ở IMF 25% phần mình đã đóng góp trả bằng vàng hay tiền những nước lớn. Nếu không đủ, Quỹ có thể cho vay một số tiền tương đương với 75% phần đóng góp, chia ra làm ba lần, mỗi năm có thể rút một lần. Nếu lần rút 25% là tiền nước đã đóng góp thì 75% sau là tiền Quỹ cho mượn. Khi Quỹ đồng ý giúp 75%, điều này có nghĩa là Quỹ sẽ chỉ định một hay nhiều nước hội viên khác có nền kinh tế vững chắc đổi tiền nước họ lấy tiền nước đang cần trợ giúp. Nước mượn tiền sẽ phải trả lại tiền đã đổi để các nước khác mà tiền đã bị đổi có thể xử dụng để vay Quỹ trong trường hợp cần thiết. Đây là nguyên tắc nền tảng Theo phương thức làm việc của IMF, cách giúp đỡ được chia làm hai loại : + Giúp đỡ ngắn hạn (Stand-by Arrangements - Accords de Confirmation) nhằm giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu tạm thời. Thời gian mượn kéo dài từ 12 tháng đến 18 tháng. Mỗi năm các nước mượn có thể rút một phần. Hạn trả kéo dài từ 3 đến 5 năm. + Giúp đỡ dài hạn (Extended Fund Facility - Mécanisme Élargi de Crédit) nhằm giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu mà nguồn gốc xuất phát từ những vấn đề liên quan tới hạ tầng cơ sở kinh tế của nước. Hạn trả kéo dài từ 4 đến 10 năm. - Nếu lần rút đầu tiên 25% được Quỹ chấp thuận dễ dàng thì những lần rút sau Quỹ đòi hỏi nhiều điều kiện khắt khe như: nước hội viên phải có một chương trình chi tiết về tài chánh và kinh tế để giải quyết những khó khăn về cán cân chi tiêu ngoại địa và Quỹ chia tiền cho mượn ra làm nhiều phần. Đó là nguyên tắc thận trọng để tránh việc một nước mượn được tiền và xử dụng một cách hoang phí hay ít hữu hiệu. - IMF quan tâm đặc biệt đến chính sách tiền tệ, đặc biệt là hoạt động của hệ thống ngân hàng. Bởi vì số lượng tiền tệ lưu hành nhiều hay ít là do những chính sách của ngân hàng trung ương qua việc kiểm soát hệ thống ngân hàng trong nước. Số lượng cho vay của các ngân hàng quá lớn sẽ khuyến khích nhập cảng gia tăng. Việc kiểm soát và giới hạn hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng là điều Quỹ bắt nước cần mượn phải thực hiện. IMF thường đòi nước phải hạ tỷ giá hối đoái để giới hạn phần nhập khẩu và để phần xuất khẩu gia tăng, vì sự cạnh tranh sẽ dễ dàng hơn do giá rẻ hơn. - Quỹ cũng khuyến khích nước phải giảm những chi tiêu trong ngân sách quốc gia : ít công chức hơn, giảm đầu tư công cộng, giới hạn việc giúp các doanh nghiệp quốc doanh nếu không muốn nói là phải tư hữu hoá, xoá bỏ những hạn chế về giá cả. và ngay cả đường lối cứng rắn chống lại tệ nạn tham nhũng hối lộ, nguồn gốc của nhiều cản trở và hoang phí cho sự phát triển kinh tế. - Mặt khác, các nước hội viên có thể dùng quyền SDR của mình nếu cần thiết. Quỹ không đòi hỏi điều kiện để một nước có thể dùng quyền này. Nếu một nước hội viên cần ngoại tệ, Quỹ sẽ chỉ định một nước có sức mạnh kinh tế và tài chánh đổi những phần SDR lấy ngoại tệ. Khi nước gặp khó khăn tìm lại được tình trạng thăng bằng kinh tế, số ngoại tệ đã mượn sẽ được trả lại cho nước đã cho mượn. SDR cũng có thể được thanh toán trực tiếp giữa các ngân hàng trung ương của một số nước hội viên mà không cần sự can thiệp của Quỹ. - Ngoài những cách thức cho vay mượn trên, IMF cũng đặt ra một số phương thức cho vay tuỳ theo tình trạng khẩn cấp của những khó khăn tài chánh mà các nước hội viên có thể phải đối đầu. - Những cách thức cho vay của Quỹ đều kèm theo một phân lời (từ ngữ được Quỹ dùng gọi là commission) cần thiết để trả tiền lời cho những nước hội viên mà Quỹ đã chỉ định đóng góp tiền cho vay và để cho cơ quan hành chánh của Quỹ có thể hoạt động. - Điểm cuối cùng cần đề cập là hoạt động của IMF để giúp đỡ các nước hội viên nghèo. 3. Giúp đỡ về mặt kỹ thuật: - Trong thập niên 60, nhiều nước Phi châu và Á châu trở thành độc lập đã nhờ IMF giúp đỡ để thiết lập hạ tầng tài chánh quốc gia như ngân hàng trung ương, bộ kinh tế tài chánh. Sự giúp đỡ kỹ thuật này càng ngày càng được mở rộng không những về số nước được giúp đỡ, mà còn trong chương trình huấn luyện kỹ thuật như phương cách thiết lập chính sách tiền tệ, ngân sách quốc gia, kiểm soát hệ thống ngân hàng, kế toán quốc gia, thống kê. Trong thập niên 90, nhiều nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường đã được Quỹ giúp đỡ trong lãnh vực này. Kinh nghiệm của Quỹ trong lãnh vực tài chánh từ hơn 50 năm nay, với những chuyên viên kinh tế, tài chánh, luật pháp, thống kê. gây nhiều tin tưởng quốc tế. Những nước giầu muốn giúp đỡ những nước đang phát triển trong lãnh vực này có thể đóng góp tài chánh và để Quỹ tổ chức cách giúp đỡ. NHỮNG NGUỒN TÀI CHÁNH CỦA IMF: Tổ chức IMF có tính chất tổ hợp tương trợ tài chính,mỗi hội viên đóng góp một số tiền được hội quy định.Nguồn tài chính này được dùng để giúp các nước hội viên trong trường hợp cần thiết.Nhưng Quỹ cũng có những phương cách phụ thuộc khác để có thể đáp ứng những nhu cầu của các nước hội viên. 1. Phần đóng góp ( Quotas-quotes-parts P) : - Phần đóng góp của mỗi nước là nguồn tài chính của Quỹ ngay từ khi được thành lập.IMF không vay mượn trên thị trường tài chính quốc tế.Phần đóng góp không những đóng vai trò của nguồn tài chính,nó còn là tiêu chuẩn để xác định số tiền mà nước hội viên có thể vay mượn,để phân chia SDR và số phiếu bầu của mỗi nước. - Phần đóng góp được xác định theo tiêu chuẩn : tổng sản lượng quốc gia,dự trữ vàng va dollar Mỹ,số lượng xuất khẩu,nhập khẩu.Nước càng giàu đóng góp càng cao.Số đóng góp lúc đầu là 7,6 triệu USD Mỹ.Số đóng góp tính từ năm 1998 là 193 tỷ USD Mỹ.Năm 1999,đề nghị của IMF tăng 45% nhưng phần đóng góp đã được các nước hội viên phê chuẩn ,nguồn tài chính của cơ quan do đó trị giá khoảng 300 tỷ USD Mỹ. - Nguồn tài chính Quỹ tăng nhiều vì 2 lý do : thứ nhất,thành viên gia nhập ngày càng nhiều,từ 35 nước lúc đầu giờ là 184 nước thành viên,Việt Nam là hội viên từ năm 1956.Thứ hai,phần đóng góp có thể tăng lên hay giảm xuống mỗi thời gian 5 năm theo quyêt định của những Thống đốc với ít nhất 85% phiếu thuận.Những phần đóng góp quan trọng nhất hiện nay là Mỹ(),Anh(),Pháp(),Đức(),Nhật().Phần đóng góp càng nhiều thì ảnh hưởng trong IMF càng mạnh về những đường hướng và quyết định quan trọng.Rất nhiều nước nhỏ có phần đóng góp rất ít,khoảng 50 nước có phần đóng góp dưới 65 triệu USD Mỹ,phần đóng góp của Mỹ cao hơn 2 lần so với những phần đóng góp của các nước Châu Mỹ La Tinh,. - Cách thức xác định tiền của mỗi hội viên rất đặc biệt.Theo quy chế Quỹ,mỗi nước thanh toán 25% phần đóng góp bằng vàng và 75% bằng tiền nước mình.Số vàng được dự trữ trong 4 ngân hàng trung ương lớn nhất,75% tiền mỗi nước được giữ dưới hình thức một trương mục của Quỹ tại ngân hàng trung ương mỗi nước.Trong thực tế các nước thanh toán bằng vàng ít hơn là 25 % như quy định.Từ năm 1971,khi Hệ Thống Tiền tệ vàng Dollar hết hoạt động,25% được thanh toán bằng SDR hay những đồng tiên lớn thường được sử dụng trên thị trường quốc tế. 2. Quyền SDR(special drawing right) - Nguồn dự trữ trong các ngân hàng trung ương để bảo đảm cho ngoại thương là vàng và các tiền lớn như Dollar Mỹ,Yên Nhật,pound Anh và mới đây là tiền EURO thay thế cho những tiền lớn của Cộng Đồng Tiền Tệ Châu Âu như Mark Đức,franc Pháp.Từ năm 1969,IMF quyết định phân chia cho các nước hội viên một loại quyền lợi đặc biệt gọi là SDR,viết tắt theo Anh ngữ hoặc DTS,viết tắt theo Pháp ngữ.Quyền này được coi như một loại tiền dự trữ ghi trên sổ kế toán của ngân hàng trung ương mỗi nước.Lúc đầu,ban lãnh đạo IMF đặt rất nhiều hy vọng vào SDR và dự trù nó sẽ trở thanh đồng tiền quốc tế thay tiền Dollar Mỹ.Nhưng không được,bởi vì các nước lớn nghĩ nhiều đến quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi chung và cũng vì dự tính trên lý thuyết thì hay nhưng khó thực hiện trong thực tế.Lúc ban đầu,SDR được phân chia cho các nước hội viên theo phần đóng góp đã trình bày ở trên,do đó các nước nhỏ ít đóng góp không được nhiều SDR.Trong những lần phân chia sau này,Quỹ có khuynh hướng tăng phần dành cho những nước này. - Giá trị của SDR ban đầu được định giá tương đương 1/35 oune vàng,do đó 1 SDR=1 USD.Sau năm 1971,USD không còn được đổi ra vàng,giá trị của SDR được xác định dựa trên giá trị 16 đồng tiền của 16 nước có hoạt động hoạt động xuất khẩu cao nhất và thay đổi theo giá thị trường của những đồng tiền này.Từ năm 1980,để đơn giản hóa cách tính,gía trị dựa trên 5 đồng tiền lớn và mức quan trọng của mỗi đồng tiền:USD(39%),mark(21%),yên Nhật(18%),pound Anh(11%),Franc Pháp(11%),Từ khi đồng Euro ra đời,mức quan trọng được xác định như sau : USD(45%),EURo(29%),yên Nhật(15%),pound Anh(11%) và Franc Pháp(11%). **Sứ mệnh: SDR ra đời là sự kiện đánh dấu sự thay đổi của hệ thống tỷ giá hối đoái(TGHĐ)cố định sang TGHĐ linh hoạt hơn. Giảm thiểu những hạn chế trong việc sử dụng đồng USD và vàng.SDR ra đời đã bổ sung vào IMF,làm hoạt động thanh toán quốc tế được thông suốt hơn,thị trường hối đoái ổn định hơn. Sau CTTG thứ II,Anh,Mỹ và các nước đồng minh đã cùng nhau xây dựng nên hệ thống TGHĐ cố định:Hệ thống Bretton Woods(1944-1973).Trong đó,các quốc gia thành viên phải cố định tiền tệ của họ với đồng USD theo TGHĐ chính thức,NHTW Mỹ phải đảm bảo có thể chuyển đổi USD thành vàng với giá 35 USD/1 ounce vàng. Năm 1969,SDR được IMF đề ra theo đề nghị của 10 nước trong CLB Paris gồm : Bỉ,Canada,Pháp,Ý,Nhật,Hà Lan,Thụy Điển,Anh,Mỹ,Đức.Khi được khai sinh,SDR là tài sản dự trữ có tính chất quốc tế nhằm bổ sung cho tài sản dự trữ của các quốc gia thành viên,góp phần giúp duy trì TGHĐ của đồng nội tệ. Ban đầu,SDR được tính theo vàng : 1 SDR = 0,888671g vàng = 1 USD.Năm 1974,SDR không được xác định bằng vàng nữa,mà căn cứ vào giá trị đồng tiền của một số nước chủ yếu,gồm 16 nước ma mỗi loại chiếm tỷ trọng từ 1% trở lên trong thương mại quốc tế : Hoa Kỳ,Anh,Pháp,CHLB Đức,Italia,Tây Ban Nha,Nhật,Canada,Hà Lan,Bỉ,thụy Điển,Đan Mạch,Na Uy,Ôxtraylia,Áo,Nam Phi. Đến 1980,giảm xuống còn 5 nước : Mỹ(USD),Anh(bảng Anh),Nhât(yên),Pháp(Prăng),Đức(Mac). Từ năm 1999 đến nay,khi đồng tiền chung châu Âu(EURO)ra đời và có sự thay đổi về tiềm lực tài chính của các nước phát triển,IMF đã đưa EUR vào rổ tiền tệ và bỏ Franc va Mac ra khỏi rổ tiền tệ. Sau khi hệ thống TGHĐ cố định bị sụp đổ và áp dụng tỷ giá thả nổi,tỷ giá của các đồng tiền thường xuyên biến động.Vì vậy,IMF công bố hàng ngày TGHĐ của từng đồng tiền quốc gia với SDR. Ngày nay,SDR ít được sử dụng như tài sản dự trữ,mà chức năng chính của nó là sử dụng như một tài khoản tại IMF của các nước thành viên và một số tổ chức quốc tế khác,sử dụng như một đơn vị tính toán,Quốc gia nắm giữ SDR có thể đổi ra các đồng tiền khác theo 2 cách : # Thông qua thỏa thuận trao đổi tiền với các nước thành viên khác. # Thông qua một thành viên được chỉ định,có địa vị đối ngoại cao để để trao đổi với một thành viên khác có vị thế yếu hơn. Tỷ lệ đóng góp vào ngân sách của IMF liên quan đến quyền bỏ phiếu của từng thành viên đối với các quyết định tài trợ,cho vay…của IMF. Ngày nay,giá trị của SDR được xác định dựa trên một nhóm các đồng tiền mạnh theo tỷ lệ bình quân gia quyền theo USD. **Xác định giá trị SDR: Từ năm 1969 đến tháng 6/1974,SDR được định nghĩa bằng giá trị của USD và USD xác định theo giá trị với vàng : Từ 1969 đến ngày 17/12/1971 : 35 USD = 1 oz vàng Từ ngày 18/12/1971 đến 11/2/1973 : 38 USD = 1 oz vàng Từ ngày 12/2/1973 đến 30/6/1974 : 42,22 USD = 1 oz vàng Năm 1973,TGHĐ cố định sụp đổ nên từ tháng 7/1974 đến nay,SDR được định nghĩa theo các điều kiện của 1 rổ tiền tệ,bao gôm các loại tiền tệ chính được sử dụng trong thương mại và thanh toán quốc tế: Tỷ lệ mỗi loại tiền tệ tạo ra một SDR được chọn theo tầm quan trọng của nó trong thương mại và thanh toán quốc tế.Việc xác định loại tiền tệ trong rổ SDR và tỷ lệ của nó do Ban lãnh đạo IMF thực hiện sau mỗi 5 năm.Tỷ lệ của các loại tiền tệ trong giai đoạn từ 1981 tới 2010 là : + 1981-1985 : USD 42% ,DEM 19%, JPY 13% ,GBP 13%,FRF 13% + 1986 -1990: USD 42% ,DEM 19%, JPY 15%,GBP 12%,FRF 12% + 1991-1995: USD 40%,DEM 21%, JPY 17%,GBP 11%,FRF 11% + 1996-2000: USD 39% ,DEM 21%, JPY 18%,GBP 11%,FRF 11% + 2001-2005: USD 45% ,EUR 29%, JPY 15%,GBP 11%, + 2006-2010: USD 44%,EUR 34%, JPY 11%,GBP 11%, SDR được định giá bằng số bình quân gia quyền của các đồng tiền mạnh.IMF tiến hành tiến hành phân bổ đồng SDR cho các nước thành viên đồng thời cũng được chính phủ của các nước thành viên hỗ trợ. Giá quy đổi USD theo SDR được niêm yết hàng ngày trên wedsite của IMF. Giá này được xác định dựa vào số lượng giao dịch của 4 đồng tiền trên quy đổi ra USD dựa theo TGHĐ niêm yết vào buổi trưa mỗi ngày trên thị trường tiền tệ London.Nếu thị trường London đóng cửa thì dùng tỷ giá trên thị trường New York,cuối cùng là thị trường Frankfurt. ** Quyền rút vốn đặt biệt (SDR): Đó là loại tiền đặt biệt mà IMF tạo ra để bổ sung vào tài sản dự trữ mà hầu hết các nước thành viên dùng để đảm bảo nhu cầu thanh toán ngoại tệ và giao dịch với nước ngoài.Việc này để giải quyết nguy cơ khan hiếm những công cụ thanh toán quốc tế. Hội nghị thường niên IMF ngày 3/10/1969 đã biểu quyết chấp thuận dự án cấu tạo 9,5 tỷ SDR,lần phân phối SDR đầu tiên là 3,5 tỷ SDR thi hành ngày 1/1/1970,hai lần phân phối sau đó mỗi lần 3 tỷ vào đầu năm 1971 và năm 1972.Đến năm 1979 thêm 3 đợt phân phối nữa vào đầu 1979,1980,1981.Tính chung,từ 1970 đến 1986,Quỹ đã tạo ra và phân phối tổng cộng 21,4 tỷ SDR,trị giá gần 29 tỷ USD,chiếm khoảng 2% tổng dự trữ thế giới. 3.Bán vàng: Báo cáo của IMF dự kiến thúc đẩy nhu cầu vàng. Một báo cáo của IMF cho rằng các nền kinh tế mới nổi Châu Á như Ân Độ,Trung Quốc và Indonesia vẫn đang dẫn đầu phục hồi kinh tế toàn cầu,điều này sẽ hỗ trợ thị trường vàng trong những tuần tới. Báo cáo IMF sẽ thúc đẩy nhu cầu vàng ở Trung Quốc và Ân Độ -những thị trường có nhu cầu mua vàng mạnh trong thời gian gần đây.Mùa lễ hội ở Ân Độ cũng sẽ cung cấp hỗ trợ cho vàng.Theo IMF,các hoạt động của các nền kinh tế mới nổi rất sôi nổi nhờ nhu cầu trong nước khá mạnh của sự phục hồi của thương mại toàn cầu.Các nền kinh tế lớn ở Châu Á như Trung Quốc,Ân Độ và Indonesia vẫn đang dẫn đầu sau đó là Brazil ở Châu Mĩ La Tinh. Nói về vấn đề lạm phát,báo cáo của IMF cho rằng lạm phát vẫn đang chịu nguy co nền kinh tế phát triển,tỷ lệ thất nghiệp cao khiến áp lực lạm phát chưa đáng lo ngại lắm.Với mức lạm phát cơ bản chỉ duới 1%,giảm phát sẽ là vấn đề được chú y nhiều hơn. Tuy nhiênIMF cũng cảnh báo về nguy cơ nợ quốc gia và sự yếu kém trên thị trường tài chính có thể làm chẹch hướng phục hồi kinh tế toàn cầu. Trước nỗi lo về sức khỏe của các ngân hàng Châu Âu và tài chính công ở Châu Âu,Nhật và Mỹ,sự hồi phục kinh tế sẽ bắt đầu chậm lại. Điều này có thể tăng áp lực mua trú ẩn lên vàng.Trong khi Ân Độ và Trung Quốc mua vàng vì kinh tế phát triển thì Mỹ,Châu Âu và Nhật có thể mua vàng vì lựa chọn nơi trú ẩn.Cả hai tình huống này đều tốt cho vàng. Tính tới ngày 30/4/2000,số lượng vàng dự trữ của IMF có vào khoảng 103 triệu ounces(3.217 tấn)và được định theo giá thị trường vào khoảng 30 tỷ USD Mỹ. Tuy nhiên trong thời gian 1976 đến 1980,Quỹ đã thỏa thuận với các nước hội viên để giảm bớt số vàng dự trữ.Quỹ đã bán khoảng 50 triệu ounces vàng.Một nửa trả lại cho các nước hội viên theo giá 1 ounce = 35 SDR,nửa còn lại để bán theo giá thị trường và là nguồn tài chính giúp đỡ các nước hội viên nghèo. Hội đồng điều hành IMF đã phê chuẩn việc bán ra 403 tấn vàng,trị giá khoảng 13 tỷ USD Mỹ,để tăng năng lực cho vay tới các nước nghèo. Bán vàng một cách có trách nhiệm và minh bạch. IMF cho rằng quyết định bán vàng là một yếu tố then chốt trong mô hình thu nhập mới giúp IMF bớt lệ thuộc vào lợi tức từ cho vay để trang trải các chi phí giám sát chính sách kinh tế và tài chính của các quốc gia thành viên. Số vàng được bán ra lần này chiếm 1/8 kho vàng 3.217 tấn mà IMF đang cất giữ tại thủ đô Washington.IMF là cơ quan có nhiều vàng đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ,Đức. Là cổ đông lớn nhất IMF,Mỹ đã bật đèn xanh cho việc bán vàng này của IMF.Quyết định quan trọng này được thông qua với hơn 85% số phiếu thuận. Theo kế hoạch,IMF sẽ chào bán vàng trực tiếp cho các ngân hàng trung ương.Một khách hàng tiềm năng nổi bật là ngân hàng trung ương Trung Quốc,hiện nắm giữ khoảng 2000 tỷ USD Mỹ dự trữ ngoại tệ và có nhu cầu đa dạng hóa nguồn dự trữ này.Trung quốc cũng đang thường xuyên tìm mua vàng và dự trữ của nước này đã tăng 75% trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2008. Trường hợp nhu cầu mua vàng của ngân hàng trung ương không đủ 403 tấn,IMF sẽ xem xét việc bán vàng ra thị trường,theo cách mà các ngân hàng trung ương vẫn đang làm, “sẽ thông tin trên thị trường trước khi bắt đầu cuộc bán vàng và báo cáo thường xuyên cho công chúng về tiến độ việc bán vàng”,IMF cho biết. Nước nghèo được vay dễ hơn,nhiều hơn. Khoản tiền thu được từ bán vàng lần này dự kiến sẽ tăng năng lực cho vay tới các nước nghèo nhất thế giới như châu Phi. IMF cũng đã quyết định xóa các khoản tiền lãi vay mà các nước nghèo đang nợ từ nay đến cuối năm 2011 và tiến hảnh cải tổ thủ tục để việc cho vay diến ra nhanh và dễ dàng hơn. Vốn hoạt động: Khi gia nhập IMF,mỗi thành viên đều phải đóng một khoản tiền nhất định gọi là một khoản lệ phí hội viên. Khoản này chỉ thực hiện khi Quỹ có nhu cầu : khi ai cần vay tiến của quốc gia đó thì quốc gia đó mới phải đóng.Số tiền này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: + Tạo thanh khoản vốn IMF có thể cho các thành viên vay khi gặp khó khăn về tài chính. + Căn cứ để quyết định số lượng tiền mà các nước thành viên được vay. + Số tiền ký quỹ này còn có vai trò quyêt định quyền bỏ phiếu của các nước thành viên. Bản thân IMF là người quyết định số tiền mà mỗi nước thành viên phải nộp vào quỹ sau khi phân tích đánh giá mức đọ giàu có và tình hình kinh tế của nước đó.Nước càng giàu,lệ phí càng cao. Biểu đồ : Những thành tựu lớn nhất của IMF tính theo cổ phần 1977 (tính theo triệu SDR và tổng số cổ phần) Khoản tiền đóng góp của các nước thành viên tạo nên nguồn tài chính cho IMF sử dụng.Tổng số tiền đóng góp các nước thành viên cho đến nay khoản 210 tỷ USD,mặc dù trên thực tế số tiền dử dụng được không thể coi là lớn bởi vì các nước thành viên nộp 75% số lệ phí của họ bằng tiền nội địa và hầu hết đồng tiền quốc gia của nhiều nước không phổ biến trong thanh toán quốc tế. Sau đây là 10 nước góp vốn nhiều nhất từ năm 1991 đến cuối năm 1992: Bảng 1: Tên nước SDR (tỷ) Tỉ lệ vốn (%) Tỉ lệ quyền bỏ phiếu (%) Mỹ 7,918 19,66 18,88 Anh 6,194 6,80 6,54 Đức 5,404 5,93 5,71 Pháp 4,483 4,92 4,74 Nhật 4,223 4,63 4,47 Arập Xêút 3,202 3,51 3,40 Canađa 2,941 3,23 3,12 Ý 2,909 3,19 3,09 Trung Quốc 2,314 2,62 2,54 Hà Lan 2,265 2,48 2,41 Các nước thành lập IMF hồi năm 1944 lập luận rằng Quỹ sẽ hoạt động hiệu quả nhất và các quyết định sẽ được đưa ra một cách trách nhiệm nhất nếu gắn liền quyền bỏ phiếu của các nước thành viên với số lượng tiền đóng vào quỹ của họ(xem bảng 1).Nước nào đóng góp nhiều nhất đương nhiên tiếng nói sẽ có trọng lượng nhất khi quyết định chính sách của Quỹ.Mỹ,Anh,Pháp là những nước khi thành lập đã đóng góp nhiều nhất và cũng là những nước có ảnh hưởng nhiều hơn hết đối với các quyết định của IMF.Mỗi nước có 250 phiếu và cộng thêm phiếu cho mỗi 100.000 SDR của phần đóng góp.Bởi vậy,Mỹ hiện nay có 265.000 phiếu,hay 18% tổng số phiếu. Mượn tiền : IMF có thể mượn tiền của những nước hội viên giàu như các nước có kỹ nghệ lớn hay có nhiều dầu hỏa trong trường hợp cần thiết.Năm 1962,11 nước kỹ nghệ hội viên ký giao kèo GAB (General arrangements to borrow) cho Quỹ vay 23 tỷ USD.Năm 1997,25 nước kỹ nghệ hội viên thỏa thuận qua giao kèo NAB (New arrangements to borrow) cho quỹ mượn 47 tỷ USD.Saudi Arabia là nước dầu hỏa cho Quỹ mượn nhiều nhất.Từ năm 1981,nước này đã cho mược 1o tỷ USD.Điều này giải thích tại sao Saudi Arabia có 1 giám đốc trong ban điều hành IMF. Trung Quốc cho biết các nước này sẵn sàng mua lại khoảng 50 tỷ USD trái phiếu do IMF phát hành.Đây là một phần tong cam kết hỗ trợ IMF của Trung Quốc. Lần đầu tiên,đại diện nhà nước Trung Quốc đưa ra số tiền cụ thể về việc sẽ rót vào IMF bao nhiêu tiền. Trong hội đỉnh thượng đỉnh G20 tháng 4/2009,thủ tướng Trung Quốc có thể mua 40 tỷ USD trái phiếu như một phần trong kế hoạch bơm thêm 500 tỷ USD vào quỹ tiền tệ của các nước . Nhật đã cam kết thực hiện cho IMF vay tiền,Mỹ và Châu Âu cũng đã thực thi quyết định của mình.Trung Quốc(TQ) và 3 nền kinh tế mơi nổi có quy mô lớn là Brazil,Nga và Ân Độ đã thông báo họ muốn đóng góp cho IMF thông qua trái phiếu thay cho việc bơm tiền theo hình thức khác. Bơm tiền theo hình thức này giúp họ có thể đóng góp tạm thời cho quỹ,không phải thực hiện cam kết dài hạn trong khi họ đang muốn thương lượng để có tiến nói lớn trong tổ chức. Bộ trưởng tài chính Nga cũng cho biết,nước ông đang cân nhắc kế hoạch mua khoảng 10 tỷ USD trái phiếu IMF,phía Ấn Độ cũng đưa ra thông báo tương tự. Mỹ cho đến nay vẫn ủng hộ TQ có vai trò lớn hơn trong IMF bởi điều này phản ánh đúng đóng góp toàn cầu của kinh tế TQ. Việt Nam và IMF: Việt nam là nền kinh tế đứng thứ 60 trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ tiền tệ IMF,xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2009 và đứng thứ 133 xét theo theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người.Việt Nam là một trong những quốc gia đã nhận được nguồn tài trợ rất lớn từ tổ chức quốc tế này,và hiện nay Việt nam đã là thành viên của IMF, Việt Nam gia nhập IMF vào ngày 21/9/1956. Hạn mức đóng góp cổ phần của Việt Nam là 329.1 triệu SDR (loại tiền tượng trưng của IMF được quy đổi từ đóng góp bằng bản tệ và các ngoại tệ mạnh), trị giá khoảng 475.3 triệu USD. Nghĩa vụ nợ tài chính của Việt Nam đối với IMF tính đến ngày 30/11/2005 khoảng 148,36 triệu SDR. Sau đây là những đánh giá chung về tình hình kinh tế Việt Nam của IMF cho đến năm 2000: -Sức phát triển kinh tế của Việt Nam bị giảm sút rất nhiều từ cuối năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á châu và những yếu điểm của nền kinh tế nội bộ. Tổng sản lượng quốc gia tăng trên 10% từ những năm đầu thập niên 1990 xuống tới 3.5% năm 1998. Nhiều lý do giải thích sự giảm sút này : đầu tư ngoại quốc (foreign direc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổng quan về quỹ tiền tệ quốc tế IMF.doc
Tài liệu liên quan