Xây dựng xã hội học tập ở nước ta

Theo các chuyên gia giáo dục, XHHT bao gồm những thiết chế giáo dục khác nhau, nhưng có thể thấy cơ bản có hai hệ thống. 1) Hệ thống giáo dục ban đầu (trong nhà trường): bao gồm các loại hình trường học, cấp học, từ mầm non đến đại học, sau đại học (đào tạo tiến sĩ). Một đời người nếu học hết hệ thống này ước tính chừng mất 25 năm. 2) Hệ thống giáo dục thường xuyên (ngoài nhà trường), là hệ thống giáo dục kéo dài liên tục suốt đời, chủ yếu dành cho người lao động lớn tuổi hoặc tuổi trẻ có nhu cầu. Hạt nhân của hệ thống giáo dục thường xuyên là các trung tâm giáo dục cộng đồng (TTGDCÐ).

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1970 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng xã hội học tập ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ khác, từ Trung Quốc. Nhưng rồi giữa Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra những bất đồng. Tiếp theo đó là đại cách mạng văn hóa vô sản, tuy diễn ra và tác động tai hại trước hết và chủ yếu là ở Trung Quốc, nhưng không thể nói Việt Nam nằm ngoài vòng ảnh hưởng của biến cố này. Trong giới khoa học Việt Nam những năm 1967 - 1970 nhiều nạn nhân bị quy kết là chuyên môn thuần túy, thiên tài chủ nghĩa, mặc dù thế một số khá đông trong họ vẫn còn kịp có những cống hiến khoa học xuất sắc, kịp được nhận những giải thưởng khoa học cao quý như giải thưởng Hồ Chí Minh hay giải thưởng Nhà nước. Có thể nói cho đến nay, ở ta mới có những người trí thức lớn - không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được "lớn" lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào tri thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến "tầm" trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều kiện không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định. 2. Từ chuyện người có học đến chuyện kiến tạo một xã hội học tập Việc kiến tạo một xã hội học tập trong đó mọi thành viên đều được học tập lại là điệu tuyệt đối không dễ dàng. Bên cạnh đòi hỏi về một nguồn ngân sách Nhà nước khổng lồ, một nguồn tài chính từ trong nhân dân hừng hậu, còn cần tạo ra được một cương lĩnh, một chương trình giáo dục vừa phải ưu việt vừa phải mang tính khả thi. Một xã hội học tập lại cũng là một xã hội đòi hỏi một đội ngũ cực đông đảo những người giáo dục và quản lý giáo dục có chất lượng, dù yêu cầu tự học có tăng lên đến mức tối đa chăng nữa. Một hệ vấn đề tưởng như đã cũ nhưng do việc tìm lời giải đáp cho đến nay còn mơ hồ nên hóa ra lại thành hệ vấn đề thời sự đó là đáp án đúng cho những câu hỏi nền tảng: ai là người cần học, học cái gì, học ở đâu, học đến đâu, học để làm gì? Điều lạ lùng là, theo tôi, đối với tất cả các câu hỏi này, tìm từ trong lịch sử, đều chỉ thu về được những lời đáp đáng thất vọng trên thực tế. Trong những phẩm chất mà nhiều người muốn đề lên thành phẩm chất dân tộc, liên quan đến chuyện học hành, có đức tính hiếu học, và vì thế, truyền thống tôn sư trọng đạo. Thật đáng ngạc nhiên, người ta có thể gán một phẩm chất cho một chủ thể không có khả năng thực tế để thực hiện phẩm chất đó. Ít nhất, từ cách mạng tháng 8 trở về trước, căn cứ vào các con số điều tra và thống kê, tuy có sai khác, nhưng dao động trong khoảng từ 95% - 99% người Việt Nam mù chữ. Một cộng đồng với tuyệt đại đa số người không được học, không đi học, không biết chữ, làm sao xác định rằng cộng đồng đó hiếu học hay không? Tôi nêu lại vấn đề này không phải vì hiểu sự hay thích gây sự, mà nhằm tìm kiếm câu trả lời đúng cho câu hỏi đầu tiên đã nêu ở trên: ai cần học? Nhu cầu học tập là một loại nhu cầu thứ sinh, không phải là nhu cầu mang tính tự nhiên như những nhu cầu mà Marx đã đề cập ở con người trước khi nó xây dựng nên những cộng đồng xã hội như ăn, mặc, ở, đi lại, sinh con đẻ cái… Loại nhu cầu có tính tự giác, duy lý mang tính định hướng mục tiêu này chỉ được thỏa mãn thật sự khi mục tiêu thật sự rõ ràng. Như đã rõ, tuy nói rằng nhà nho từng tự đòi hỏi phải tinh thông "lục nghệ" (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số), và với những người được ca ngợi là thông minh cái thế, thì "trên thông thiên văn, dưới tường địa lý" nhưng nền giáo dục Nho giáo, căn cứ vào việc khảo sát các loại đề thi ở cấp cao nhất là Đình thí hay Điện thí, yêu cầu chủ yếu đối với người đỗ Tiến sĩ (kể cả đệ nhất giáp, tức đỗ đến Trạng nguyên, Bảng nhãn hay Thám hoa), cũng chỉ tập trung vào 2 nội dung chủ yếu: văn chương và đạo lý. Nho giáo khởi đầu là một học thuyết đạo đức và cốt lõi của nó cho đến cùng vẫn là những nội dung đạo đức, nên giáo dục mà nó triển khai trong hàng vài nghìn năm bi trói buộc chặt chẽ vào những yêu cầu hiểu và thực hành trước hết là những nội dung đạo đức. Quanh quẩn với những "tu, tề trị, bình", với những "hành, tàng, xuất, xử", cả hai nội dung lớn mà một nền giáo dục lành mạnh bất kỳ nào cũng phải hướng tới là tri thức và kỹ năng lại đã chỉ được nền giáo dục Nho giáo đáp ứng một cách cực tiểu, tối thiểu. Đói diện với chủ nghĩa thực dân, dù vững tin vào đạo lý, vào chính nghĩa của mình, nhà Nho đã phải nhanh chóng cay đắng thừa nhận “gươm nhân giáo nghĩa” không trụ nổi với “giáp bền gươm sắc", càng không thể đương đầu có hiệu quả với "tàu thiếc tàu đồng, ngư lôi đại bác". Sự tỉnh thức của chính các nhà nho Duy tân đầu thế kỷ XX là một tình huống thời sự kéo dài, cho đến nay lại càng thêm cấp bách. Những tri thức, kỹ năng toàn diện và ở trình độ cao, có được là nhờ nhũng nỗ lực cá nhân to lớn và những chi phí còn to lớn hơn, lại là điều quá xa xỉ trong một xa hội nông nghiệp sản xuất nhỏ. Không hình thành nổi nhu cầu học tập mạnh mẽ và đích thực một khi không/ hay chưa có chỗ ứng dụng những tri thức và kỹ năng học tập được ấy. Chưa bao giờ giáo dục ở ta được hạch toán như là đầu vào (imput) của một chu trình liên tục trong nền kinh tế quốc dân, như là một tham số hữu cơ của nền kinh tế mà chỉ mới được quan niệm như là một vấn đề thuộc phúc lợi xã hội. Những năm gần đây, khi vỡ lẽ ra (chẳng lẽ mãi mà không vỡ lẽ ra cái điều tối thiểu ấy?) rằng giáo dục là động lực để cải tạo nền kinh tế, các quyết sách về giáo dục văn chỉ mới chuyển động ở cầp vi mô: không ai giải thích với chúng ta, từ ông Bộ truởng Bộ Giáo dục, cho đến câc ông Hiệu trưởng các trường chuyên nghiệp, các Bộ chuyên ngành rằng tại sao năm nay, thời gian này, từng trường một lại cần và có thể tuyển số lượng sinh viên là như thế, mà không phải là những con số khác. Các giám đốc Sở giáo dục không thuyết trình rõtại sao tỉnh này cần đến ngần này loại trường, ngầnnày loại lớp... Cho đến nay, kể cả ở các truờng Đại học lớn, vốn được tiếng, hay nói theo ngôn ngữ hành chính là đảm nhiệm chức năng "máy cái", vẫn có lượng sinh viên tại chức đông hon chính quy, trong khi tỷ lệ mà báo chí nêu, có đến 70 - 80% sinh viên chính quy tốt nghiệp không có việc hay làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo. Vì vậy cùng với việc nâng cao chất lượng cãc trường Đại học, cần hình thành cho được hệ thống các trường dạy nghề đa dạng, phong phú, số lượng lớn, vừa kế thừa và phát huy được những thứ nghề truyền thống, vừa đón bắt nhu cầu của các loại ngành nghề mới của công nghiệp, dịch vụ hiện đại, khiến cho tuyệt đại đa số người lao động còn có khả năng lao động hay lớp trẻ khi nhìn vào tương lai có được sự bình thản khi nghĩ tới chỗ làm, nghĩ tới "đầu ra", phải chăng một sự tiên lượng về những việc phải làm trong quỹ đạo này, từ trưóc tới nay, vốn là bất khả và từ giờ trở đi, vẫn cứ là "chưa phải lúc"? Theo ý tôi, cái xã hội học tập mà ta mong muốn kiến tạo, cần trước hết tập trung vào đối tượng này. Nguồn:  Tạp chí Tia Ðể xã hội học tập thành hiện thực sinh động và hiệu quả. Khái niệm xã hội học tập (XHHT) đang ngày càng trở nên quen thuộc với những ai vốn quan tâm đến sự học. Nhưng XHHT trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế muốn phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả văn hóa - kinh tế, đang rất cần sự đầu tư thỏa đáng trên cơ sở sự nhận thức sâu sắc và thấu hiểu của các cấp ủy, chính quyền. Ðó là xây dựng XHHT trước hết là làm lợi ích cho địa phương mình. Ham học, hiếu học là một khí chất đẹp mang tính truyền thống của dân tộc ta. Tựa vào nền tảng và bản sắc ấy, nắm bắt bản chất và đặc điểm thời đại của CNH, HÐH đất nước (chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, vừa phải đưa một số lĩnh vực sản xuất đi vào kinh tế tri thức - công nghệ cao), ở góc độ dân trí và tạo nguồn nhân lực, Hội Khuyến  học Việt Nam  tâm đắc và kiên trì chủ trương xây dựng một XHHT. Cả nước hiện có 8.150 trung tâm học tập cộng đồng, 100% số tỉnh, thành hội (khuyến học) tổ chức TTHTCÐ, 50% số tỉnh, thành hội đã xây dựng được gần 100% số xã, phường có TTHTCÐ, trong đó gần 50% trung tâm hoạt động khá và tốt, 25% trung tâm hoạt động trung bình... Ðáng chú ý, hầu hết các địa phương có TTHTCÐ đang hoạt động còn nghèo. Ðầu tư ban đầu rất hạn chế. Cơ sở vật chất cho hoạt động các TTHTCÐ còn thiếu thốn, thiếu phương tiện quản lý, đồ dùng học tập và tài liệu học tập. Nguồn: Hội Khuyến học Việt Nam Mới đây, chủ trương đã trở thành một đề tài nghiên cứu cấp nhà nước. Khái niệm XHHT ra đời, hấp dẫn các tầng lớp nhân dân lao động bởi bản chất sinh động và mới mẻ của nó: một xã hội mà nền giáo dục trong đó luôn tạo ra mọi cơ hội, mọi điều kiện để bất cứ người nào, không phân biệt tuổi tác, vị trí, nghề nghiệp đều có thể học tập trong những thời gian khác nhau, không gian khác nhau, học liên tục, học suốt đời. Vậy, cấu trúc của XHHT là như thế nào? Theo các chuyên gia giáo dục, XHHT bao gồm những thiết chế giáo dục khác nhau, nhưng có thể thấy cơ bản có hai hệ thống. 1) Hệ thống giáo dục ban đầu (trong nhà trường): bao gồm các loại hình trường học, cấp học, từ mầm non đến đại học, sau đại học (đào tạo tiến sĩ). Một đời người nếu học hết hệ thống này ước tính chừng mất 25 năm. 2) Hệ thống giáo dục thường xuyên (ngoài nhà trường), là hệ thống giáo dục kéo dài liên tục suốt đời, chủ yếu dành cho người lao động lớn tuổi hoặc tuổi trẻ có nhu cầu. Hạt nhân của hệ thống giáo dục thường xuyên là các trung tâm giáo dục cộng đồng (TTGDCÐ). Nếu như hệ thống giáo dục ban đầu, với đối tượng thanh niên, thiếu niên là chủ yếu, mới chỉ giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ tích lũy kiến thức, thì hệ thống giáo dục thường xuyên, với đối tượng người đang tuổi lao động là chủ yếu, lại cực kỳ quan trọng vì đây là lứa tuổi trực tiếp tạo ra sản phẩm, năng suất lao động cho xã hội. Nhưng sự bất cập trong chính sách đầu tư giáo dục hiện nay là chỉ có gần 25 triệu học sinh, sinh viên theo học hệ thống giáo dục trong nhà trường (chính quy) được đầu tư, còn hệ thống giáo dục ngoài nhà trường (giáo dục thường xuyên) không có bất cứ một chế độ, chính sách nào. Mặt khác, cũng phải sòng phẳng mà nói rằng, mặc dù phát triển với số lượng lớn nhưng các TTGDCÐ hiện còn rất nhiều điều phải bàn. Thứ nhất, đa phần các TTGDCÐ mới chỉ nảy nở và "khôn lớn" ở vùng nông thôn các xã gắn với ruộng đồng, người lao động chủ yếu là nông dân được thụ hưởng. Còn ở vùng đô thị, thành phố, các TTGDCÐ rất khó sinh sôi, định hình bởi nhu cầu học tập của người lao động ở đô thị, thành phố, dường như mang tính đặc thù mà các TTGDCÐ chưa tìm ra lối đi. Thứ hai, phổ biến các TTGDCÐ tồn tại và phát triển được là nhờ vào cơ chế xin - cho, thậm chí có nhiều nơi gọi đùa là nhờ vào lòng "từ thiện" của các cấp ủy, chính quyền, trong khi có nhiều TTGDCÐ hoạt động khá tốt, nội dung giáo dục của các trung tâm gắn chặt chẽ với việc tăng năng suất lao động, đổi  mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi... Ðể giáo dục có thể cống hiến cho sự phát triển kinh tế - xã hội khi tri thức đã trở thành yếu tố quyết định hàng đầu trong cạnh tranh, các quốc gia đều cần đến một hệ thống giáo dục mềm dẻo, đáp ứng được mọi yêu cầu học tập của từng con người, của từng cộng đồng, tạo ra được ngày càng nhiều cơ hội học tập cho con người trong mọi thời gian và không gian khác nhau. Người ta đã mở rộng nhiều khái niệm trên cơ sở đó, định ra những chiến lược giáo dục và đào tạo. GS TS  PHẠM TẤT DONG (Hội Khuyến học Việt Nam)   Thứ ba, cơ chế quản lý của TTGDCÐ hiện không rõ ràng, chương trình học của các TTGDCÐ không thống nhất. Có trung tâm học về vật nuôi, cây trồng, nhưng có trung tâm lại chỉ học tập, sinh hoạt chính trị, tìm hiểu các chủ trương, đường lối, chính sách. Thứ tư, đội ngũ giảng viên các TTGDCÐ không ổn định, các TTGDCÐ lại không thể khai thác hoặc tận dụng chất xám của đội ngũ này (kỹ sư, cán bộ khuyến nông, khuyến ngư...) vì không có bất cứ chế độ kinh phí, tài chính nào thù lao cho họ. Thứ năm, sự phát triển của các doanh nghiệp, các khu chế xuất nhập công nghệ  mới đòi hỏi đội ngũ công nhân ở đây phải được đào tạo lại, hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ, tay nghề. Vậy vấn đề học tập của đội ngũ này được đặt ra như thế nào?. Thứ sáu, xã hội ta có đội ngũ cán bộ về hưu, người già, người cao tuổi ngày càng đông, việc tổ chức và tập hợp khuyến học của họ gắn với đặc điểm lứa tuổi, môi trường sinh hoạt của họ làm sao để họ thấy mình vẫn hữu ích, không trở thành gánh nặng cho xã hội, gia đình, con cháu? Cũng theo các chuyên gia giáo dục, XHHT không chỉ là xã hội học chữ, mà sâu xa hơn, XHHT làm tăng ba loại vốn. Ðó là vốn con người (Nghĩa hẹp: mỗi con người nhờ có giáo dục mà có kiến thức kỹ năng nghề nghiệp, có thu nhập tiền lương và địa vị xã hội. Nghĩa rộng: nền kinh tế mỗi nước tồn tại và phát triển nhờ vốn vật chất như tài nguyên, đất đai, song chủ yếu nhờ vốn con người, kết quả tổng hợp của giáo dục tạo ra trình độ lành nghề của đội ngũ lao động). Ðó là vốn xã hội (mức độ đoàn kết xã hội, tinh thần sẵn sàng hành động vì những điều tốt đẹp, phản ánh niềm tin xã hội, các quy tắc hợp tác và quan hệ giữa các cá nhân. Vốn xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp trong quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự). Ðó là vốn tổ chức (mọi người trong tổ chức làm việc theo luật và quy chế, đối xử nhân ái, gắn bó với  nhau theo tinh thần đồng đội). Ðất nước ta đang là đất nước phát triển, tổng thu nhập kinh tế quốc dân và mức sống bình quân chưa cao, nền tảng dân trí còn thấp. Giáo dục phi chính quy - học tập suốt đời là phương thức chủ yếu mang tính then chốt của chiến lược phát triển giáo dục ở  nước ta trong thế kỷ 21. Xây dựng và phát triển hệ thống này không cần phải có một mô hình riêng biệt, vì nó vô cùng linh hoạt và mềm dẻo, nó không cần trường lớp chính quy theo nghĩa truyền thống. Nó là một hệ thống mang tính tổng hợp bao gồm tất cả các phương thức để học tập suốt đời kể cả chính quy và không chính quy. Với đặc thù như vậy, nền giáo dục phi chính quy - học tập suốt đời được coi là một nhu cầu có tính cấp thiết trong một thị trường lao động đầy biến động trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó phù hợp sự phát triển và tiến bộ nhanh chóng của khoa học, công nghệ, của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HÐH và của cả truyền thống văn hóa lâu dài, lòng hiếu học của dân tộc ta. GS, TSKH VŨ NGỌC HẢI (Viện Nghiên cứu phát triển Giáo dục) Ðể XHHT thật sự từ lượng biến thành chất, từ phong trào mang tính bề nổi trở thành thiết chế giáo dục có chiều sâu, thành hiện thực sinh động và có  hiệu quả, đem lại lợi ích văn hóa - kinh tế cho đất nước, nhưng trước hết cho mỗi cá nhân, gia đình, dòng họ,  thì mô hình này bên cạnh sức sống nội tại, tự thân của nó còn rất trẻ trung, non nớt, rất cần sự trợ lực. Trước hết là sự trợ lực của hệ thống giáo dục chính quy, ban đầu (trong nhà trường). Công cuộc đổi mới giáo dục phổ thông, giáo dục đại học cần được đẩy mạnh, đổi mới triệt để, tạo ra sự chuyển biến về chất lượng giáo dục và đào tạo, có thế mới không làm nảy sinh những hệ lụy khiến hệ thống giáo dục thường xuyên (ngoài nhà trường) vốn đang còn yếu ớt phải gánh đỡ. Quan trọng nữa, Nhà nước có chính sách đầu tư thống nhất, nhất quán tạo điều kiện các TTGDCÐ hoạt động, bởi cách đầu tư cho các TTGDCÐ hiện ở trạng thái "trăm hoa đua nở". Có tỉnh đầu tư một triệu đồng/trung tâm. Có tỉnh không đầu tư một đồng nào (!). Các TTGDCÐ phải tự xoay sở, tùy tâm huyết, nhiệt tình mà tồn tại và phát triển. Sự đầu tư còn thể hiện có chính sách, chế độ cụ thể cho giảng viên, cán bộ điều hành các TTGDCÐ. Các TTGDCÐ cần được trang bị những thiết bị tối thiểu, hoặc cơ bản để người học được cập nhật thông tin gắn với xóa đói, giảm nghèo, với chuyển dịch cơ cấu cây trồng, với sinh nở có kế hoạch, xây dựng gia đình văn hóa, làng xóm và xã hội văn minh... Ðặc biệt, cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương phải có sự nhận thức đúng và thấu hiểu về bản chất XHHT đem lại lợi ích trước hết cho địa phương mình, thông qua các hình thức dạy nghề, các TTGDCÐ... mà phát triển ba loại vốn nói trên: vốn con người, vốn xã hội, vốn tổ chức. Ðó cũng là thấu hiểu sự đòi hỏi của thời đại về XHHT với khái niệm  hiện đại "xóa nghèo trước hết là xóa nghèo tri thức", góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội - văn hóa của địa phương mình và cả đất nước đi nhanh hơn trong thời hội nhập. KIM DUNG Theo Nhân dân - TTTT&CTGGD Theo www.hcm.edu.vn Người gửi : NTH 20/04/2007 10:21:16 Xây dựng xã hội học tập và phát triển trung tâm học tập cộng đồng (VOV) - Hiện cả nước có hơn 9.000 trung tâm giáo dục cộng đồng; phong trào khuyến học, khuyến tài phát triển rộng khắp tới tất cả các tỉnh, thành, thôn, bản. Sáng 27/10 tại Hà Nội, Bộ Giáo dục-Đào tạo phối hợp với Hội Khuyến học Việt Nam tổ chức hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện đề án “Xây dựng xã hội học tập và phát triển trung tâm học tập cộng đồng”. Đến dự hội nghị có Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo dục-Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân và gần 200 đại biểu là cán bộ ngành Giáo dục. Sau 3 năm thực hiện đề án, phong trào Khuyến học, khuyến tài của Hội Khuyến học Việt Nam đã phát triển nhanh chóng với tốc độ kỷ lục: 100% các tỉnh, thành đều có Hội Khuyến học, Quỹ Khuyến học; hơn 9.000 trung tâm giáo dục cộng đồng với trên 6 triệu hội viên sinh hoạt trong hơn 250.000 chi hội. Cả nước có hơn 3 triệu gia đình được công nhận là “Gia đình hiếu học” và đã có hơn 50.000 dòng họ được công nhận là “Dòng họ khuyến học”. Hàng năm, Quỹ Khuyến học ở các cấp và địa phương dành từ 250-300 tỷ đồng vào các hoạt động hỗ trợ học sinh, sinh viên giỏi vượt khó, trợ giúp nhiều thầy, cô giáo gặp hoàn cảnh khó khăn… Từ năm 2005-2008, cả nước đã huy động được trên 163.000 người ra lớp học xoá mù chữ và trên 123.000 người tiếp tục theo học các lớp giáo dục sau khi biết chữ. Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân biểu dương những kết quả đạt được của ngành Giáo dục-Đào tạo nói chung và Hội Khuyến học các địa phương khi triển khai đề án. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh: Đề án “Xây dựng xã hội học tập và phát triển trung tâm học tập cộng đồng” đã góp phần kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân tham gia học tập, khắc phục tình trạng học sinh bỏ học, nâng cao dân trí của người dân. Theo Phó Thủ tướng, để đề án có hiệu quả, Bộ Giáo dục-Đào tạo và Hội Khuyến học Việt Nam cần tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các địa phương phát triển phong trào Khuyến học khuyến tài; Gia đình hiếu học, dòng họ khuyến học. Đặc biệt, ưu tiên chú trọng tới phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa khó khăn, biên giới hải đảo để tất cả người dân đều có quyền được đi học. Tại hội nghị, bà Vibeke Jesen, Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO Hà Nội đánh giá cao những kết quả đạt được của ngành Giáo dục Việt Nam khi thực hiện đề án “Xây dựng xã hội học tập và phát triển trung tâm học tập cộng đồng”. Bà Vibeke Jesen cho rằng, trên cơ sở những thành quả đạt được, Việt Nam cần tiếp tục phát triển mạng lưới trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục cộng đồng và các cơ sở học tập, bồi dưỡng thường xuyên cho người dân và trẻ em bị khuyết tật, tàn tật và những người có hoàn cảnh khó khăn. Có như vậy, việc xây dựng phong trào “Cả nước trở thành một xã hội học tập” của Việt Nam mới thực sự thiết thực và có hiệu quả. Ông Trần Xuân Nhĩ, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho biết: Từ nay đến năm 2010, Bộ Giáo dục-Đào tạo và Hội Khuyến học sẽ cùng với các địa phương tiếp tục triển khai đề án với các hoạt động: Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý giáo dục; Ưu tiên dành ngân sách cho việc xây dựng trường lớp, cơ sở vật chất tại những vùng khó khăn, vùng có đông dân tộc thiểu số; Mở rộng các hình thức học tập tới người dân không có điều kiện trực tiếp đến trường học…/. Chu Miên Động lực xây dựng xã hội học tập 1 2 3 4 5 (4 phiếu) 12/01/2008 (HNM) - Để triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 11 -CT/TƯ ngày 13-4-2007 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”, Thành ủy Hà Nội đã xây dựng Chương trình hành động số 26-CTr/TU ngày 20-12-2007 và Ban Tuyên giáo Thành ủy đã tổ chức hội nghị triển khai tới lãnh đạo các ban đảng, các sở, ngành, đoàn thể, các quận, huyện và cán bộ làm công tác khuyến học... vào ngày 28-12. Con cháu họ Hoàng ở xã Cổ Nhuế (huyện Từ Liêm) tìm hiểu truyền thống hiếu học của dòng họ.  Ảnh: Bích Ngọc Kế hoạch hoạt động của Hội khuyến học Hà Nội nhằm triển khai Chỉ thị và Chương trình này cũng đã xác định mục tiêu: phát huy mọi nguồn lực, từng bước chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở, nâng cao dân trí, phát triển  nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Theo đánh giá của đồng chí Phan Đăng Long- Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy, công tác khuyến học, khuyến tài luôn được các cấp ủy đảng, chính quyền đặc biệt quan tâm, đặc biệt từ sau khi có Chỉ thị 50-CT/TƯ (năm 1999) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Sau 8 năm, công tác khuyến học cả nước nói chung, Thủ đô nói riêng đã đạt được nhiều kết quả, góp phần vào những thành tựu lớn của sự nghiệp GD-ĐT. Mặc dù vậy, hoạt động này vẫn cần được phát triển rộng, sâu, thiết thực hơn nữa, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong điều kiện hiện nay, công tác khuyến học sẽ phải gắn liền với việc xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, tạo cơ hội cho mọi người dân được học tập thường xuyên, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Chính vì vậy, Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị 11-CT/TƯ yêu cầu các cấp ủy đảng tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, với 4 nội dung cơ bản. Đây là một cơ sở quan trọng để các địa phương đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài nhằm huy động nguồn lực, sự quan tâm, sự đầu tư cũng như trách nhiệm của toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục. Để triển khai có hiệu quả Chỉ thị của Bộ Chính trị, biến đường lối, chủ trương của Đảng thành những mục tiêu, giải pháp cụ thể, Thành ủy đã ban hành Chương trình hành động. Mục tiêu chung được đặt ra là làm cho các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân Thủ đô nâng cao nhận thức và trách nhiệm thực hiện Chỉ thị 11. Từ đó, các cấp ủy đảng chỉ đạo xây dựng kế hoạch thực hiện nhằm phát huy nguồn lực xã hội để phát triển sự nghiệp giáo dục, từng bước chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở-mô hình xã hội học tập theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng; nâng cao vị thế của ngành GD-ĐT Thủ đô, đi đầu cả nước trong thực hiện 3 nhiệm vụ chiến lược: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài; phấn đấu xây dựng Hà Nội thực sự là trung tâm giáo dục, đào tạo có uy tín và chất lượng tiêu biểu của cả nước. 5 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cũng đã được Chương trình vạch ra đồng thời phân công trách nhiệm rất cụ thể để thực hiện cho được những mục tiêu đã đề ra. Hội Khuyến học Hà Nội - đơn vị được giao nhiệm vụ trực tiếp triển khai công tác này đã xây dựng kế hoạch,  xác định 3  nhiệm vụ chủ yếu: tuyên truyền, mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào phù hợp tình hình mới, đáp ứng yêu cầu làm nòng cốt cho việc liên kết các lực lượng xã hội. Theo ông Vũ Mạnh Kha - Chủ tịch Hội Khuyến học Hà Nội, sự quan tâm thiết thực của các cấp đã một lần nữa được thể hiện cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi về chế độ, chính sách, tổ chức bộ máy, kinh phí hoạt động cho hội khuyến học các cấp. Cùng với những mục tiêu, nhiệm vụ đã được vạch rõ, đây sẽ là động lực để những người làm công tác khuyến học nỗ lực hơn nữa, góp phần phấn đấu xây dựng Thủ đô thực sự trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo có uy tín và chất lượng tiêu biểu của cả nước. Minh Đức Một số chỉ tiêu chủ yếu trong Chương trình hành động - Duy trì, giữ vững kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục. - Trên 90% cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ văn hóa bậc THPT hoặc tương đương. - 100% cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước  được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị… phù hợp với yêu cầu công tác. - Trên 95% người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng, dịch vụ được tiếp cận và thụ hưởng các chương trình bồi dưỡng, nâng cao hiểu biết, khả năng lao động sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống. - Chỉ đạo để các trung tâm học tập cộng đồng hoạt động đều, có chất lượng. Nâng cấp từ 2 đến 4 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp quận, huyện lên thành phố. - Bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác khuyến học cho 100% cán bộ hội từ thành phố tới phường, xã, thị trấn. Nguồn: hanoimoi.com.vn 3 năm xây dựng xã hội học tập: Bộ GD-ĐT “đơn thương độc mã” 29/10/2008 07:13 Giờ học của học sinh tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên quận Ba Đình. Ảnh: Dương Ngọc (HNM) - Đề án “Xây dựng xã hội học tập” (XHHT) được ban hành theo Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg giai đoạn 2005-2010 đã đi được hơn nửa chặng đường, đã góp phần nâng cao dân trí, phát triển đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Tuy nhiên, theo phản ánh từ các địa phương tại hội nghị sơ kết về vấn đề này do Bộ GD-ĐT vừa tổ chức ở Hà Nội, thì sau 3 năm triển khai việc xây dựng XHHT dường như vẫn chỉ là phong trào… 3 năm mới xây dựng được một quy chế Về việc chỉ đạo thực hiện Đề án xây dựng XHHT, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân khẳng định: Các văn bản, Chỉ thị về xây dựng XHHT của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxa_hoi_hoc_tap_8431.doc
Tài liệu liên quan