CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
I.GIỚI THIỆU TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO.
1.Lịch sử hình thành.
2.Nguyên tắc hoạt động của Tổ chức thương mại thế giới.
2.1. Nguyên tắc thứ nhất: Không phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế.
2.2.Nguyên tắc thứ hai: Thương mại ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán.
2.3.Nguyên tắc thứ ba: Nguyên tắc dễ dự đoán.
2.4.Nguyên tắc thứ tư: Nguyên tắc tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng.
2.5.Nguyên tắc thứ năm: Nguyên tắc dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi.
3. Cơ cấu tổ chức của Tổ chức thương mại thế giới.
4.Các nước thành viên.
II.ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.Giới thiệu chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
2.Phân biệt giữa ODA và FDI.
3.Lợi ích đối với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI từ việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO.
III.KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC SAU KHI GIA NHẬP WTO.
1.Những quyền lợi chủ yếu mà Trung Quốc được hưởng sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO.
2.Đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.1.Mức độ thu hút đầu tư nước ngoài gia tăng mạnh mẽ.
2.2.Các xí nghiệp đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao.
2.3.Nguồn vốn vay của nước ngoài được đảm bảo ổn định.
3.ảnh hưởng của Trung Quốc đến Việt Nam . Rút ra bài học kinh nghiệm.
3.1. Về thể chế.
3.2. Về điều chỉnh cơ cấu ngành nghề.
CHƯƠNG II. ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI TỚI VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I.ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ FDI TRONG GIAI ĐOẠN VỪA QUA.
1. Tình hình chung
2. Thực trạng FDI theo ngành.
3.Thực trạng thu hút FDI theo vùng lãnh thổ.
4.Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư
5.Tác động của FDI tới tăng trưởng GDP.
5.1.Xuất khẩu
5.2.Việc làm - thu nhập.
5.3.Đầu tư trực tiếp nước với hoạt động chuyển giao công nghệ.
6.Kết quả thực hiện.
II.TÌNH HÌNH CHUẨN BỊ GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM.
1. Tiến trình đàm phán.
2. Những kết quả đạt được.
III.ẢNH HƯỞNG SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.Những cơ hội sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.
2.Những thách thức trong giai đoạn hiện nay sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam.
3.Hướng nguồn đầu tư FDI vào một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu.
3.1. Lĩnh vực dầu khí
3.2. Lĩnh vực công nghiệp điện tử
3.3. Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy
3.4. Lĩnh vực viễn thông
3.5. Lĩnh vực công nghiệp hóa chấ
3.6. Hoạt động kinh doanh khách sạn và du lịch
72 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập wto đối với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
Bảng 10: Tỷ trọng khu vực FDI trong GTSX công nghiệp (%)
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tỷ trọng
26.2
26,4
26,2
25,1
26,7
28,9
32
34,7
35,5
Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có vị trí hàng đầu, với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Tiêu biểu mức tỷ trọng ở một số năm như sau: 77,8% (năm 1995); 78% (năm 1996); 77,7% ( năm 1997) và 81,4% (năm 1998). Đặc biệt, giá trị sản xuất của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra, với các mức cụ thể như sau: 99,7% năm 1995; 99,7% năm 1996; 99,8% năm 1997 và 99,8% năm 1998.
Trong công nghiệp chế biến, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng, từ 18,1% (năm 1995); 20,1% (năm 1996); 22,9% (năm 1997) lên 25,3% (năm 1998). Trong đó, ở một số ngành quan trọng, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp FDI như sau: 71% trong ngành sản xuất và sửa chữa xe có động cơ (trong đó 100% trong sản xuất và lắp ráp xe máy, ô tô); 44,3% trong ngành sản xuất sản phẩm bằng da và giả da; 100% trong ngành sản xuất tụ điện, máy in, máy giặt, tủ lạnh, điều hòa không khí, đầu video, sản xuất sợi PE, PES; 67,6% trong ngành sản xuất radio, tivi, thiết bị truyền thông; 31% trong ngành sản xuất kim loại; 22,2% trong sản xuất thiết bị điện, điện tử; 20,1% trong ngành sản xuất hóa chất; 19,1% trong ngành may mặc và 18,6% trong ngành dệt. Các số liệu trên chứng tỏ khu vực FDI có vai trò thực sự quan trọng trong ngành công nghiệp của nước ta và đang nắm giữ hầu hết các ngành ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
Đối với ngành nông nghiệp
Tính đến nay, còn 298 dự án ĐTTTNN đang hoạt động trong lĩnh vực nông lâm nghiệp với tổng số vốn đăng ký gần 2 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao năng lực sản xuất cho ngành nông nghiệp, chuyển giao cho lĩnh vực này nhiều giống cây, giống con, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản hàng hóa. Vốn FDI còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu cầu của nền kinh tế CNH-HĐH. Nếu như trước đây đầu tư nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biến gỗ, lâm sản.. thì những năm gần đây nhiều dự án đã đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, mía đường, trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy, chăn nuôi...
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần rất lớn vào những thành tựu về tăng trưởng kinh tế mà chúng ta đạt được trong thời gian qua và đang khẳng định vai trò quan trọng của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước các giai đoạn tiếp theo.
5.1.Xuất khẩu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới, nó là một trong những phương thức đưa hàng hóa sản xuất tại Việt Nam thâm nhập thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất. Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thực hiện dự án đầu tư đã trở thành “cầu nối”, là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế cũng như những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ mạnh của thế giới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Việt Nam mở rộng hơn thị phần ở nước ngoài. Đối với những hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI, vô hình chung đã biến các bạn hàng truyền thống của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thành bạn hàng của Việt Nam. Sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được mở rộng. Từ các thị trường truyền thống thuộc khối các nước xã hội chủ nghĩa trước đây mà chủ yếu là các nước Đông Âu, thị trường xuất khẩu đã mở rộng sang các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và các nước Nics. Với sự giúp đỡ thông qua uy tín và hệ thống marketing sẵn có của các nhà đầu tư nước ngoài, các hàng hóa xuất khẩu của chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường thế giới một cách dễ dàng hơn.
Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu của nước ta liên tục có sự tăng trưởng với tốc độ khá cao. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu tăng 24% so với năm 1999. Tỷ trọng xuất khẩu/ GDP giai đoạn 1991-1999 cho thấy xu thế mở cửa của nền kinh tế Việt Nam ngày càng gia tăng. Đến năm 1999, tỷ trọng xuất khẩu so với GDP đạt mức 40,7%.
Bảng 11: Tình hình xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Xuất khẩu
(triệu USD)
2581
2985
4054
5449
7256
9145
9361
11540
14308
Xuất khẩu so GDP (%)
26,1
23,3
26,1
26,3
29,5
35
34,3
40.7
_
Tốc độ tăng trưởng (%)
23,7
15,7
35,8
34,4
33,2
26,6
1,9
23,3
24
Nguồn : Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển KT-XH
Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 - Viện chiến lược phát triển
Nhờ có những lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của các doanh nghiệp có vốn FDI cao hơn tốc độ tăng KNXK của cả nước và cao hơn hẳn KNXK của các doanh nghiệp trong nước. Năm 1996, KNXK của các doanh nghiệp FDI tăng 78,6% so với năm trước, thì KNXK của cả nước tăng 33,2%, còn KNXK của các doanh nghiệp trong nước chỉ tăng 29,5%. Số liệu tương ứng của năm 1997 là: 127,7%; 26,6% và 14%; của năm 1998 là: 10,7%; 2,4% và 1,8%; năm 1999 là: 30,2%; 23% và 21,1%. Về số tuyệt đối, KNXK của các doanh nghiệp FDI đã tăng một cách đáng kể qua các năm. Nếu năm 1991 đạt 52 triệu USD, năm 1995 đạt 445 triệu USD, năm 1997 đạt 1790 triệu USD thì năm 1999 đạt 2590 triệu USD và năm 2000 đạt tới 3320 triệu USD. Như vậy, KNXK của các doanh nghiệp loại này đạt được trong năm 2000 gấp 7,4 lần của năm 1995 và gần bằng 64 lần của năm 1991.
Bảng 12: Dưới đây là số liệu về tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI :
Năm
92
93
94
95
96
97
98
99
Tóc độ tăng(%)
115
129
37
25
79
128
11
30
Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT
Về số tương đối, tỷ trọng KNXK của các doanh nghiệp có vốn FDI trong tổng KNXK của cả nước đang có xu hướng tăng lên. Năm 1992 chiếm 4,3%, năm 1996 chiếm 12,7% và đến năm 2000 đã chiếm 23,2% tổng KNXK của cả nước.
Bảng 13: Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Xuất khẩu
(triệu USD)
112
269
352
445
920
1790
1982
2590
3320
So với cả nước (%)
4,3
9
8,7
8,1
12,7
19,6
21,2
22,4
23,2
Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT
Theo số liệu của Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài thuộc Bộ KH-ĐT, trong số hơn 6 tỷ USD giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI thu được trong vòng 10 năm trở lại đây, không kể phần xuất khẩu dầu thô của liên doanh VietsoPetro và xuất khẩu dịch vụ, thì giá trị xuất khẩu của các nhà đầu tư công nghiệp nhẹ là lớn nhất (3 tỷ USD), tiếp đến là các nhà đầu tư công nghiệp nặng (gần 2,3 tỷ USD), sau đó đến công nghiệp thực phẩm (405 triệu USD), nông lâm nghiệp (325 triệu USD), dầu khí (101 triệu USD) và thủy sản (67 triệu USD). Ưu điểm hơn hẳn của hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp ĐTNN so với hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước ở chỗ chúng chủ yếu là hàng công nghiệp chế biến và chế tạo, trong đó có nhiều sản phẩm thuộc công nghệ cao như bản mạch in điện tử, máy thu hình, video...
Như vậy, các doanh nghiệp ĐTTTNN đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và xuất khẩu hàng hóa ở nước ta. Kết quả đáng khích lệ đó một phần do nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, một phần do chính sách Nhà nước ngày một thông thoáng nhằm khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp FDI tham gia sản xuất và xuất khẩu. Khoảng gần 2/3 số dự án mới cấp phép trong hơn một năm nay là đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và đều gắn với mục tiêu xuất khẩu ít nhất từ 50% sản phẩm trở lên. Điều đó báo hiệu khả năng gia tăng xuất khẩu của nước ta nói chung, của khu vực doanh nghiệp FDI nói riêng trong những năm tới.
Tuy nhiên phải thấy rằng nếu không kể xuất khẩu dầu khí thì tỷ trọng xuất khẩu qua các dự án FDI so với tổng kim ngạch xuất khẩu còn khá bé, chứng tỏ các nhà đầu tư vẫn tập trung vào các ngành sản xuất hàng thay thế nhập khẩu nhiều hơn là hướng về xuất khẩu. Chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, chú trọng phát triển năng lực xuất khẩu của nền kinh tế để đưa nước ta ngày càng hòa nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
5.2.Việc làm - thu nhập.
Hoạt động của các dự án ĐTTTNN đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam.
Tính đến ngày 31-12-2000, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra cho Việt Nam khoảng 349.000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp (bao gồm công nhân xây dựng và các ngành sản xuất, dịch vụ phụ trợ có liên quan) - theo tính toán của Ngân hàng thế giới. Như vậy, số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Ngành công nghiệp nhẹ là ngành tạo ra nhiều việc làm nhất, với hơn 15 vạn chỗ làm việc, chiếm gần 50% số lao động trong khối FDI. Đây là một kết quả nổi bật của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bảng 14: Giải quyết việc làm khu vực FDI (1000 người)
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Số việc làm
220
250
270
296
349
Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT
Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 70 USD/ tháng (tương đương khoảng 980.000 đồng), bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam, do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỷ luật lao động nghiêm khắc...đúng với yêu cầu của lao động làm việc trong nền sản xuất hiện đại. Trong một số lĩnh vực còn yêu cầu đối với lực lượng lao động phải có trình độ cao về tay nghề, học vấn và ngoại ngữ. Các nhân viên trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tiếp thu được công nghệ quản lý hiện đại, nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ, có điều kiện cập nhật các kiến thức, phương tiện, công cụ mới trong quản lý kinh tế, có điều kiện làm quen và tự rèn luyện tác phong công nghiệp, sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị hiện đại.
Sự hấp dẫn về thu nhập cùng với đòi hỏi cao về trình độ là những yếu tố tạo nên cơ chế buộc người lao động Việt Nam có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ và tay nghề để có thể đủ điều kiện được tuyển chọn vào làm việc tại các doanh nghiệp loại này. Theo đánh giá của một số chuyên gia về lao động cho thấy, đến nay, ngoại trừ một số ít lao động bỏ việc do mâu thuẫn với giới chủ, một số khác bị thải loại do không đáp ứng được yêu cầu (chủ yếu do tay nghề yếu), số công nhân hiện còn làm việc tại các doanh nghiệp FDI đều được bồi dưỡng trưởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được yêu cầu đối với người lao động trong nền sản xuất tiên tiến.
Sự phản ứng dây chuyền tự nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước trên thị trường lao động là nhân tố thúc đẩy lực lượng lao động trẻ tự đào tạo một cách tích cực và có hiệu quả hơn, cũng như góp phần hình thành cho lao động Việt Nam nói chung một tâm lý tuân thủ nề nếp làm việc theo tác phong công nghiệp hiện đại có kỷ luật.
Về đội ngũ các cán bộ quản lý, kinh doanh: trước khi bước vào cơ chế thị trường, chúng ta chưa có nhiều nhà doanh nghiệp giỏi có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh. Khi các dự án đầu tư nước ngoài bắt đầu hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi, đồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức, kinh doanh hiện đại nhằm thực hiện dự án có hiệu quả. Đây chính là điều kiện tốt một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý; mặt khác, để liên doanh có thể hoạt động tốt, nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, công nghệ đang sử dụng trong các dự án. Như vậy dù không muốn thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam. Đến nay, chúng ta có khoảng 6.000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn FDI. Họ chủ yếu là nước kỹ sư trẻ, có trình độ có thể cùng các chuyên gia nước ngoài quản lý doanh nghiệp, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và đủ khả năng để tiếp thu nhanh những công nghệ hiện đại thậm chí cả bí quyết kỹ thuật.
Như vậy, thông qua việc thu hút và tạo ra thu nhập ổn định cho một lượng lớn lao động xã hội, ĐTTTNN đã góp phần đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam, chuyển đổi cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ cả về số lượng, tỷ trọng lẫn chất lượng, góp phần giảm các tệ nạn xã hội cũng như giảm các tội phạm về kinh tế, tăng sự ổn định chính trị - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương.
5.3.Đầu tư trực tiếp nước với hoạt động chuyển giao công nghệ.
Khi đầu tư vào Việt Nam, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước ta vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý...(còn gọi là công nghệ mềm). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên Việt Nam và bên chủ đầu tư.
Về vấn đề những công nghệ đang được sử dụng ở các doanh nghiệp FDI thuộc ngành công nghiệp nói riêng và trên toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng qua đánh giá thực tế của một số cơ quan chuyên môn và phân tích theo logic ta thấy rằng:
- Các nhà đầu tư nước ngoài bao giờ cũng đặt lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn làm mục tiêu hàng đầu. Những thiết bị công nghệ mà họ đưa vào sử dụng tại các dự án đầu tư ở ta tuy có thể đã đến lúc cần thay thế ở nước họ, nhưng vì đi cùng với những thiết bị, công nghệ này thường là một số lượng nhất định tiền vốn phải bỏ ra, xuất phát từ sự gắn liền với lợi ích của mình như vậy nên khi chuyển thiết bị, công nghệ vào nước ta, bên nước ngoài cũng cân nhắc tính toán kỹ. chúng ta tin rằng họ chỉ chuyển vào những thiết bị công nghệ mà họ thấy còn phù hợp với trình độ và phát huy được hiệu quả tại Việt Nam, để chí ít họ cũng còn khả năng thu hồi được vốn và có lãi (tất nhiên ta không loại trừ những trường hợp cá biệt, ngoại lệ).
- Thực tế, những thiết bị, công nghệ của nước ngoài chuyển vào thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam lâu nay chưa phải là những loại thuộc thế hệ hiện đại nhất của thế giới nhưng phần lớn là hiện đại hơn rất nhiều những thiết bị có trước đây tại Việt Nam.
Kết quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI thời gian qua đã góp phần nâng cao một cách rõ rệt trình độ công nghệ của sản xuất trong nước so với thời kỳ trước. Nhiều công nghệ mới đã được thực hiện và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất trong các xí nghiệp FDI. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến, tiếp cận với trình độ hiện đại của thế giới như ngành bưu chính viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí...Hầu hết các trang thiết bị được đưa vào các xí nghiệp FDI tương đối đồng bộ và là các thiết bị có trình độ cơ khí hóa trung bình, cao hơn các trang thiết bị cùng loại đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Phần lớn các thiết bị được trang bị các bộ gá chuyên dùng kèm theo các phương tiện nâng-hạ-vận chuyển phục vụ cho dây chuyền sản xuất chuyên môn hóa. Một số dây chuyền được trang bị các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hóa cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài điện thoại kỹ thuật số, lắp ráp các mặt hàng điện tử. Một số ít có các thiết bị tự động hóa hoàn toàn, sản phẩm thiết kế và sản xuất được điều khiển bằng kỹ thuật vi tính.
Hoạt động chuyển giao công nghệ trong đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt và hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Đồng thời hạn chế đến mức tối đa các loại hàng trước đây ta phải nhập khẩu với khối lượng lớn như bia, sắt thép xây dựng, sứ vệ sinh, xi măng...
Chất lượng các loại sản phẩm của khu vực FDI hầu hết đạt tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), một số đạt tiêu chuẩn quốc tế (ISO).
Một vấn đề có ý nghĩa nữa là nếu như trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết sản xuất kinh doanh thụ động, theo sự chỉ định kế hoạch của cấp trên, không cần đầu tư, cải tiến, không cần tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, sản phẩm sản xuất ra không bị cạnh tranh...thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn FDI đã thực sự trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng tích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường.
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đương nhiên đặt các doanh nghiệp Việt Nam trong hoàn cảnh bắt buộc tham gia vào cuộc cạnh tranh về mọi mặt để xác định khả năng tồn tại hay phá sản. Để có thể tồn tại được, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ còn con đường là phải thay đổi một cách căn bản từ công nghệ, phương thức sản xuất kinh doanh, trình độ của người lao động.Nhiều doanh nghiệp trong nước đã cố gắng đổi mới công nghệ, nhập các thiết bị công nghệ mới và đã tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý, không thua kém hàng nhập.
Như vậy, bên cạnh một số tồn tại, các công nghệ và thiết bị được nhập vào nước ta qua các dự án đầu tư nước ngoài là những công nghệ đã ổn định và phổ cập ở các nước đang phát triển, phù hợp với quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm ở nước ta. Các công nghệ này đã nhanh chóng tạo ra lợi nhuận, phù hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế thị trường, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. Đồng thời hoạt động đầu tư nước ngoài cũng có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ trong nước trong bối cảnh có sự cạnh tranh của cơ chế thị trường.
Nước ta có lợi thế so sánh về nguồn lực con người nên trước mắt, các công nghệ hiện đại có thể tác động không tốt đến công ăn việc làm nhưng về lâu dài, chúng ta cần phải có chính sách chú trọng tìm kiếm, đầu tư và thu hút các nhà đầu tư có công nghệ tiên tiến, kỹ thuật cao để đưa nền sản xuất nước ta theo kịp sự phát triển của khu vực và thế giới.
Trên đây là những tác động chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác động đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế như ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái, phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng các mối quan hệ ngoại giao... khó có thể đề cập hết trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn này.
Cần phải hiểu rằng, FDI không thể là phương thuốc thần kỳ có thể giúp giải quyết hết tất cả các vấn đề còn tồn tại của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam, và thậm chí nó còn gây ra nhiều tác động tiêu cực đang được xem xét và đánh giá cụ thể. Tuy nhiên, trong sự tăng trưởng kinh tế đáng khích lệ những năm vừa qua, FDI đã giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Những phân tích trên chưa thể đánh giá hết vai trò tích cực và tầm quan trọng của ĐTTTNN đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta. Tuy nhiên ta có thể khẳng định lại một điều đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp một phần tích cực và vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua, nó như một nguồn năng lượng quyết định khởi động cho cỗ máy kinh tế Việt Nam đi vào quỹ đạo của sự tăng trưởng và phát triển. ĐTTTNN là một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH-HĐH, là một kênh đưa kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế.
6.Kết quả thực hiện.
Qua hơn một thập kỷ, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có những tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam trên một số mặt chủ yếu sau: đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế của Việt Nam. Cho tới nay, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện được khoảng 21 tỷ USD, chiếm 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng 8,6% GDP ( tính theo giá hiện hành) trong thập kỷ qua. Đây là một tỉ lệ khá cao so với các nước đang phát triển trên thế giới. Nguồn vốn này đã góp phần tích cực trong việc hình thành, mở rộng và hiện đại hoá các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: Dầu khí, hoá dầu, bưu chính viễn thông, điện tử, ô tô-xe máy, hoá chất, phân bón, dệt may, giày dép, chế biến nông sản, thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc, khách sạn, du lich.năng lực tăng thêm của những ngàng, lĩnh vực do đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, thay thế hàng nhập khẩu, đẩy nhanh qua trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra thế và lực mới cho phát triển kinh tế. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên,được khai thác và sử dụng tương đối hiệu quả.
II.Tình hình chuẩn bị gia nhập WTO của Việt Nam.
1. Tiến trình đàm phán.
Có thể nói rằng quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam mới đang ở giai đoạn đầu tiên. Tuy đã gặp rất nhiều khó khăn trở ngại nhưng Việt Nam cũng đã thực hiện những công việc sau:
- Tháng 6 - 1994 Việt Nam đã được công nhận là quan sát viên của GATT (nay là WTO).
- Ngày 4 - 1 - 1995 Ban thư ký WTO đã nhận được đơn xin gia nhập WTO của Việt Nam.
- Ngày 26 - 8 - 1996 bản bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam được chính thức nộp cho Ban thư ký WTO và luân chuyển tới các thành viên.
- Tháng 4 - 1997 Việt Nam thành lập tổ công tác liên bộ về WTO. Tổ công tác liên bộ bao gồm đại diện một số bộ, ngành kinh tế có liên quan nhiều nhất đến tiến trình đàm phán.
- Tháng 5 - 1997 Việt Nam nhận được 655 câu hỏi từ các thành viên WTO.
- Ngày 7 - 5 - 1997 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập đoàn đàm phán chính phủ về vấn đề gia nhập WTO.
- Này 13 - 7 - 2000 Việt Nam đã ký Hiệp định quan hệ thương mại Việt - Mỹ. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là bản hiệp định thương mại song phương đầu tiên của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc, quy chế, ngôn ngữ của WTO. Đây là bước khởi đầu quan trọng cho quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam sau này.
2. Những kết quả đạt được.
Tiến trình đàm phán gia nhập WTO đã tạo nên một sức ép và đem lại những yêu cầu buộc Việt Nam tự nhìn nhận phương thức hoạch định chính sách và điều chỉnh chính sách của mình. Trước hết, đối với vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ, Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong chính sách, chế độ đối với cán bộ đặc biệt là cán bộ trong lĩnh vực kinh tế quốc tế. Chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ đàm phán quốc tế để đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đến, Việt Nam đã có nhiều có gắng trong việc điều chỉnh chính sách thương mại của mình. Tìm mọi cách để đa dạng hoá thị trường, tạo quan hệ bạn hàng với nhiều nước, điều chỉnh và cắt giảm thuế... đã tạo được những mối quan hệ tốt đẹp với nhiều quốc gia trên thế giới. Cuối cùng, trong quá trình điều chỉnh chính sách, Việt Nam đã cố gắng tạo môi trường thuận lợi cho các nhà kinh doanh thông qua hệ thống pháp luật đổi mới, cải cách thủ tục hành chính...
Về mặt ngắn hạn, hội nhập kinh tế, sẽ đặt ra những thách thức lớn đối với ,ột bộ phận dianh nghiệp trong nước. Nhưng trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày nay, nếu không hội nhập mà vẫn tiếp tục đóng cửa thì nguy cơ tụt hậu tất yếu sẽ trở thành hiện thực. Theo đuổi chính sách hội nhập một cách thận trọng và không khéo sẽ góp phần nâng cao trình độ, chuẩn mực về hoạch định chính sách, tạo thuận lợi cho thương mại; đồng thời duy trì được mức bảo hộ hợp lí cho các ngành kinh tế,và giúp các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận được với công nghệ hiện đại, kĩ năng quản lý tiên tiến cũng như than gia vào mạng lưới sản xuất quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh cả trong nước cũng như quốc tế.
Năm 1995, Việt Nam đã tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA). Năm 1998, Việt Nam trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương ( APEC)
WTO là tổ chức thương mại toàn cầu. Gia nhập WTO sẽ là bước ngoặt lớn đánh dấu sự hội nhấp đầy đủ của kinh tế nước ta với kinh tế thế giới.
Giai đoạn 1: Nộp đơn xin gia nhập
Tháng 1/1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO.
Ban công tác về việc gia nhập của Việt Nam được thành lập. Ban Công tác có nhiều thành viên WTO quan tâm đến thị trường Việt Nam.
Giai đoạn 2: Gửi “ Bị Vong lục về Chế độ ngoại thương Việt Nam “ tới ban công tác.
Tháng 8/1996, chúng ta đã hoàn t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0007.doc