Quy định về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động thương mại mới được bổ sung tại Luật Thương mại 2005. Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động phổ biến trong thực tiễn thương mại quốc tế nhằm bảo hiểm các rủi ro do việc biến động giá cả trên thị trường. Vì vậy, hoạt động này có tác dụng tích cực đến hoạt động mua bán những hàng hóa mà giá cả thường có những biến động lớn, nhằm thúc đẩy việc hình thành và phát triển thị trường buôn bán nông sản một cách ổn định.
Trong thực tiễn thương mại Việt Nam hiện nay, nhu cầu của việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa đã bắt đầu xuất hiện đòi hỏi cần phải có quy định của pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, đây là một hoạt động mới, có tính chất tương đối phức tạp nên các hoạt động này cần được quy định tại các văn bản dưới luật phù hợp với điều kiện thực tế.
Một số quy định thêm cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được đề cập thành một phần riêng phía dưới.
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 17533 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Pháp luật về hợp đồng trong họat động kinh doanh – thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng còn và các bên thỏa thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại.
b. Hủy bỏ hợp đồng dân sự:
Trong thực tế khi một bên vi phạm hợp đồng hoặc có lỗi thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại. Bên hủy bỏ phải thông báo ngay cho bên kia biết việc hủy bỏ, trong trường hợp này nếu không thông báo mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên phải hòan trả cho nhau tài sản đã nhận. Nếu họ không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền.
c. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự (Điều 426 Bộ luật Dân sự):
Để việc thực hiện hợp đồng không cứng nhắc, một bên có thể đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu có sự thỏa thuận của các bên hoặc được pháp luật quy định. Khi bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự phải thông báo ngay cho bên kia biết việc chấm dứt thực hiện hợp đồng, nếu không thông báo kịp thời để xảy ra thiệt hại thì bên đơn phương chấm dứt hợp đồng phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
Tại thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt thực hiện hợp đồng, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng và bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu thanh toán một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng mà họ đã thực hiện. Đơn phương chấm dứt hợp đồng do lỗi của bên nào thì bên đó phải bồi thường thiệt hại.
3.3. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng:
3.3.1. Cầm cố tài sản:
Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên kia để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ (Điều 326 Bộ Luật Dân sự). Về hình thức, việc cầm cố phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính, trong đó ghi rõ đối tượng, giá trị tài sản, thời hạn cầm cố và phương thức xử lý tài sản cầm cố.
Tài sản cầm cố có thể bị khấu trừ phần nghĩa vụ chưa được thực hiện, được giao cho bên nhận cầm cố cầm trước một tài sản của bên cầm cố để bảo đảm cho quyền lợi của mình. Các bên trong quan hệ cầm cố có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác, nhưng phải thỏa mãn các yêu cầu về năng lực chủ thể.
Khi người có nghĩa vụ giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người có quyền, từ thời điểm đó họ bị hạn chế một số quyền năng đối với tài sản của mình. Phải báo cho bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố, đồng thời thanh toán cho bên nhận cầm cố những chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố. Nhưng chỉ được bán tài sản cầm cố, thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu được bên nhận đồng ý, hoặc có thể nhận lại tài sản khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt.
Trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực, người nhận cầm cố tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản cầm cố; không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố cho người khác cũng như không đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác hoặc không được khai thác công dụng tài sản cầm cố, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố nếu bên cầm cố không đồng ý.
3.3.2. Thế chấp tài sản:
Thế chấp tài sản là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (bên nhận thế chấp). Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ, không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Tài sản thế chấp có thể là toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Nếu chỉ thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Hình thức thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền hoặc việc thế chấp phải được đăng ký nếu tài sản thế chấp có đăng ký quyền sở hữu.
Trong thời hạn văn bản thế chấp có hiệu lực, bên thế chấp tài sản phải có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp hoặc phải có nghĩa vụ giữ nguyên giá trị của tài sản thế chấp cũng như không được chuyển dịch quyền sở hữu hoặc tự động giao tài sản thế chấp cho người khác. Đồng thời phải thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp nếu có. Nếu bên nhận thế chấp giữ giấy tờ về tài sản thế chấp thì khi chấm dứt thế chấp phải hoàn trả lại cho bên thế chấp giấy tờ về tài sản thế chấp.
3.3.3. Đặt cọc:
Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khỏan tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự. Khi tiến hành đặt cọc phải được lập thành văn bản ghi rõ đối tượng, giá trị bằng tiền hoặc bằng tài sản đặt cọc, thời hạn đặt cọc.
Trong trường hợp hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Nếu bên đặt cọc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng thì hoặc tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc hoặc tài sản đặt cọc bị khấu trừ một khỏan tiền tương đương để thực hiện nghĩa vụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3.3.4. Ký cược:
Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khỏan tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản ký cược) trong thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê. Khi bên đi thuê đã trả lại tài sản thì họ được nhận lại tài sản ký cược, sau khi trừ tiền thuê. Nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê, thì bên cho thuê có quyền đòi lại tài sản thuê, nếu tài sản thuê không còn thì tài sản ký cược thuộc về bên cho thuê.
3.3.5 Ký quỹ:
Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khỏan tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền được ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra, sau khi đã trừ chi phí dịch vụ ngân hàng.
3.3.6. Bảo lãnh:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ (bên được) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khong có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hình thức bảo lãnh bằng văn bản, có thể lập thành văn bản riêng, nếu trong trường hớp pháp luật quy định thì phải có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc là ghi vào hợp đồng chính.
Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hặoc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi, tiền nợ gốc, tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đối với một nghĩa vụ có thể có nhiều người cùng bảo lãnh thì phải liên đới thực hiện nghĩa vụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định bảo lãnh theo các phần độc lập hoặc bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
3.3.7. Tín chấp:
Bảo đảm bằng tín chấp chỉ áp dụng với các tổ chức chính trị - xã hội. Tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác, nhằm mục đích để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính phủ. Như vậy, bằng uy tín của mình các tổ chức chính trị - xã hội tạo địa phương, cơ sở vay tiền cho cá nhân, hộ gia đình. Cho nên, việc cho vay có bảo đảm bằng tín chấp phải được lập thành văn bản ghi rõ số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người vay, ngân hàng, tổ chức tín dụng nào cho vay và tổ chức bảo đảm vay.
4. Traùnh nhieäm do vi phaïm hôïp ñoàng daân söï.
4.1. Khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng
4.1.1 Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng:
Theo Khoản 1 Điều 302 Bộ Luật Dân sự quy định: “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dân sự là một loại trách nhiệm dân sự, là một trong những trách nhiệm pháp lý cho nên nó cũng có những điểm chung sau đây:
- Được áp dụng chỉ khi có hành vi vi pạhm pháp luật và chỉ đối với người có hành vi vi phạm đó.
- Là biểu hiện sự cưỡng chế của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng.
- Bao giờ cũng là hậu quả bất lợi cho bên có hành vi vi phạm pháp luật.
Thêm vào đó, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ bao gồm có nghĩa vụ hợp đồng còn có những đặc điểm riêng:
- Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự luôn liên quan trực tiếp đối với tài sản, Vì lợi ích của mình các bên tự nguyện quyết định tham gia vào các nghĩa vụ dân sự, quan hệ hợp đồng dân sự. Cho nên, việc vi phạm nghĩa vụ của một bên sẽ tác động trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia. Xuất phát từ quan điểm đó mà bên vi phạm phải bù đắp những lợi ích vật chất cho bên bị vi phạm.
- Hành vi vi phạm trong trách nhiệm dân sự là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Trách nhiệm dân sự được áp dụng với những người có hành vi vi phạm nhưng cũng có thể áp dụng đối với người đại diện hoặc người giám hộ khi người có hành vi vi phạm là người chưa thành niên, người được giám hộ.
- Bên có hành vi vi phạm phải gánh chịu hậu quả bất lợi mang nội dung tài sản như: bắt buộc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chính đáng của bên kia hoặc khắc phục hậu quả cho bên bị vi phạm, ví dụ như nghĩa vụ phải giao vật, phải bồi thường thiệt hại.
4.1.2. Các nguyên tắc của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng:
Thứ nhất, bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
Thứ hai, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu traùch nhiệm dân sự, trừ trưởng hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Thứ ba, bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hòan toàn do lỗi của bên có quyền.
4.2. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng:
4.2.1 Trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng:
a Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều 303 Bộ Luật Dân sự).
Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì bên có quyền được quyền yêu cầu họ phải giao đúng vật đó, nếu không phải thanh toán theo giá thị trường giá trị của vật. nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì phải bồi thường cả thiệt hại sau khi đã thanh toán giá trị của vật cho bên có quyền.
b. Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực hiện một công việc (Điều 304 Bộ Luật Dân sự).
Khi đó bên có quyền có thể:
Yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện;
Tự mình thực hiện;
Giao cho người khác thực hiện công việc đó;
Tất cả các chi phí phát sinh họ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán, nếu phát sinh thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Nhưng đối với một công việc mà bên nghĩa vụ không được thực hiện mà lại thực hiện nó thì phải chấm dứt thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại.
4.2.2. Trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng:
a. Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 305 Bộ Luật Dân sự), có hai trường hợp:
- Bên nghĩa vụ chưa hoàn thành nghĩa vụ khi đã quá thời hạn thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại.
- Bên nghĩa vụ thực hiện chậm đến mức việc thực hiện nghĩa vụ không còn cần thiết thì bên có quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện đó và đòi bồi thường thiệt hại. Nếu là nghĩa vụ chậm trả tiền thì trả lãi bằng lãi suất cơ bản tại thời điểm đó của ngân hàng nhà nước, từ thời điểm phải thanh toán đối với số tiền chậm trả.
b. Trách nhiệm dân sự do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 306 Bộ Luật Dân sự):
Khi bên có nghĩa vụ thực hiện xong nghĩa vụ mà bên có quyền chậm tiếp nhận làm phát sinh thiệt hại thì họ phải bồi thường thiệt hại và chịu mọi rủi ro xảy ra từ thời điểm chậm tiếp nhận đó.
4.2.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (Điều 307 Bộ Luật Dân sự):
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh trong quan hệ hợp đồng dân sự (trách nhiệm dân sự) trên cơ sở các điều kiện sau đây:
Một là, có hành vi vi phạm.
Hành vi vi phạm là hành vi của một bên đã xử sự không đúng với nội dung mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Những hành vi bị coi là vi phạm nghĩa vụ, vi phạm hợp đồng là những hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng.
Hai là, có thiệt hại thực tế xảy ra.
Thiệt hại ở đây phải là thiệt hại về tài sản, thiệt hại có thực nghĩa là có thể xác định, tính toán được. Trong thực tế, thiệt hại xảy ra do vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ hợp đồng) bao gồm: những tài sản bị mất mát, hư hỏng hoàn toàn, những hư hỏng, hao hụt về giá trị của tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế khắc phục hậu quả do bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây ra, những tổn thất xảy ra do hành vi vi phạm hợp đồng phát sinh làm thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút có thể tính toán được, chứ không phải do suy diễn mà có.
Ba là, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra. Điều đó đòi hỏi giữa hành vi vi phạm hợp đồng và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ tất yếu. Thiệt hại phát sinh là hậu quả tất nhiên của hành vi vi phạm, nếu không có hành vi vi phạm thì không có thiệt hại xảy ra. Chỉ có người vi phạm gây thiệt hại mới phải áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại. nếu không xác định được chính xác mối quan hệ này thì sẽ dẫn đến những sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự.
Bốn là, có lỗi của người vi phạm nghĩa vụ dân sự:
Lỗi là thái độ chủ quan và nhận thức lý trí của bên vi phạm nghĩa vụ đối với hành vi và hậu quả gây ra. Qua đó, xác định được mức độ lỗi và hình thức lỗi của người vi phạm. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân sự là có lỗi mới phải bồi thường. Sau đó mới xác định lỗi đó ở hình thức nào, lỗi cố ý hay lỗi vô ý. Việc xác định này trong một số trường hợp nhất định có ý nghĩa rất quan trọng khi xem xét có giảm mức bồi thường thiệt hại hay không. Như vậy, trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu một bên không thực hiện, thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng thì đương nhiên bị coi là có lỗi.
Người bị coi là lỗi cố ý nếu họ nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Người bị coi là có lỗi vô ý, nếu họ không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại có thể xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng họ cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được thiệt hại đó.
II. HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH – THƯƠNG MẠI:
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại:
Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 không có định nghĩa riêng về “hợp đồng thương mại” nhưng đề cập đến các loại hợp đồng cụ thể trong hoạt động thương mại. Trong chương II có quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa. Chương III quy định về hợp đồng dịch vụ. Hợp đồng thương mại được hiểu là thỏa thuận giữa các thương nhân (hoặc một bên là thương nhân) về việc thực hiện một hay nhiều hành vi của hoạt động thương mại nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Hợp đồng thương mại có những đặc điểm của các hợp đồng trong hoạt động kinh doanh nói chung và có những đặc điểm riêng của các hoạt động thương mại.
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng thương mại là thương nhân hoặc một bên là thương nhân. Thương nhân là tổ chức kinh tế, cá nhân có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cácg thường xuyên, độc lập. Thương nhân nước ngoài được đặt Văn phòng đại diện, Chi nhánh tại Việt Nam, thành lập tại Việt Nam doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo các hình thức do pháp luật Việt Nam quy định.
Thứ hai, hình thức của hợp đồng thương mại có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Thông điệp dữ liệu cũng được coi là hình thức văn bản.
Thứ ba, mục đích của hợp đồng thương mại là lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận luôn được thể hiện hàng đầu trong các hợp đồng thương mại.
Thứ tư, nội dung của hợp đồng thương mại là xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ cụ thể khi tiến hành hoạt động thương mại. khái niệm hoạt động thương mại theo Luật Thương mại 2005 đã có sự mở rộng là hầu hết các lĩnh vực kinh doanh.
2. Các loại hợp đồng trong hoạt động thương mại:
Theo Luật Thương mại hiện hành, hợp đồng thương mại bao gồm hai nhóm là hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Trong mỗi nhóm của hoạt động thương mại, chế độ pháp lý về hợp đồng có những quy định cụ thể cho từng loại hợp đồng như mua bán hàng hóa không có yếu tố quốc tế, mua bán hàng hóa quốc tế, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, các hợp đồng trong hoạt động xúc tiến thương mại (khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại), hợp đồng trong hoạt động trung gian thương mại (đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa đại lý thương mại) và các hợp đồng trong hoạt động cụ thể khác (gia công, đấu giá hàng hóa, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, dịch vụ logistics, giám định, cho thuê hàng hóa, nhượng quyền thương mại).
III. MỘT SỐ LOẠI HỢP ĐỒNG ĐIỂN HÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI:
1. Hợp đồng mua bán hàng hóa:
Mua bán hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận tiền; người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thỏa thuận của hai bên. Hoạt động mua bán hàng hóa được thể hiện dưới hình thức pháp lý là các hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa:
- Về chủ thể của hợp đồng, theo Luật Thương mại 2005, Hợp đồng thương mại có thể được giao kết giữa các chủ thể bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, hợp đồng thương mại còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật của nước bên mua và bên bán.
- Nội dung của hợp đồng cần chứa đựng đầy đủ các nội dung cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hóa là: Tên hàng; số lượng; quy cách chất lượng; giá cả; phương thức thanh toán; địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng còn phải có thêm những điều khoản để đảm bảo quyền lợi cho các bên không có chung một hệ thống pháp luật như điều khoản về chọn Luật áp dụng hay cơ quan và nơi giải quyết tranh chấp.
- Về hình thức của hợp đồng, theo quy định tại Luật Thương mại, hợp đồng thương mại được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
1.2. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng có thể được ký kết bằng các phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp.
Ký kết bằng phương thức trực tiếp: Người đại diện có thẩm quyền của các bên trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng và thỏa thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng và cùng ký tên vào văn bản hợp đồng. Hợp đồng được xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng.
Ký kết bằng phương thức gián tiếp: Các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc thảo luận mà trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng, thông điệp dữ liệu điện tử… trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch. Trình tự ký kết hợp đồng theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn:
a. Chào hàng:
Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong một thời hạn nhất định, được chuyển cho một hay nhiều người đã xác định. Ở giai đoan này, một bên đưa ra lời chào hàng, tùy theo nội dung có thể là chào bán hàng hoặc chào mua hàng, đồng thời đưa ra một thời hạn để bên kia xem xét quyết định lập hợp đồng.
Bên chào hàng có trách nhiện đối với lời chào hàng của mình trong thời hạn đã đưa ra trong lời chào hàng. Nếu bên nhận được chào hàng đồng ý với toàn bộ chào hàng và trả lời chấp nhận trong thời hạn được quy định trong chào hàng thì quan hệ hợp đồng đã được hình thành.
Chào hàng hết hiệu lực khi hết thời hạn chấp nhận quy định trong chào hàng đã hết hoặc chào hàng bị từ chối.
b. Chấp nhận chào hàng:
Chấp nhận chào hàng là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho bên chào hàng về việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Như vậy, chấp nhận chào hàng phỉa là chấp nhận vô điều kiện. Trường hợp bên được chào hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào hàng mới. Chào hàng chỉ được coi là được chấp nhận nếu người được chào hàng chấp nhận toàn bộ mọi sửa đổi, bổ sung do người chào hàng đưa ra.
Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng. Vì vậy, chấp hành chào hàng có thể được thể hiện dưới mọi hình thức để người chào hàng hiểu là chào hàng đã được chấp nhận một cách vô điều kiện. Đó có thể là lời nói hoặc một hành vi cụ thể biểu lộ sự đồng ý với toàn bộ chào hàng. Im lặng hoặc không hành động không được coi là đồng ý với chào hàng. Tuy Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng nhưng để tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp, chấp nhận chào hàng nên được thể hiện dưới hình thức văn bản. Nếu các bên áp dụng hình thức ký hợp đồng một cách gián tiếp thì chấp nhận chào hàng trong trường hợp mua bán hàng hóa với người nước ngoài phải được thể hiện dưới hình thức văn bản mới có giá trị pháp lý.
Bên nhận được chào hàng trả lời cho bên chào hàng trong thời hạn quy định bằng một thông báo chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Thời hạn chấp nhận chào hàng được tính từ thời điểm chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng đến hết thời hạn chấp nhận chào hàng được ghi trong chào hàng. Trong trường hợp thời hạn chấp nhận chào hàng không được xác định rõ trong chào hàng thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng được Luật Thương mại quy định là ba mươi (30) ngày, kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng. Thời điểm chấp nhận là thời điểm bản thông báo chấp nhận được chuyển đi cho bên chào hàng. Đây cũng đồng thời là thời điểm bắt đầu trách nhiệm của bên chấp nhận chào hàng. Trong trường hợp bên được chào hàng chấp nhận chào hàng sau khi hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ trường hợp bên chào hàng thông báo ngay cho bên được chào hàng về việc mình chấp nhận dù quá hạn.
1.3. Thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là đã ký kết từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng. Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là đã ký kết kể từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng
1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa:
Luật Thương mại quy định những nội dung đặc thù về mua bán hàng hóa với tính chất là một hoạt động thương mại. Trong trường hợp cần có những quy định chuyên biệt trong những hoạt động thương mại cụ thể thì luật chuyên ngành sẽ điều chỉnh theo tính chất chuyên biệt trong hoạt động chuyên ngành và theo nguyên tắc áp dụng luật thì sẽ ưu tiên áp dụng các quy định về hợp đồng chuyên ngành đó.
Các quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được Luật Thương mại 2005 quy định chi tiết trên cơ sở kế thừa những quy định về mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại 1997, tham khảo Công ước Viên năm 1980 và các tập quán, thông lệ quốc tế về mua bán hàng hóa để xây dựng được quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp nhất với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên trong hợp đồng thương mại được quy định tại Mục 2 Luật Thương mại.
1.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán:
Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng về số lượng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (141).doc