Khi cả 2 thông điệp (chú ý và không chú ý)
được nhận dạng
đi qua bộ suy giảm, thông điệp chú ý xuất
hiện đầy đủ
thông điệp không chú ý bị suy giảm
Khi thông điệp không chú ý đi qua bộ suy
giảm kẻ hỡ của bộ lọc (“leaky filter”
model)
Giai đoạn quyết định
Đơn vị từ điển (dictionary unit): phân tích
thông điệp, chứa những từ được lưu trữ và mỗi
cái có ngưỡng (thresholds) hoạt động.
Ngưỡng là cường độ tín hiệu nhỏ nhất có thể
được phát hiện.
− Từ có ngưỡng thấp, tín hiệu yếu thì vẫn có
thể được phát hiện.
− Từ có ngưỡng cao thì tín hiệu mạnh mới
phát hiện được
Đơn vị từ điển
Kết quả cuối cùng: thông điệp chú ý mạnh
+ những phần quan trọng của thông điệp
không chú ý yếu hơn.
Cả hai mô hình của Broadbent và Treisman
được gọi là mô hình chú ý ban đầu
Một thuyết khác cho rằng thông tin được
phân tích ý nghĩa trước sau đó mới lựa chọn
chú ý
Mô hình của Treisman cũng được xem là
mô hình lựa chọn trung gian.
47 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 782 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Tâm lí học nhận thức - Chương 4: Chú ý - Nhan Thị Lạc An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9/18/2017
1
CHƯƠNG 4
Ví dụ về anh Nam lái xe
Sự chú ý (attention): là một quá trình tập trung
vào những nét đặc trưng riêng biệt trong môi
trường.
Tập trung vào những nét đặc trưng riêng biệt
trong môi trường thường dẫn đến loại trừ những
nét đặc trưng khác của môi trường (Colman,
2001; Reber, 1995)
9/18/2017
2
Khi đang lái xe: lái xe “tự động”
(automatic).
Khi đứa trẻ chạy ra trước xe
Trong nhà hàng
Không phải mọi trường hợp của sự chú ý
là giống nhau và nó có liên quan đến
những cơ chế khác nhau.
Từ những nghiên cứu cho thấy sự chú ý
không phải là một khái niệm đơn giản,
mà bao gồm một số những hiện tượng
tâm lý khác (Luck & Vecera, 2002;
Styles, 1997).
9/18/2017
3
Chú ý đóng vai trò trung tâm trong nhiều
khía cạnh khác của nhận thức.
Chú ý có liên quan đến tri giác, trí nhớ,
ngôn ngữ, giải quyết vấn đề.
9/18/2017
4
Hầu hết những nghiên cứu về sự chú ý
đều sử dụng kích thích thính giác và tập
trung vào quá trình lựa chọn chú ý.
Nghiên cứu cho thấy nếu chúng ta chú ý
vào một thông điệp thì khó hoặc không
thể thu nhận thông tin từ một thông điệp
khác xuất hiện cùng lúc.
Thí dụ minh họa.
9/18/2017
5
Colin Cherry
(1953) sử dụng
phương pháp
nghe phân đôi
(dichotic
listening).
Người tham gia được
yêu cầu chú ý vào 1
thông điệp (thông điệp
chú ý) và bỏ qua cái
kia (thông điệp không
chú ý).
nhắc lớn lại thông điệp
chú ý để đảm bảo
người tham gia chú ý
vào thông điệp chú ý.
9/18/2017
6
Người tham gia theo dõi thông điệp chú ý, nhưng
họ vẫn nhận thức được thông điệp bên tai không
chú ý.
Chỉ nghe thấy có thông điệp và có thể nhận ra đó
là giọng nam hay giọng nữ, không thể cho biết
nội dung thông điệp.
Thí nghiệm này đã chứng thực sự thiếu nhận
biết những thông tin bên tai không chú ý, ngay cả
khi nó được lặp lại 35 lần (Moray, 1959).
Hiện tượng tiệc cocktail (cocktail party
phenomenon)
Con người có khả năng chú ý vào 1 thông
điệp và bỏ qua thông điệp khác xuất hiện
cùng lúc.
Xem phim
Donald Broadbent đưa ra mô hình bộ lọc
của sự chú ý (filter model of attention)
9/18/2017
7
Mô hình bộ lọc của Broadbent
(Broadbent’s Filter Model)
Mô hình bộ lọc của Donald Broadbent (1958) là
một trong những học thuyết cổ điển trong TLH vì
lần đầu:
Mô tả con người như là một người xử lý thông tin
Mô tả tiến trình xử lý thông tin với 1 mô hình.
Mô hình được thiết kế để giải thích sự chú ý được
lựa chọn, trạng thái thông tin đi vào và thông qua
các giai đoạn nối tiếp (Xem hình)
9/18/2017
8
Mô hình bộ lọc chú ý của Broadbent (1958)
Lưu trữ cảm giác: giữ thông tin đi vào trong thời
gian ngắn chuyển vào bộ lọc
Bộ lọc: nhận ra thông điệp chú ý dựa trên đặc
điểm vật lý (giọng người nói, cường độ, tốc độ
nói, trọng âm) cho 1 thông điệp đi vào bộ phát
hiện.
Mô hình bộ lọc chú ý của Broadbent (1958)
Bộ phát hiện: nơi thông tin được xử lý ở
mức độ cao (ý nghĩa của thông tin). Chỉ khi
quan trọng, thông tin chú ý được đưa qua bộ
lọc, bộ phát hiện xử lý tất cả những thông
tin đi vào.
Trí nhớ ngắn hạn: đưa vào trí nhớ ngắn hạn.
9/18/2017
9
Là mô hình lựa chọn
ban đầu (early –
selection model) vì bộ
lọc xuất hiện trước khi
thông tin đi vào để được
phân tích xác định ý
nghĩa.
Một minh họa khác về
bộ lọc: cái ray cát trên
biển
Hình 4.2: (b) Mô hình chú ý của
Broadbent để những thông điệp
chú ý đi qua và giữ lại những
thông điệp không chú ý, dựa trên
đặc điểm vật lý của thông điệp
như là cường độ của giọng nói.
9/18/2017
10
Đa số những nghiên cứu ban đầu về sự chú ý
có lựa chọn đều sử dụng kích thích thính giác
(câu chuyện, chữ cái hoặc từ).
Nhà nghiên cứu cho thông điệp xuất hiện hai
bên tai.
Xem tai trái và tai phải như những kênh
(channels) riêng biệt
Người ta thu nhận thông tin từ hai kênh dưới
những điều kiện khác nhau.
Những chữ cái
xuất hiện cặp
đôi bên tai phải
và tai trái.
Nhiệm vụ: nhắc
lại 6 chữ cái
ngay sau khi
nghe tất cả 6
chữ.
9/18/2017
11
Điều kiện 1: báo cáo
theo thứ tự bất kỳ
Kết quả: có xu hướng
báo cáo tất cả chữ cái
xuất hiện bên tai này
rồi đến tai kia
Điều kiện 1:
Theo Broadbent: việc
chuyển đổi qua lại giữa các
kênh là việc khó, nên báo
cáo lần lượt từng kênh sẽ
dễ hơn.
Người nghe báo cáo
đúng 65% ký tự.
9/18/2017
12
Điều kiện 2: báo cáo
từng cặp ký tự xuất
hiện với nhau.
Người nghe phải
chuyển kênh qua lại
khi các ký tự xuất
hiện.
Người nghe báo cáo
chỉ đúng 20% các ký
tự.
Broadbent kết luận từ
kết quả này: rất khó để
chuyển đổi qua lại
giữa các kênh
9/18/2017
13
** Thuyết của Broadbent là thành tựu cực
kỳ quan trọng trong TLH nhận thức vì:
Nó phân tích quá trình suy nghĩ của con
người theo quan điểm thông tin được xử
lý thông qua một chuỗi những giai đoạn.
Thuyết của Broadbent đã kích thích
những quan điểm quan trọng về nghiên
cứu sự chú ý
Một số nhà nghiên cứu đặt ra vấn đề cho
thuyết của Broadbent.
Neville Moray (1959) sử dụng nghe phân
đôi
Nhưng khi Moray cho xuất hiện tên của
người nghe bên tai không chú ý, thì 1/3
số người nghe phát hiện ra.
9/18/2017
14
Thuyết Broadbent: thông tin không chú ý bị lọt
ra ngoài
Thí nghiệm Moray: thông tin không chú ý
được phân tích đủ để xác định ý nghĩa của nó.
(Ví dụ: bạn trong căn phòng ồn ào)
Sự xuất hiện của thông tin bên tai không chú
ý được xử lý đủ để cung cấp cho người nghe
một vài nhận biết về ý nghĩa của nó.
J. A. Gray và A. I.
Wedderburn (1960)
Người nghe đã có
sự chuyển kênh
(trái với quan điểm
của Broadbent)
Họ thu nhận được ý
nghĩa khi kết hợp nó
lại
9/18/2017
15
Thuyết suy giảm của Treisman
(Treisman’s Attenuation Theory)
Lý giải cho thực tế những thông tin bên tai
không chú ý (tên người nghe, những từ tạo
nên cụm có nghĩa) được thông qua có ý
thức.
Treisman cho rằng sự lựa chọn xuất hiện
trong hai giai đoạn (hình 4.5)
9/18/2017
16
Sơ đồ về mô hình suy giảm của chú ý của
Treisman
Thay bộ lọc = bộ suy giảm: phân tích thông tin đi
vào dựa trên các yếu tố
9/18/2017
17
(1) Những đặc điểm vật lý: cường độ cao, thấp;
nhanh – chậm
(2) Ngôn ngữ: nhóm các âm tiết và từ lại với nhau
(3) Ý nghĩa: một chuỗi các từ tạo nên cụm ý nghĩa.
Khi cả 2 thông điệp (chú ý và không chú ý)
được nhận dạng
đi qua bộ suy giảm, thông điệp chú ý xuất
hiện đầy đủ
thông điệp không chú ý bị suy giảm
Khi thông điệp không chú ý đi qua bộ suy
giảm kẻ hỡ của bộ lọc (“leaky filter”
model)
9/18/2017
18
Giai đoạn quyết định
Đơn vị từ điển (dictionary unit): phân tích
thông điệp, chứa những từ được lưu trữ và mỗi
cái có ngưỡng (thresholds) hoạt động.
Ngưỡng là cường độ tín hiệu nhỏ nhất có thể
được phát hiện.
− Từ có ngưỡng thấp, tín hiệu yếu thì vẫn có
thể được phát hiện.
− Từ có ngưỡng cao thì tín hiệu mạnh mới
phát hiện được
Đơn vị từ điển
9/18/2017
19
Kết quả cuối cùng: thông điệp chú ý mạnh
+ những phần quan trọng của thông điệp
không chú ý yếu hơn.
Cả hai mô hình của Broadbent và Treisman
được gọi là mô hình chú ý ban đầu
Một thuyết khác cho rằng thông tin được
phân tích ý nghĩa trước sau đó mới lựa chọn
chú ý
Mô hình của Treisman cũng được xem là
mô hình lựa chọn trung gian.
Mô hình sự lựa chọn cuối
(Late-selection Models)
9/18/2017
20
Mô hình này dựa trên bằng cho thấy những từ
xuất hiện bên kênh không chú ý có thể được
xử lý ở mức độ ý nghĩa.
Donald MacKay (1973) có thể chỉ ra trong thí
nghiệm của mình bằng câu nói với nghĩa mơ
hồ có thể hiểu nhiều hơn 1 cách.
Ví dụ: They were throwing stones at the bank.
(bank: bờ sông hoặc ngân hàng)
Ông dùng những câu có nghĩa mập mờ và
mỗi ý nghĩa đều có khả năng như nhau.
Người nghe theo dõi những câu có ý nghĩa
mập mờ xuất hiện ở tai chú ý.
Đồng thời một từ gợi ý (biasing word)
xuất hiện bên tai không chú ý.
9/18/2017
21
They were
throwing
stones at the
bank
River/
money
They threw
stones towards
the side of the
river yesterday
They threw
stones at the
savings and
loan
association
yesterday.
9/18/2017
22
Người nghe cho thấy 2 câu có nghĩa gần giống
với 1 câu mà họ đã nghe trước đó
MacKay cho thấy ý nghĩa của từ gợi ý có ảnh
hưởng đến sự lựa chọn chú ý của người tham gia.
Ví dụ: nếu nghe từ gợi ý “money” thì người tham
gia có khả năng lựa chọn câu thứ 2.
Ngay cả khi người tham gia nói rằng họ không
nhận biết từ gợi ý xuất hiện bên tai không chú ý.
Ý nghĩa của từ không chú ý
(money/river) ảnh hưởng đến phán đoán
của người nghe
Từ ngữ này phải được xử lý mức độ ý
nghĩa của nó.
9/18/2017
23
Sự lựa chọn chú ý thông tin được quyết
định bởi bản chất của nhiệm vụ mà người
đó thực hiện (Kahaneman, 1973; Lavie,
1995)
Nilli Lavie (1995) đã đưa ra một biến là tải
trọng của nhiệm vụ (task load) – nói đến
nguồn lực nhận thức của một người sử
dụng để hoàn thành một nhiệm vụ nào đó.
Lựa chọn và tải trọng của
nhiệm vụ
(Selection and Task load)
9/18/2017
24
Nguồn nhận thức (cognitive resources) nói đến
quan điểm cho rằng một người có một sức chứa
nhận thức cố định, được dùng để thực hiện những
nhiệm vụ khác nhau.
Tải trọng nhận thức (cognitive load) là số lượng
nguồn nhận thức của một người cần đến để thực
hiện một nhiệm vụ nhận thức nào đó.
Nhiệm vụ có tải trọng thấp (low-load task) là
nhiệm vụ dễ, có tải trọng nhận thức thấp, sử dụng
một lượng ít nguồn nhận thức của con người
nguồn lực nhận thức con người có thể sử dụng cho
những nhiệm vụ khác.
Nhiệm vụ có tải trọng cao (high-load task) là
nhiệm vụ khó khăn, không dễ thực hiện, bắt buộc
hầu hết mọi nguồn lực nhận thức của con người.
9/18/2017
25
Nilli Lavie dự đoán:
✓ Nhiệm vụ có tải trọng cao chỉ có dữ liệu lựa
chọn được xử lý.
✓ Nhiệm vụ có tải trọng thấp không yêu cầu tất
cả mọi nguồn lực một số thông tin có thể
được xử lý.
▪ Người tham gia
y/c tập trung
vào một kích
thích và bỏ qua
kích thích khác.
▪ Nhấn nút “Z”
nếu A hoặc B
xuất hiện
▪ Nhấn nút “M”
nếu C hoặc D
xuất hiện
9/18/2017
26
▪ Vị trí mục tiêu
nằm ở trung
tâm.
▪ Vị trí bên cạnh
có thể là
A,B,C,D hoặc
X
▪ Vị trí B: nhân tố
gây nhiễu tương
hợp
▪ Vị trí C: nhân tố
gây nhiễu cạnh
tranh
▪ Vị trí X: trung
tính
9/18/2017
27
▪ X là mục tiêu, N là nhân tố
gây nhiễu nhấn nút Z
▪ N là mục tiêu, X là nhân tố
gây nhiễu nhấn nút M
▪ (a): nhiệm vụ dễ gây ra
phản ứng chậm
▪ Bởi vì: nhân tố gây nhiễu
cạnh tranh (N) xâm nhập
gây chậm phản ứng
▪ (b) nhiệm vụ khó tải trọng
cao
▪ Nhân tố gây nhiễu không
tương hợp không ảnh hưởng
▪ Nguồn nhận thức không có
sẵn
9/18/2017
28
Trên thực tế, khi chúng ta thực hiện nhiệm
vụ có tải trọng thấp, như lái xe trên đường
vắng chúng ta có thể xử lý cả những
thông tin khác.
Khi lái xe giờ cao điểm, những nhân tố gây
xao nhãng dễ dàng bỏ qua hơn.
9/18/2017
29
Nhiệm vụ có tải trọng cao chúng ta tập
trung xử lý thông điệp chú ý
Nhiệm vụ có tải trọng thấp chúng ta có
thể xử lý cả thông điệp chú ý và không chú
ý.
9/18/2017
30
Trong một số trường hợp, chúng ta có thể di tản
sự chú ý của mình vào một số nhiệm vụ.
Sự chú ý được phân chia (divided attention):
con người có thể chú ý vào một số việc cùng
một lúc.
Ví dụ: con người có thể cùng lúc lái xe, nói
chuyện, nghe nhạc, suy nghĩ về những điều họ
sẽ làm.
Khả năng sự chú ý được phân chia phụ
thuộc vào một số nhân tố:
1) sự tập luyện;
2) độ khó của nhiệm vụ
3) loại nhiệm vụ
9/18/2017
31
Ví dụ về việc học lái xe.
Những nghiên cứu cho thấy với sự luyện tập,
chúng ta có thể học làm hai việc khó như nhau
trong cùng một lúc.
Thí nghiệm của Spelke (1976): 2 sinh viên đọc
một câu chuyện và viết chính tả, nhưng không
thể làm 2 việc cùng 1 lúc. Sau 85 giờ tập luyện,
kéo dài 17 tuần, họ có thể đọc nhanh một câu
chuyện và vừa làm bài kiểm tra phân loại từ.
Người tham gia sẽ thấy một bộ nhớ (a
memory set) có những con số hoặc chữ cái.
9/18/2017
32
Sau đó, họ được xem nhanh liên tục 20 khung
Bộ nhớ là số
Nhân tố gây nhiễu là chữ cái
Điều kiện nhất quán
Người tham gia trả lời câu hỏi: Có phải
mục tiêu xuất hiện trong 1 khung nào đó?
20 khung xuất hiện chỉ trong 2,4 giây.
Mục tiêu sẽ xuất hiện trong 1/20 khung,
trong 1 nửa còn lại không có mục tiêu xuất
hiện.
9/18/2017
33
Bắt đầu: chỉ có 55% chính xác
Mất khoảng 900 lần thử nghiệm 90%
chính xác.
Trong khoảng 600 lần đầu
Trong khoảng 600 lần sau: nhiệm vụ này
trở nên tự động
Kết luận:
Sự luyện tập gây ra một sự xử lý tự động.
Khi loại xử lý tự động xuất hiện, nó diễn
ra mà không làm người ta chủ ý để thực
hiện nó.
Loại xử lý này sử dụng ít khả năng nhận
thức
9/18/2017
34
Quá trình tự động cũng thường xuất hiện
bên ngoài phòng thí nghiệm với những
việc mà chúng ta làm cách thường xuyên
Ví dụ: lái xe
Điều nào bạn có thể làm qua luyện tập và
nó trở thành tự động?
Viết chữ, lái xe, chơi nhạc, đánh máy.
Schneider và Shiffrin thay đổi 2 biến cho mỗi
lần thử nghiệm
(1) số lượng dữ liệu trong bộ nhớ
(2) số lượng trong mỗi khung
Nhiệm vụ trở nên khó hơn
Quá trình tự động có diễn ra không?
Họ đạt được 90% chính xác mặc dù có bao
nhiêu dữ liệu trong bộ nhớ hoặc trong khung.
9/18/2017
35
Nếu nhiệm vụ trở nên khó khăn thì sự chú ý không
thể phân chia được.
Được chứng minh trong phần 2 của thí nghiệm
Schneider và Shiffrin. Nhiệm vụ được làm khó hơn
do sự thay đổi
(1) dữ liệu trong bộ nhớ và nhân tố gây nhiễu đều
là những ký tự
(2) dữ liệu nào đó trong bộ nhớ lần này lại trở
thành nhân tố gây nhiễu trong lần thử nghiệm khác.
Điều kiện biến đổi: Bộ nhớ và nhân tố gây nhiễu
có thể hoán đổi cho nhau qua các lần thử nghiệm
9/18/2017
36
Quá trình tự động không thể xảy ra.
Người tham gia phải thật chú ý vào mọi lúc và
tìm kiếm mục tiêu giữa những nhân tố gây
nhiễu.
Tăng số lượng dữ liệu .???
Ví dụ: 4 dữ liệu trong bộ nhớ và 4 dữ liệu trong
bộ gây nhiễu họ chỉ có thể làm khi xuất hiện
khung chậm 0.4s. Kết quả rớt xuống 50% đúng.
Điều kiện biến đổi làm nhiệm vụ khó hơn, thậm
chí kéo dài sự luyện tập nhưng sự phân chia chú
ý là không thể.
Tuy nhiên, thỉnh thoảng tăng độ khó của một
nhiệm vụ có thể không hoàn toàn loại trừ phân
chia sự chú ý, nhưng có thể giảm sút kết quả
thực hiện ở một nhiệm vụ khác.
9/18/2017
37
Thí nghiệm có 2 nhiệm vụ:
(1) đảo chữ: họ phải phục hồi lại chữ đó
(2) thời gian phản ứng, người tham gia
nhấn nút bất kỳ khi họ nghe một tiếng
chuông ngắn.
Đảo chữ khó: ví dụ: “croodt”
Đảo chữ dễ: ví dụ “dortoc”.
người tham gia kéo dài
thời gian phản ứng
nhấn chuông trong điều
kiện khó
Nhiệm vụ đảo chữ khó
tận dụng hết nguồn lực
nhận thức của họ, để lại
ít nguồn lực cho nhiệm
vụ phản ứng.
9/18/2017
38
NewYork Times có bài báo “Một tay lái xe
và một tai nghe phone” (Hafner, 1999)
Một cuộc khảo sát về tai nạn và sử dụng di
động ở Toronto cho thấy nguy cơ đụng xe
khi sử dụng điện thoại di động cao gấp 4
lần khi lái xe không sử dụng dd (Redelmeir
& Tibshirani, 1997)
Những người tham gia trong khi lái xe được yêu
cầu thắng nhanh nhất có thể khi đèn đỏ.
Hình 4.12: Khi một người nói chuyện điện thoại thì họ (a) bỏ lỡ nhiều
đèn đỏ, và (b) kéo dài thời gian đạp thắng
9/18/2017
39
Kết luận: việc nói chuyện trên di động sử
dụng một nguồn lực đáng lẽ ra được dùng
để lái xe.
Một số nơi đã đưa ra biển cấm sử dụng di
động khi đang lái xe.
Phản ứng phụ thuộc vào sự chú ý của
Lee Brooks (1968)
Đọc và nhớ câu sau.
Sau đó xem xét mỗi từ và nói “Có” nếu từ
đó là danh từ và “Không” nếu từ đó không
phải là danh từ.
Ví dụ: Nam chạy xuống cửa hàng để mua
ít đồ.
9/18/2017
40
Làm lại với câu sau: Con chim bay từ
cửa sổ lên cành cây.
Sau khi nhớ, nhìn vào hình 4.13, xem
xét từng chữ và chỉ vào Y nếu đó là
danh từ và chỉ vào N nếu không phải là
danh từ.
9/18/2017
41
Nhiệm vụ nào khó hơn?
Do: phản ứng có lời (nói có hoặc không) tương hợp
với nhiệm vụ có lời (nhớ câu) cạnh tranh nhau.
Phản ứng không gian (chỉ Y hoặc N) không tương
hợp với nhiệm vụ có lời (nhớ câu).
Phản ứng khó hơn khi chúng ta thực hiện cùng loại
nhiệm vụ cạnh tranh nguồn lực nhận thức của
chúng ta.
Như vậy, sự phân chia chú ý phụ thuộc
vào 3 nhân tố
(1) luyện tập
(2) độ khó của nhiệm vụ
(3) loại nhiệm vụ
9/18/2017
42
➢ Chúng ta nhìn tổng quát rất nhanh
➢ Nhưng phải chú ý đặc biệt vào những thứ
quan trọng thì mới thấy nó chi tiết hơn.
➢ Con người có thể nhanh chóng thấy toàn
cảnh, có thể diễn tả ý chính của bức tranh
thậm chí khi nó xuất hiện phân số của giây
(Biederman, 1981)
9/18/2017
43
Chúng ta có thể thu nhận thông tin từ 1
hình ảnh, thậm chí khi chúng ta không
chú ý vào nó.
Người tham gia được yêu cầu tập trung
chú ý vào màn hình hiển thị có 5 chữ cái
được lóe lên.
Nhiệm vụ của họ là mô tả nhanh nhất có
thể 5 chữ cái này khác nhau hay giống
nhau.
Sau khi chữ cái xuất hiện, ở 1 góc (xuất
hiện vị trí khác nhau trong những lần
khác nhau) có 1 hình được lóe lên.
9/18/2017
44
Họ có thể thấy bức hình trong 0.027 giây (chỉ
chú ý đến chữ cái)
Họ có thể chỉ ra chính xác đó là con vật trong
hình trong 76% lần thử nghiệm
Hình 4.14: Thí nghiệm của Li và cs (2002)
Thực tế cho thấy chúng ta có thể nhanh
chóng thấy toàn cảnh gây ra cảm giác là
chúng ta nhận biết hết đặc tính của môi
trường.
Nhưng không phải vậy khi chúng ta xem
xét những chi tiết nhỏ hơn.
Hiện tượng này gọi là “mù thay đổi”
(change blindness)
9/18/2017
45
Con người thường gặp vấn đề để phát hiện sự
thay đổi, thậm chí khi nó rõ ràng.
Ronald Rensink và cs (1997) làm một thí
nghiệm tương tự dưới điều kiện hạn chế hơn
họ cho thấy rằng con người cần xem xen kẽ qua
lại giữa hai bức tranh trong 1 số lần mới phát
hiện sự khác biệt.
Nguyên nhân “mù thay đổi”: thiếu sự chú ý.
Khi ông gợi ý là có sự thay đổi người tham
gia có thể phát hiện sự thay đổi nhanh hơn
(Rensink, 2002)
Ảnh hưởng “mù thay đổi” cũng xuất hiện khi
cảnh thay đổi trong những cảnh khác nhau của
phim.
Xem phim.
Mặc dù người tham gia thí nghiệm nói rằng họ
chú ý rất kỹ vào phim, chỉ có 1/10 người thấy
một số thay đổi.
Thậm chí khi họ xem phim này lần nữa, được
cảnh báo có sự thay đổi về “đồ vật, vị trí cơ thể
hoặc quần áo”, họ nhận thấy ít hơn ¼ sự thay
đổi (Levin & Simon, 1997)
9/18/2017
46
Các chức năng của chúng ta hoạt động khá
tốt
Chúng ta quá quen thuộc với môi trường nên
thường “điền vào chỗ trống” dựa vào kinh
nghiệm trong quá khứ, chúng ta dự đoán
những cái có thể xuất hiện trong 1 cảnh nào
đó.
Nếu hệ thống nhận thức của chúng ta ghi
nhận tất cả những chi tiết quá tải.
Chúng ta nhận thức chung, khi cần thiết
chúng ta chú ý đặc biệt vào đó.
9/18/2017
47
Đôi lúc, sự chú ý là quá trình từ dưới lên. (ví
dụ)
Hầu hết, sự chú ý của chúng ta được thúc đẩy
bởi ý nghĩa và sự hiểu biết của chúng ta trong
tình huống quá trình từ trên xuống
Ví dụ: nghe tên bạn trong căn phòng ồn ào
bất kỳ một kích thích nào được chú ý bởi ý
nghĩa của nó là quá trình từ trên xuống.
Có sự quan hệ giữa chú ý và tri giác.
Ví dụ: chú ý liên quan đến sự liên kết các nét
đặc trưng với nhau (thuyết của Treisman).
Sự chú ý là cần thiết cho tri giác và ảnh hưởng
đến tri giác (hiện tượng “mù thay đổi”).
Sự liên kết của chú ý và trí nhớ (thí nghiệm của
Schneider và Shiffrin)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_tam_li_hoc_nhan_thuc_chuong_4_chu_y_nhan_thi_lac_a.pdf