Tổn thương do ngã hoặc va đập với vật cản trên đường
- Sau khi bị va chạm với xe ôtô, cơ thể nạn nhân bị văng trượt trên mặt đường tạo nên những vết sây sát da có bề mặt khô cứng màu sẫm (còn gọi là vết sây sát da giấy), qua kính lúp có thể thấy vết sây sát da gồm nhiều vết sượt da nhỏ song song hoặc đan chéo nhau do va quệt với mặt đường không bằng phẳng tạo nên, hay gặp ở những vùng lồi của cơ thể hoặc vùng không có quần áo che phủ.
- Có thể gặp những vết thương có dị vật (đất cát) nằm trên vùng có vết sây sát da. Dấu hiệu chảy máu dưới da ở những vùng này hiếm gặp ngoại trừ những trường hợp bị bánh xe ôtô lăn qua hoặc bị va chạm mạnh với các vật trên mặt đường
- Trong giám định y pháp, để xác định tổn thương do va húc trực tiếp hay do bị ngã văng trượt trên mặt đường cần phải dựa trên những đặc điểm của các dấu vết thương tích trên thân thể nạn nhân, nhưng trong nhiều trường hợp việc nhận định lại không đơn giản vì tổn thương hình thành bởi các pha va chạm không tách rời nhau, nằm cùng trên một vùng cơ thể, đặc biệt với các vụ tai nạn có liên quan đến nhiều phương tiện trong cùng một thời điểm do đó cần phải phối hợp chặt chẽ với khám nghiệm hiện trường, khám xe liên quan để tìm hiểu vị trí, tư thế của nạn nhân khi tai nạn xảy ra.
97 trang |
Chia sẻ: Chử Khang | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Tổn thương do tai nạn giao thông đường bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảm thương vong
đáng kể trong các vụ tai nạn xe hơi đặc biệt với
những người không đeo dây an toàn, tại Mỹ túi
đệm không khí làm giảm tỷ lệ thương vong
xuống 30% trong những vụ ôtô đâm nhau người
chiều.
Cũng như dây an toàn, túi điện không khí có
thể gây ra thương tích, có khi làm chết người,
hay gặp ở phụ nữ, người tầm thước nhỏ bé và trẻ
em dưới 13 tuổi. Tổn thương hay gặp là những
đám sây sát da ở vùng cổ trước, dưới cằm hoặc ở
vùng ngực, nặng hơn có thể gặp chấn thương cột
sống, vỡ nền sọ, chấn thương ngực, bụng hoặc
đụng dập nội mạc động mạch cảnh.
Người đi bộ
Có thể bị thương trong các tình huống
sau.
Va đập với các bộ phận ở phía trước,
bên hoặc sau xe ôtô.
Bị ngã, văng trượt trên mặt đường
hoặc va đập với các vật trên đường.
Bị bánh xe ôtô đè qua.
Tổn thương do va húc trực tiếp
hay gặp nhất là những vết sây sát da, bầm tụ
máu hoặc rách da ở cẳng chân hai bên kèm gẫy
xương do tác động của chắn sốc hoặc bảo hiểm
đầu xe, có thể gợi lại hình ảnh vật tác động,
nhiều trường hợp dấu vết thương tích bên ngoài
không rõ mặc dù vẫn có tổn thương bên trong.
Werner U.Spitz cho rằng xác định vị trí và
đặc điểm của tổn thương ở cẳng chân nạn
nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc
nhận định tình huống xảy ra tai nạn, nếu
vị trí các vết thương hoặc điểm gẫy xương
không đều nhau ở cẳng chân hai bên thì
điều đó có nghĩa là nạn nhân đang bước đi
hoặc đang chạy khi xảy ra tai nạn. Đặc
điểm ổ gẫy xương ở cẳng chân hai bên
cũng góp phần chứng minh tư thế nạn
nhân và chỉ ra chiều hướng của lực tác
động giúp nhận định chiều hướng chạy xe.
Vị trí tổn thương còn tùy thuộc vào lứa
tuổi, loại xe và tư thế của nạn nhân... nếu
nạn nhân là trẻ nhỏ điểm chạm đầu tiên ở
nửa người phía trên làm cho cơ thể nạn
nhân thường bị hất ngã văng ra xa. Với
người lớn, điểm chạm đầu tiên ở nửa
người phía dưới làm cho nạn nhân bị hất
lên cao, tùy thuộc vào tốc độ xe chạy nạn
nhân có thể bị va đập tiếp với mui xe, nóc
xe hay thành xe rồi sao đó bị ngã và đập
với mặt đường. Cần kiểm tra dấu vết lông
tóc, vết máu của nạn nhân có thể còn dính
ở đầu xe, trên mui, nóc hoặc thành xe khi
tham gia khám xe.
Va đập với đèn pha xe ôtô thương gây ra những vết sây sát
da, bầm tụ máu hoặc rách da ở vùng đùi hoặc vùng mông.
Có thể gặp những vết thương có dị vật như mảnh kính vỡ,
vết sơn hoặc vết dầu mỡ... nếu nạn nhân va đập với thành
bên của xe ôtô.
Va đập với những nơi có góc cạnh trên thành xe hoặc đầu
xe ôtô (xe tải) sẽ gây ra những vết thương rách da có chiều
hướng rõ ràng, thường gợi lại hình ảnh bề mặt của vật tác
động.
Cần đo khoảng cách từ vị trí vết thương tới mặt đất theo
trục đứng của cơ thể và phối hợp khám xe để xác định điểm
va chạm trên xe ôtô.
Tốc độ xe chạy tại thời điểm va chạm là
yếu tố quyết định đến mức độ nặng nhẹ
của tổn thương nguyên phát trên cơ thể
nạn nhân, tốc độ xe dưới 20 km/h ít khi
gây thương tích nặng có khả năng gây tử
vong cho nạn nhân, nếu xe chạy trong
khoảng 20-40 km/h thì thương vong có
thể xảy ra.
Theo Karger, phần lớn các trường hợp tai
nạn có chấn thương cột sống cổ đều xảy
ra khi xe chạy với tốc độ trung bình 65
km/h, chấn thương ngực kèm vỡ quai
động mạch chủ, vỡ tim hoặc tụ máu mô
phổi thường gặp ở tốc độ 85km/h.
Tổn thương do ngã hoặc va đập
với vật cản trên đường
Sau khi bị va chạm với xe ôtô, cơ thể nạn nhân bị
văng trượt trên mặt đường tạo nên những vết sây
sát da có bề mặt khô cứng màu sẫm (còn gọi là
vết sây sát da giấy), qua kính lúp có thể thấy vết
sây sát da gồm nhiều vết sượt da nhỏ song song
hoặc đan chéo nhau do va quệt với mặt đường
không bằng phẳng tạo nên, hay gặp ở những
vùng lồi của cơ thể hoặc vùng không có quần áo
che phủ.
Có thể gặp những vết thương có dị vật (đất cát)
nằm trên vùng có vết sây sát da. Dấu hiệu chảy
máu dưới da ở những vùng này hiếm gặp ngoại
trừ những trường hợp bị bánh xe ôtô lăn qua
hoặc bị va chạm mạnh với các vật trên mặt
đường
Trong giám định y pháp, để xác định tổn
thương do va húc trực tiếp hay do bị ngã
văng trượt trên mặt đường cần phải dựa
trên những đặc điểm của các dấu vết
thương tích trên thân thể nạn nhân,
nhưng trong nhiều trường hợp việc nhận
định lại không đơn giản vì tổn thương hình
thành bởi các pha va chạm không tách rời
nhau, nằm cùng trên một vùng cơ thể,
đặc biệt với các vụ tai nạn có liên quan
đến nhiều phương tiện trong cùng một
thời điểm do đó cần phải phối hợp chặt
chẽ với khám nghiệm hiện trường, khám
xe liên quan để tìm hiểu vị trí, tư thế của
nạn nhân khi tai nạn xảy ra.
Theo Charles S. Hirsch, để có thể nhận
định thương tích ở vùng đầu mặt của nạn
nhân trong các vụ tai nạn giao thông là do
va đập trực tiếp hay do nạn nhân bị ngã
đầu va đập mạnh với vật cứng, cố định có
diện rộng thì cần dựa trên những đặc điểm
vết thương tích trên da đầu, vị trí, đặc
điểm và chiều hướng của đường vỡ sương
sọ, dấu hiệu máu tụ ngoài màng cứng và
tổn thương dập não bên đối diện. Phải kết
hợp với những dấu hiệu lâm sàng qua lời
khai nhân chứng hoặc trên hồ sơ bệnh án
điều trị tại các cơ sở y tế (nếu có).
Cần phân biệt những dấu hiệu lâm sàng
của tổn thương nguyên phát trong chấn
thương sọ não (rối loạn thần kinh chức
năng, mất ý thức hoặc rối loạn hoạt động
tự chủ ngay sau khi bị chấn thương) với
dấu hiệu của tổn thương thứ phát của
chấn thương sọ não như dấu hiệu chảy
máu thứ phát từ các mạch máu gây máu
tụ ngoài màng cứng hoặc dưới màng
cứng, tình trạng phù não tăng dần sau
chấn thương, ảnh hưởng của các rối loạn
toàn thân như thiếu ôxy máu, tăng CO2
máu, giảm khối lượng tuần hoàn trong các
trường hợp sốc đa chấn thương hoặc mất
máu cấp.
Tổn thương của các tạng trong ngực,
bụng có khi chỉ là vết tụ máu ở gốc
những tạng lớn hoặc gốc mạc treo
ruột nhưng cũng có thể là dập vỡ
tạng nếu có va đập mạnh hoặc bị
bánh xe ôtô đè qua sau khi nạn nhân
ngã xuống đường.
Thương tích do bánh xe ôtô đè
qua người
Dấu vết: Dấu vết của bánh xe ôtô lăn qua cơ thể
Trên cơ thể: Tùy từng vùng cơ thể bị bánh xe ôtô
lăn qua mà dấu vết để lại có thể hoặc không rõ,
trường hợp bị bánh xe đè qua vùng đầu dấu vân
lốp ôtô thường không rõ, chủ yếu là tổn thương
rất nặng như vết sây sát,rách da, biến dạng đầu
mặt, vỡ xương hộp sọ, xương hàm mặt thành
nhiều mảnh, dập nát tổ chức não hoặc có khi
toàn bộ não thoát ra ngoài qua đường vỡ xương.
Vết bánh xe
Trong giám định y pháp việc chẩn đoán có
dấu vết vân lốp ôtô trên cơ thể nạn nhân
có ý nghĩa rất quan trọng với công tác
điều tra, xét xử....
Dấu vết trên quần áo, trên thân thể nạn
nhân nếu rõ ràng sẽ là căn cứ khoa học
vững chắc, nhưng trong nhiều trường hợp
chuẩn đoán dấu vân lốp rất khó khăn do
dấu vết trên quần áo, trên da không rõ
ràng, do đó phải dựa vào đặc điểm và
mức độ tổn thương bên trong và điều
quan trọng là phải tìm được dấu vết lóc da
ở vùng nghi ngờ bánh xe ôtô đè qua.
Vết lóc da: do bánh xe ôtô vừa đè ép, vừa
quay tròn làm tách rời lớp da và tổ chức
cân, cơ hoặc xương ở phía dưới tạo thành
những ổ, túi chứa đầy máu, có khi gây ra
những vết rách da rộng nếu bánh xe đè
qua những vùng da sát xương. Dấu hiệu
lóc da có thể dể quan sát nếu ở vùng da
ít cơ hoặc sát xương, ở vùng da cơ dày
như vùng lưng, mông dấu hiệu này khó
quan sát đặc biệt khi không có dấu hiệu
vân lốp ở bên ngoài.
Vết rạn da: thường gặp ở nếp bẹn
hai bên hoặc những vùng da sát
xương do bánh xe ôtô đè qua làm
cho da bị kéo giãn căng quá mức,
tạo nên những vết rách, rạn thành
nhiều vết nhỏ. Thường kèm theo tồn
thương nặng ở phía dưới vùng rạn da
như tụ máu rộng, lóc da, gẫy vỡ
xương, dập vỡ tạng.
Tổn thương bên trong: tổn thương do
bánh xe ôtô đè qua cơ thể thường rất
nặng, ngoài những tổn thường ở vùng đầu
mặt, trong phần lớn các trường hợp bánh
xe đè qua ngực, bụng hoặc các chi đều
gây ra dập vỡ tạng, gẫy vỡ xương, rách
đứ dây chằng, cân cơ, mạch máu có khi
làm vỡ thành bụng, rách cơ hoành hoặc vỡ
thành ngực và nặng hơn có thể làm đứt
rời cơ thể trong những trường hợp bị nhiều
xe tải hạng nặng đè qua. Cần đo kích
thước và vẽ sơ đồ chi tiết vùng cơ thể bị
dập nát, gẫy vỡ xương để nhận dạng kích
thước, chủng loại lốp xe ôtô.
Vết sây sát da
Rách động mạch chủ &
vỡ tim
Gãy xương
Bánh xe ôtô đè qua vùng hông thường làm
biến dạng khung chậu, gây rách, rạn da
vùng nếp bẹn hoặc tầng sinh môn kèm
những ổ lóc da kín đáo ở vùng mông hoặc
mặt sau hai đùi. Bên cạnh những tổn
thương do bánh xe ôtô đè qua có thể gặp
nhiều loại hình thương tích khác như do va
húc trực tiếp, va đập hoặc lê quệt trên
mặt đường nhưng cũng có khi chỉ gặp một
loại tổn thương do bánh xe lăn qua cơ thể
nạn nhân.
Người điều khiển và ngồi sau xe máy:
Do đặc điểm cấu tạo của xe máy nên người
điều khiển và người ngồi trên xe máy rất dễ bị
chấn thương khi tai nạn xảy ra. Trên thực tế
trong cùng một vụ tai nạn, thương tích có thể rất
nhẹ hoặc không cần phải điều trị đối với người
ngồi trên xe ôtô nhưng với người ngồi trên xe
máy thường phải chịu tổn thương rất nặng, có khi
gây tử vong. Trên thế giới nguy cơ tử vong cho
người tham gia giao thông bằng xe máy cao gấp
35 lần so với người trên xe ôtô. Tại Việt Nam số
nạn nhân chết do tai nạn giai thông liên quan đến
xe máy đứng hàng đầu với tỷ lệ từ 60 – 70%.
Hoàn cảnh xảy ra tai nạn: rất đa dạng và
phức tạp, trong một nghiên cứu của chúng
tôi trên những nạn nhân tử vong do tai
nạn xe máy cho thấy số vụ tai nạn xe máy
liên quan ôtô chiếm tỷ lệ 61,2%, khoảng
20% số vụ tai nạn xe máy đâm nhau
ngược chiều hoặc tại đường giao nhau,
10% số vụ tai nạn xe máy tự đâm vào giải
phân cách, cột điện, gốc cây...(thống kê
tại Bệnh viện Việt Đức và Tổ chức Giám
định Y pháp trung ương trong thời gian
1999 – 2000).
Cơ chế hình thành thương tích rất đa
dạng, phức tạp, nhiều trường hợp không
thể lý giải nhưng hay gặp nhất là tổn
thương do nạn nhân bị ngã văng ra khỏi
xe (với lái xe và người ngồi sau) có thể
gặp tổn thương nguyên phát, thứ phát và
tổn thương do tăng giảm tốc độ đột ngột
trên thân thể nạn nhân.
Ngoài việc gây chấn thương với những
người ngồi trên xe máy, người đi bộ dưới
lòng đường hoặc khi sang đường cũng có
thể là nạn nhân trong các vụ tai nạn xe
máy mà hay gặp nhất là ở những người
cao tuổi, trẻ em.
Đặc điểm tổn thương
Chấn thương sọ não:
tỷ lệ chấn thương sọ não do tai
nạn giao thông đường bộ hiện đang
là vấn đề nhức nhối trên toàn cầu,
chỉ riêng tại nước Mỹ cứ trung bình
15 giây có một người bị chấn thương
sọ não và trung bình 12 phút thì có
một người tử vong do chấn thương
sọ não, chiếm 60% tổng số nạn nhân
tử vong do tai nạn giao thông.
Tỷ lệ chấn thương sọ não ở Việt Nam
cũng trong tình trạng báo động qua
số liệu đã được công bố: theo Dương
Chạm Uyên và cộng sự thì số nạn
nhân bị chấn thương sọ não trong
các vụ tai nạn giao thông là 70%, tỷ
lệ này tại Bệnh viện Việt Đức là 77%,
trong nghiên cứu của chúng tôi, số
những nạn nhân tử vong vì chấn
thương sọ não trong tai nạn xe máy
chiếm tỷ lệ 67%.
Giám định y pháp
Chia chấn thương sọ não thành những nhóm chính
dựa trên cơ chế tác động và tổn thương của sọ
não, đó là tổn thương do va đập, do bị đè ép và
tổn thương do tăng/ giảm tốc độ đột ngột.
1. Tổn thương do va đập: được hình thành do tác
động của một vật vào vùng đầu nạn nhân hoặc
do chính đầu nạn nhân va đập vào các vật cứng
như: thành xe ôtô, mặt đường, vỉa hè, gốc cây....
Những tổn thương này thương gây nên tổn
thương khu trú tại nơi va chạm, hay gặp nhất là:
- Tổn thương phần mềm: sây sát da, rách da, tụ
máu hoặc đụng dập da đầu.
Vỡ xương sọ: có thể chỉ là đường vỡ
xương đơn thuần kèm dập não bên đối
diện nhưng cũng có nhiều trường hợp tổn
thương rất nặng như bẹp, biến dạng hộp
sọ, cần phân biệt vỡ xương sọ do va húc
trực tiếp với vỡ xương sọ do bị ngã đập
đầu xuống nền cứng.
Máu tụ ngoài màng cứng hoặc tụ máu
trong não: cần lưu ý tổn thương dập não
cùng bên với vùng bị tác động và tổn
thương bên đối diện.
2. Tổn thương do bị đè ép: gặp trong
các trường hợp bị bánh xe ôtô đè qua
vùng đầu của nạn nhân hoặc trong
trường hợp ôtô đổ, thành xe đè lên
đầu nạn nhân gây ra tổn thương rất
nặng nề, đầu mặt nạn nhân biến
dạng, hộp sọ vỡ thành nhiều mảnh,
tổ chức não dập nát, có khi thoát ra
ngoài qua đường vỡ xương sọ.
3. Tổn thương do tăng giảm tốc độ đột ngột:
do đầu nạn nhân chuyển động nhanh
mạnh, bất ngờ và theo nhiều hướng khác
nhau trong cùng thời điểm làm tăng áp lực
nội sọ và gây tổn thương mô não do mạch
máu, sợi thần kinh bị xé rách hoặc bị giãn
căng quá mức tổn thương tụ máu dưới
màng cứng và tổn thương sợi trục lan tỏa.
* Tụ máu dưới màng cứng: các mạch máu
bị tổn thương do bị kéo giãn chủ yếu là
tĩnh mạch nối giữa màng cứng với mô não
khi toàn bộ mô não chuyển động theo
quán tính.
* Tổn thương sợi trục lan tỏa: tổn thương
thứ phát sau khi đầu bị va chạm vào một
vật cố định. Cũng có giả thiết cho rằng lực
va đập không phải là yếu tố quyết định để
gây ra những tổn thương này mà điều
quan trọng là sự chuyển động bất ngờ
theo kiểu rung lắc của hộp sọ. Trong giám
định y pháp tổn thương do tăng giảm tốc
độ đột ngột bao giờ cũng có liên quan đến
lực va đập vào cơ thể (vùng đầu mặt cổ)
của nạn nhân và trong nhiều trường hợp
dấu hiệu va đập rất có ý nghĩa trong chẩn
đoán y pháp.
Mặc dù bảo hiểm có thể làm giảm nguy cơ
chấn thương sọ não đến 88% nếu xe chạy
với tốc độ dưới 35 km/h, với trường hợp
xa chạy tốc độ từ 60 km/h trở lên thì mũ
bảo hiểm ít có khả năng bảo vệ và trên
thực tế đã có rất nhiều nạn nhân đội mũ
bảo hiểm chạy xe với tốc độ lớn đâm vào
dải phân cách làm vỡ mũ bảo hiểm gây
chấn thương hoặc vết thương sọ não và
chấn thương cột sống cổ, rất nhiều trường
hợp nạn nhân chết ngay tại hiện trường do
bị vết thương quá nặng.
Độ lớn của lực tác động đủ để làm vỡ
xương sọ rất thay đổi và tùy thuộc
vào độ dày của tóc, da đầu và xương
sọ, phụ thuộc vào vị trí xương sọ bị
tác động, chiều hướng của lực tác
động và rất nhiều yếu tố khác mà
không thể đánh giá hết được. Tổn
thương vỡ xương sọ có thể chỉ đơn
thuần do bị ngã từ độ cao khoảng 1
m hoặc bị ngã từ ở độ cao ngang với
vị trí đứng của cơ thể.
Hình đường thẳng: bắt nguồn từ điểm tác
động chạy lan theo vùng xương sọ có kết
cấu yếu nhất. Ví dụ lực tác động vào vùng
trán thường làm vỡ tầng sọ trước – va đập
vào vùng thái dương thường làm vỡ tầng
sọ giữa.
Hình sao: thường lan ra các phía theo hình
đường thẳng hoặc hình cung.
Hình mạng nhện: đường vỡ xương sọ tạo
thành hình mạng nhện.
Vỡ lún: phần xương bị vỡ lún vào phía
trong.
Hình đường vỡ xương sọ
Hình tròn: thường ở xung quanh lỗ chẩm
hoặc đỉnh đầu, thường gặp trong các
trường hợp ngã từ cao chạm 2 chân hoặc
đỉnh đầu với mặt cứng.
Vỡ rạn theo đường khớp: thường gặp vỡ
nền sọ, rất hay gặp trong tai nạn xe máy
hoặc bị đánh vào vùng cấm.
Tổn thương xương bên đối diện: hay gặp
trong các trường hợp ngã đầu va đập
mạnh vào một vật cứng thường gây dập
vỡ, tụ máu xương trần hố mắt do lực tác
động lan truyền qua xương sọ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bai_giang_ton_thuong_do_tai_nan_giao_thong_duong_bo.pdf