Báo cáo Chuyên đề Xác định các định hướng chiến lược quản lý tổng hợp vùng bờ vịnh Hạ Long - Quảng Ninh

Danh sách bảng .1

Danh sách Hình .1

Các thuật ngữ .2

Giới thiệu .4

1. Tổng quan về vùng bờ Hạ Long .8

Vị trí và các đặc điểm hành chính:.8

Đặc điểm tự nhiên, KTXH .10

Khí tượng thuỷ văn .10

Địa hình.11

Dân số và cơ sở hạ tầng .11

Cơ cấu sử dụng đất.12

Cơ cấu phát triển kinh tế.12

2. Các vấn đề/ đe doạ đối với vùng bờ Hạ Long .13

Gia tăng tải lượng các chất ô nhiễm đến môi trường biển và ven bờ .14

Mất các sinh cảnh quan trọng, đặc biệt là rừng và các hệ sinh thái biển.16

Suy giảm nguồn lợi hải sản.18

Gia tăng bồi lắng ở các khu vực cửa sông, ven biển, khu vực cảng;.19

Gia tăng sự cố môi trường: sự cố tràn dầu, xói lở bờ sông và bờ biển.19

Thiếu nước sạch cho dân cư, tưới tiêu và các hoạt động khác .21

Suy giảm chất lượng nước biển ven bờ.21

Các vấn đề về thể chế.22

3. Các định hướng chiến lược Quản lý Tổng hợp Vùng bờ (QLTHVB) vịnh Hạ

Long .25

Cơ sở xây dựng Chiến lược.25

Nhu cầu của địa phương .25

Kinh nghiệm trong nước và quốc tế.25

Những cản trở thách thức đối với QLTHVB:.26

Các thoả thuận quốc tế quan trọng liên quan đến quản lý môi trường vùng ven

bờ.26

pdf42 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 12/02/2022 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Chuyên đề Xác định các định hướng chiến lược quản lý tổng hợp vùng bờ vịnh Hạ Long - Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuần Châu, các thôn Cái Dăm, Cái Lân, Ðồng Mang, Giếng Ðáy,. Ngày nay, các hoạt động dịch vụ và công nghiệp rất phát triển bao gồm dịch vụ du lịch, thương mại, giao thông vận tải, vận hành các khu công nghiệp đã thu hút nhiều nhân lực của vùng bờ. Bảng 2. Dự báo về nguồn nhân lực đến năm 2010 (người ) Số lao động 2000 2001 2005 2010 Tổng số 165.211 184.000 209.000 279.700 Lao động trong độ tuổi lao động 94.886 105.800 119.000 160.000 Kết quả dự báo cho thấy, nguồn nhân lực của thành phố rất dồi dào, đến năm 2010, thành phố cần phải tạo ra trên 6 vạn việc làm (chưa kể đến việc giải quyết việc làm cho lao động dôi dư do khai thác than bị thu hẹp dần và các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới), đây vừa là mặt thuận lợi vừa là khó khăn cho thành phố. Cơ cấu sử dụng đất Đất dùng cho nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ, chỉ khoảng 2-8%, chủ yếu dùng cho trồng lúa hoặc cây ăn quả lâu năm. Đất ở và đất đặc dụng chiếm khoảng 43% ở Hạ Long, chủ yếu được sử dụng cho xây dựng, vận tải, tưới tiêu, dân cư đô thị và khai thác khoáng sản. Còn lại là đất rừng và đất không sử dụng. Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá và phát triển kinh tế tăng nhanh, cơ cấu sử dụng đất cũng chuyển dịch theo hướng giảm diện tích đất rừng và đất nông nghiệp, tăng diện tích đất ở, đất cho các khu công nghiệp, cảng và khai thác khoáng sản. Cơ cấu phát triển kinh tế Từ 2001 đến 2004, tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức 12-13%, cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giảm tỷ trọng phát triển ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tỷ trọng phát triển công nghiệp và xây dựng cơ bản. Hình 4 chỉ ra cơ cấu kinh tế của Quảng Ninh trong những năm gần đây. Hình 4. Cơ cấu kinh tế của Quảng Ninh 2001-2004 13 9.2 52.3 38.5 8.6 52.1 39.2 8.7 53 38.4 8.3 54.2 37.5 0% 20% 40% 60% 80% 100% 2001 2002 2003 2004 C¬ cÊu kinh tÕ Qu¶ng ninh qua c¸c n¨m 2001-2004 DÞch vô C«ng nghiÖp, XDCB N«ng, l©m, ng− nghiÖp Nguồn: Niên giám thống kê Quảng Ninh 2004 2. Các vấn đề/ đe doạ đối với vùng bờ Hạ Long Vùng bờ vịnh Hạ Long là nơi có nhiều hệ sinh thái nhạy cảm với các tác động của tự nhiên và con người. Về tự nhiên: Vùng ven biển là nơi chịu thiệt hại nhiều nhất do bão, nước dâng trong bão và thuỷ triều cao, có thể tàn phá nhà cửa, ruộng vườn và cơ sở hạ tầng. Ngoài ra vùng ven biển cũng tiềm ẩn nguy cơ gió lốc, vòi rồng và sóng thần. Ước tính sóng thần có thể đạt đến độ cao cực đại là 4m. Khi có sóng thần, chiều rộng của dải đất ngập nước tính từ bờ biển và dải đất thấp ven biển phải chịu ảnh hưởng có thể đạt đến 40 km, tức là toàn bộ vùng bờ vịnh Hạ Long, trong đó vùng nhạy cảm nhất với sóng thần, bão là các đảo ngoài vịnh Hạ Long. Mặc dù vậy, hiện tại đa số dân sống ở vùng ven biển làm nghề nông nghiệp, đánh bắt cá và nuôi trồng thuỷ sản (50% tại các xã ven biển). Họ là những người sống chủ yếu nhờ vào nguồn lợi của biển và cũng là những người phải chịu tổn thương nhiều nhất do các thảm hoạ thiên nhiên liên quan đến biển như bão biển, ngập lụt, xói lở,... Do vậy, việc nghiên cứu và đưa ra các biện pháp phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai đối với vùng bờ là vô cùng cần thiết. 14 Về con người: Đây là vùng bờ có đa dạng các loại hình hoạt động kinh tế - xã hội, đan xen của nhiều ngành và của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Những đe doạ/vấn đề đã được nhận diện đối với vùng bờ vịnh Hạ Long bao gồm: • Gia tăng tải lượng các chất ô nhiễm đến môi trường biển và ven bờ; • Mất các sinh cảnh quan trọng, suy thoái các nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên rừng và đa dạng sinh học biển; • Suy giảm nguồn lợi hải sản; • Gia tăng bồi lắng ở các khu vực cửa sông, ven biển, khu vực cảng; • Gia tăng sự cố môi trường: sự cố tràn dầu, xói lở bờ sông và bờ biển; • Suy giảm chất lượng nước mặt, nước biển ven bờ. Gia tăng tải lượng các chất ô nhiễm đến môi trường biển và ven bờ Các chất ô nhiễm vào môi trường biển chủ yếu từ nước thải, rác thải do sinh hoạt của dân cư trong các khu đô thị đông đúc của Hòn Gai và Bãi Cháy, hoạt động của các nhà máy, cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp và tàu thuyền vận tải hàng hoá và khách du lịch. Trong mấy năm gần đây, do sức ép dân số và tốc độ tăng dân số nhanh, đặc biệt ở các khu vực tập trung dân cư sát bờ biển của Thành phố Hạ Long làm gia tăng lượng chất thải trong điều kiện cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Cho đến nay, lượng nước thải mới chỉ thu gom và xử lý được là 2500m3/ngày, lượng nước thải chưa qua xử lý được thải trực tiếp vào môi trường biển hoặc vào sông hay hệ thống cống rãnh rồi chảy ra biển. Các chất ô nhiễm chính trong dòng nước thải sinh hoạt bao gồm: BOD, COD, SS, T-N, T-P, dầu thải và các chất hữu cơ. Đây là nguồn ô nhiễm quan trọng, gây tác động lớn đến môi trường. Ngoài ra, còn lượng nước thải từ các khu dân du cư sống trên các thuyền bè, sinh hoạt của thuỷ thủ và dân sống trên các đảo. Chất thải rắn sinh hoạt cũng là nguồn đáng kể gây ô nhiễm môi trường, tỷ lệ thu gom chất thải tại đô thị chỉ đạt khoảng 60-70%, tại nông thôn đạt 40-50%. Việc thu gom chất thải chưa được thực hiện ở các đảo. Chất thải của các vùng đó chủ yếu do dân cư tập trung tại vườn rồi đốt hoặc ủ làm phân bón gây ô nhiễm môi trường. Chất thải từ hoạt động khai thác mỏ có thể coi là đáng kể nhất của ngành công nghiệp. Năm 2004, khoảng 115 triệu tấn đất, đá đã thải vào môi trường. Khối lượng đất đá khổng lồ này cùng với nước thải từ quá trình sàng tuyển than gây các tác động sau: • Mất sinh cảnh vùng ven bờ, đặc biệt là mất rừng, tăng diện tích đất trống đồi trọc. 15 • Suy giảm chất lượng nước mặt do gia tăng độ đục, chất rắn lơ lửng, kim loại nặng. • Gây ô nhiễm trầm tích đáy. • Suy giảm các hệ sinh thái quan trọng như rạn san hô, thảm cỏ biển, bãi tôm cá. • Gây ô nhiễm không khí do bụi và ồn ở các vùng khai thác và vùng lân cận. • Bồi lấp trong các lưu vực sông, vùng ven biển. Các hoạt động của ngành du lịch hiện tại và trong tương lai cũng đóng góp đáng kể vào tải lượng ô nhiễm. Chất thải rắn, lỏng từ hoạt động du lịch trên biển mới chỉ thu gom đạt 70-80%, do kinh phí hoạt động còn hạn chế, tàu thu gom rác chưa đáp ứng nhu cầu. Trong tương lai khi lượng khách đạt hơn 1 triệu/năm, ngành du lịch cần đầu tư vào hệ thống thu gom chất thải từ các tàu thuyền du lịch và trên các đảo. Hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản cũng có tiềm năng gây gia tăng các chất ô nhiễm, đặc biệt các chất hữu cơ, thuốc kháng sinh từ các vùng nuôi thâm canh, bán thâm canh và nuôi lồng bè trên biển và dầu thải từ tàu thuyền đánh bắt gần bờ và xa bờ đang ngày càng phát triển. Hoạt động nạo vét và đổ bùn thải xuống biển: Mỗi năm tổng lượng bùn thải đổ ra vùng nước biển lân cận vịnh Hạ Long lên đến 3 triệu m3, trong số đó, chủ yếu là bùn nạo vét từ các cảng sông và cảng biển. Số lượng bùn cát này là các tác nhân có thể gây đục, ô nhiễm nước và lan truyền sang khu vực vịnh Hạ Long. Bảng 4. Ước tính tổng thải lượng chất ô nhiễm trong vùng bờ vịnh Hạ Long (kg/ngày) Sinh hoạt Du lịch Công nghiệp Nuôi trồng thuỷ sản Phân tán Tổng BOD 4.661 147 2.168 1.299 861 9.136 COD 7.178 181 4.916 20.135 3.258 35.668 TSS 12.398 279 99.975 92.142 150.000 354.794 T-N 3.775 80 7.695 612 3.052 15.214 T-P 466 10 3.673 107 124 4.380 16 Hình 5. Tỷ lệ tổng thải lượng TSS, BOD vào vịnh Bãi Cháy và Hạ Long Mất các sinh cảnh quan trọng, đặc biệt là rừng và các hệ sinh thái biển Vùng bờ Hạ Long có diện tích đồi núi và rừng chiếm tỷ lệ lớn, nhưng rừng tự nhiên của Hạ Long đã bị suy giảm mạnh về diện tích và chất lượng: hiện nay các khu rừng nguyên sinh, kể cả rừng Ba Mùn cũng bị khai thác cạn kiệt. Sự chuyển đổi từ đất rừng giàu sang đất rừng trung bình và nghèo, từ đất cây gỗ tạp sang đất cây bụi và cỏ, từ đất cây bụi và cỏ sang đất trống, trọc diễn ra với tốc độ nhanh ngay cả ở những vùng núi và hải đảo. Sinh cảnh rừng ngập mặn có giá trị lớn về sinh thái, điều hoà môi trường, ngăn sóng bão, ổn định bờ biển. Nhưng do chưa nhận thức được giá trị và vai trò của chúng, nhiều khu rừng đã bị phá huỷ và chuyển Tû lÖ ®ãng gãp TSS tõ c¸c nguån 26.0% 42.3% 3.5% 28.2% 0.1% Sinh ho¹t Du lÞch C«ng nghiÖp Nu«i trång TS Ph©n t¸n Tû lÖ ®ãng gãp BOD tõ c¸c nguån 51.0% 23.7% 1.6% 14.2% 9.4% Sinh ho¹t Du lÞch C«ng nghiÖp Nu«i trång TS Ph©n t¸n Suy gi¶m diÖn tÝch rõng ngËp mÆn qu¶ng Ninh 40.00 24.00 22.45 22.97 22.02 0.00 10.00 20.00 30.00 40.00 50.00 1983 1997 2000 2001 2002 N¨m Ngµn ha Hình 6. Suy giảm diện tích RNM của Quảng Ninh 17 đổi mục đích sử dụng sang nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng khu dân cư đô thị, đất nông nghiệp hoặc xây dựng các công trình hạ tầng hoặc khu công nghiệp. Sinh cảnh rạn san hô có năng suất sinh học cao và là nơi cư trú của nhiều loài hải sản quý hiếm, nhưng cũng bị suy giảm về độ phủ, thành phần loài và diện tích. Nguyên nhân xác định được là do sự khai thác, đánh bắt thuỷ sản chưa hợp lý, sử dụng các công cụ đánh bắt có tính huỷ diệt như mìn, xung điện và các loại lưới rê, lưới vét, thả neo trên vùng rạn. Ngoài ra, việc khai thác san hô bất hợp pháp làm vật liệu xây dựng, làm đồ thủ công mỹ nghệ và sự gia tăng độ đục và trầm lắng trong nước biển cũng là những nguyên nhân trực tiếp gây suy giảm các rạn san hô. Trước những năm 1970, hang Đầu Gỗ và đảo Tuần Châu là nơi phân bố chính của thềm cỏ biển ở Vịnh Hạ Long, nhưng diện tích của chúng đã bị thu hẹp đáng kể. Hiện nay, cỏ biển phân bố ở phía nam Vịnh Hạ Long, dọc bờ đảo Hang Trai, Đầu Bê, Cống Đỏ, Bo Hung và Cống Tây. Các tác nhân ảnh hưởng tiềm tàng đến cỏ biển bao gồm sự sa lắng trầm tích và sự chuyển đổi các vùng có cỏ biển thành nơi nuôi trồng thuỷ sản, lấn biển làm khu du Sù suy gi¶m sè loµi san h« trªn vÞnh H¹ Long 1998-2010 73 59 78 51 58 39 29 22 27 48 30 22 15 20 35 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Cèng L¸ Ba Tr¸i §µo Hang Trai Cèng §á Cäc ChÌo lo µi Tr−íc n¨m 1998 N¨m 2003 Dù ®o¸n n¨m 2010 Suy gi¶m ®é phñ san h« sèng trªn vÞnh H¹ Long 1998-2010 29.3 85.7 78.1 28.3 68.4 17 44.6 65 1 55.9 14 35 50 1 45 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Cèng L¸ Ba Tr¸i §µo Hang Trai Cèng §á Cäc ChÌo % Tr−íc n¨m 1998 N¨m 2003 Dù ®o¸n n¨m 2010 Hình 7. Suy giảm số loài và độ phủ của san hô Hạ Long 18 lịch. Cỏ biển cung cấp sinh cảnh và là nơi nuôi dưỡng động vật biển, cung cấp vật chất làm ổn định, bảo vệ bờ biển tránh xói mòn. Mất các thảm cỏ biển sẽ gây suy giảm nguồn lợi thuỷ sản và mất các chức năng bảo vệ bờ biển. Sự suy giảm các sinh cảnh quan trọng trong vùng bờ Hạ Long cũng kéo theo sự suy giảm về đa dạng sinh học do mất các loài sống trong các sinh cảnh đó. Một số loài quý hiếm như bò biển, cá heo, ... đã từng xuất hiện trong vùng biển vịnh Hạ Long, đến nay gần như không còn thấy nữa. Một số loài cây dược liệu quý trong rừng tự nhiên và rừng ngập mặn cũng bị mất. Suy giảm nguồn lợi hải sản Mặc dù sản lượng khai thác hải sản tăng qua các năm, nhưng việc khai thác, đánh bắt thuỷ hải sản vẫn chủ yếu tập trung ở vùng gần bờ. Có thể thấy sự cạn kiệt nguồn lợi hải sản thông qua các chỉ thị như tỷ lệ hải sản chưa đến tuổi trưởng thành tăng cao trong tổng số hải sản đánh bắt được; suy giảm loài cá có giá trị kinh tế như họ cá Hồng, cá Sạo và cá Phèn; nguy cơ tuyệt chủng một số loài quý như tôm hùm, cá mòi, bào ngư bầu dục và suy giảm sản lượng đánh bắt khi sử dụng cùng loại công cụ,... Ở các vùng ven bờ vịnh Hạ Long với độ sâu từ 0-20m đã bị khai thác quá mức, việc khai thác hiện nay chỉ có thể gia tăng ở các vùng nước sâu trên 20m, đặc biệt là các vùng nước sâu trên 50m. Các nguyên nhân suy giảm nguồn lợi hải sản đã xác định được là do: • Sự bùng nổ của các phương tiện đánh bắt có động cơ nhỏ ở các vùng ven bờ, Tàu khai thác gần bờ chiếm tới 97%, công nghệ lạc hậu, khai thác thiếu chọn lọc, năng suất thấp. Mật độ tàu khai thác tập trung cao tới 30-50 tàu/km2, trình độ dân trí thấp. • Sử dụng các loại dụng cụ đánh bắt có tính huỷ diệt, ảnh hưởng lớn đến khả năng phục hồi nguồn lợi, như dùng chất nổ, xung điện để đánh bắt và dùng các loại lưới có mắt dày để bắt cả những cá thể chưa đạt độ trưởng thành. • Mất các sinh cảnh nuôi dưỡng nguồn lợi thuỷ sản như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, bãi triều, • Ô nhiễm môi trường nước: suy giảm nồng độ DO ở một số vùng nước nông ven bờ, gia tăng kim loại nặng (Kẽm, Chì, Cadimi...), chất rắn lơ lửng, dầu mỡ và thuốc trừ sâu trong nước cũng là các tác nhân có khả năng gây rủi ro cho nguồn lợi hải sản trong vịnh. 19 • Luật pháp, quy chế chưa thích hợp và việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường còn yếu là những mối đe dọa đối với chất lượng nước và nguồn lợi vùng bờ. Các hậu quả của sự suy giảm nguồn lợi bao gồm: • Mất các loài có giá trị kinh tế lớn • Suy giảm sản lượng • Mất các loài đặc hữu • Ảnh hưởng đến đa dạng sinh học qua chuỗi dinh dưỡng • Mất thu nhập của ngư dân, tác động đến đời sống người dân Gia tăng bồi lắng ở các khu vực cửa sông, ven biển, khu vực cảng; Sự gia tăng bồi lắng ở các lưu vực sông, nhất là vùng cửa sông, vùng ven biển và trong các khu vực cảng gây ảnh hưởng bất lợi đến các hoạt động kinh tế xã hội, đặc biệt đối với ngành giao thông thuỷ. Để duy trì hoạt động của các cảng biển, do đó, cần phải thường xuyên nạo vét vì hầu hết các cảng bị sa bồi. Chỉ tính riêng cảng Cái Lân, khối lượng bùn đất nạo vét trong khu vực cảng và luồng tàu đã lên đến hơn 1 triệu m3. Chất thải nạo vét được đổ ra vùng khơi vịnh Bắc Bộ (Hòn Đá Lẻ và Mũi Mác), gây ảnh hưởng đến chất lượng nước biển khu vực vịnh Hạ Long (gia tăng độ đục, kim loại nặng), tăng chi phí vận hành cảng. Nguyên nhân gây bồi lắng là do mất rừng ở thượng nguồn sông làm đất đá bị sạt lở và rửa trôi theo mưa lũ, hoạt động khai thác than tạo ra nhiều vùng đất trọc, mất rừng bảo vệ ven biển có tác dụng bẫy trầm tích cũng là nguyên nhân chính gây bồi lắng các vùng cửa sông ven biển. Gia tăng sự cố môi trường: sự cố tràn dầu, xói lở bờ sông và bờ biển Trong khu vực có nhiều cảng biển như Cảng Cái Lân, cảng dầu B12, cảng than,. Cảng Cái Lân đang được cải tạo và mở rộng cho phép tàu 5 vạn tấn ra vào cảng. Đến năm 2010, cảng 20 sẽ có 14 cầu tầu với thông lượng hàng hoá qua cảng đạt 14,3 triệu tấn/năm; cảng dầu B12 có công suất thiết kế 2 triệu tấn/năm, có khả năng tiếp nhận tàu 3 vạn tấn. Ngoài ra, cảng còn có hệ thống ống dẫn dầu vào bờ dài 250km và hệ thống kho chứa xăng dầu 95.000m3. Năm 1996 gần 1,8 triệu tấn dầu và sản phẩm dầu đã được vận chuyển qua cảng và con số đó sẽ là 3,5-4,0 triệu tấn vào năm 2010. Với các hoạt động vận tải lớn như vậy, tiềm năng rủi ro do sự cố va chạm, rò rỉ và tai nạn là rất lớn, nguy cơ tràn dầu và hoá chất trong khu vực vịnh rất cao, có khả năng gây tác động lớn đến chất lượng môi trường nước khu vực. Bảng 5. Nồng độ dầu trong nước và trầm tích vịnh Bãi Cháy Dầu, mỡ NĐMTB NĐMMax NĐN HRTB HRMax Trong nước (n=360) (mg/l) 0,3 2,3 0,3 1,0 7,9 Trong trầm tích (n=43) (mg/kg) 25,9 70,2 - - - Nguồn: Chương trình Quan trắc môi trường Dự án Mở rộng cảng Cái Lân 2001-2003 Ghi chú: NĐMTB: Nồng độ trung bình; NĐNMax: Nồng độ cực đại; NĐN: giá trị ngương/tiêu chuẩn; HR: Hệ số rủi ro (trung bình và cực đại) Bảng 6. Dầu mỡ trong nước và trầm tích tại trạm Cửa Lục 2002-2004 (mg/l) Dầu, mỡ NĐMTB NĐMMax NĐN HRTB HRMax Trong nước (n=8) (mg/l) 0,8 1,1 0,3 2,8 3,7 Trong trầm tích (n=8) (mg/kg) 324,6 752,9 - - - Nguồn: Chương trình Quan trắc quốc gia 2002-2004, Trạm Cửa Lục 21 Mặt khác, hoạt động của tàu thuyền trong du lịch và khai thác hải sản tại vùng vịnh Hạ Long cũng rất phát triển. Năm 2000, tỉnh Quảng Ninh có 4.347 tàu thuyền, tổng công suất 64.745 CV. Việc chưa có quy định về thu gom, xử lý nước la canh có lẫn dầu và dầu thải máy của các tàu thuyền, cộng với tình trạng tàu thuyền cũ cũng gây ô nhiễm biển do dầu. Các đầu mối giao thông đường biển (bến cảng, vùng neo đậu tàu, luồng tàu) là nơi tập trung nguy cơ tràn dầu lớn nhất. Từ năm 1998 đến 2001 trong khu vực đã có 20 vụ tràn dầu lớn nhỏ. Theo các số liệu điều tra, hàng năm các bãi triều cao đều bị xói lở khoảng 0,5-2m do hoạt động xâm thực của dòng triều. Các xã Tuần Châu và Hà Tu có tình trạng xói lở mạnh nhất với độ dài đoạn xói đến 2,5km. Một trong những nguyên nhân gây xói lở bờ biển là do mất các HST có tác dụng ngăn sóng, bảo vệ bờ biển như RNM, suy giảm các RSH, mất các bãi triều có tác dụng bẫy phù sa, bổ sung trầm tích cho bờ biển. Xói lở bờ biển gây thiệt hại đối với các công trình ven bờ, tài sản của cư dân và cộng đồng, đặc biệt trong các trận bão lớn và triều cường, sạt lở nghiêm trọng có thể xảy ra tại các xã/huyện trên. Thiếu nước sạch cho dân cư, tưới tiêu và các hoạt động khác Nhu cầu nước cho nông nghiệp, các khu du lịch, khu công nghiệp, đô thị... tăng nhanh trong những năm gần đây, trong khi hạ tầng cơ sở chưa được đầu tư thoả đáng dẫn tới khả năng đáp ứng có hạn. Tỷ lệ cung cấp nước sạch trung bình cho các đô thị thành phố Hạ Long chỉ đạt 80-85%, và cho các vùng nông thôn chỉ đạt trên 50%. Diện tích đất được tưới đến năm 2004 đạt khoảng 70%. Trong tương lai, các nguồn nước cấp cho Thành phố sẽ ngày càng khan hiếm hơn do sự xâm nhập mặn và ô nhiễm các giếng nước ngầm và các vùng lấy nước sông. Do vậy, Thành phố cần có các biện pháp để đảm bảo nhu cầu dùng nước cho nhân dân và cho các ngành đang phát triển mạnh mẽ trong vùng bờ. Suy giảm chất lượng nước biển ven bờ Sự gia tăng các chất ô nhiễm trong môi trường đã làm một số khu vực có biểu hiện ô nhiễm. Các khu vực bãi tắm từ Tuần Châu đến Bãi Cháy đã bị ô nhiễm bởi vi sinh vật. Nồng độ dầu trong nước biển ở vịnh Bãi Cháy và các khu vực ven bờ vịnh Hạ Long thường xuyên vượt giới hạn cho phép, nồng độ các kim loại nặng như chì, cadimi, kẽm trong nước và trầm tích, thuốc trừ sâu như DDT, Endrrin, Diedrin, Aldrin trong nước và trong mô hải sản cũng gia tăng và vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Đặc biệt, sự gia tăng độ đục và chất rắn lơ lửng trong cột nước 22 sẽ gây ảnh hưởng lớn đến cảnh quan khu Di sản Thiên nhiên Thế giới do tiêu chuẩn về độ trong và độ sạch của nước Khu Di sản phải đáp ứng theo các tiêu chuẩn bảo tồn của Thế giới (cao hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn của Việt Nam). Các vấn đề về thể chế Tình trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường: 0 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 03- 01 06- 01 08- 01 09- 01 11- 01 12- 01 02- 02 03- 02 05- 02 06- 02 07- 02 09- 02 10- 02 12- 02 Th¸ng - n¨m N ån g ®é k Ïm (u g/ l) Maxim um Minim um Trung b ×nh TCVN 5943-1995 10ug/l Hình 8. Nồng độ kẽm trong nước biển vịnh Bãi Cháy §−êng håi quy y = 0,025x + 6,6 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 0 3 - 0 1 0 6 - 0 1 0 8 - 0 1 0 9 - 0 1 1 1 - 0 1 1 2 - 0 1 0 2 - 0 2 0 3 - 0 2 0 5 - 0 2 0 6 - 0 2 0 7 - 0 2 0 9 - 0 2 1 1 - 0 2 1 2 - 0 2 0 2 - 0 3 T h¸ ng -n¨ m m g /l T 1 T 2 T 3 T 5 Hình 9. Xu hướng tăng TSS theo thời gian trong nước biển 23 • Chỉ các đô thị lớn được Công ty Môi trường Đô thị làm nhiệm vụ thu gom rác thải và nạo vét cống rãnh thoát nước thải. Hiện tại mới chỉ thu gom được 50 - 60% lượng rác thải tại các trung tâm đô thị. Tại hầu hết các địa phương chưa có qui hoạch bãi xử lý rác. Các bãi chứa rác hiện nay đều chưa hợp vệ sinh, một số bãi rác lớn của Hạ Long đang được nâng cấp thành bãi rác hợp vệ sinh. • Hệ thống cống rãnh thoát nước chỉ được xây dựng ở các khu đô thị và đang tiếp tục xây dựng, mở rộng song luôn trong tình trạng quá tải, quản lý yếu kém. • Một số bệnh viện đã có lò đốt rác thải và hệ thống xử lý nước thải y tế như Bệnh viện Đa khoa, Bệnh viện lao tỉnh Quảng Ninh. • Nhiều doanh nghiệp lớn đã thực hiện các biện pháp giảm thiểu các nguồn gây ô nhiễm môi trường theo qui định của pháp luật. Tuy nhiên còn nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện và nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, chất thải được xử lý còn hạn chế. • Các đơn vị khai thác than đã được quan tâm đầu tư xây dựng các công trình ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm môi trường như đập ngăn đất đá trôi lấp, nạo vét sông suối, ổn định bãi thải đất đá, thu hồi bột than sau sàng tuyển, phun nước tưới bụi và nhiều dự án hoàn nguyên môi trường, đặc biệt là trồng rừng phủ xanh bãi thải, đồi trọc. Mặc dù vậy, khai thác mỏ vẫn là hoạt động gây ra nhiều vấn đề môi trường bức xúc đối với dân cư, các hệ sinh thái; đặc biệt là gây ô nhiễm nước ven biển do các chất thải rắn và lỏng. • Hoạt động xây dựng hạ tầng giao thông vận tải và đô thị, san gạt mặt bằng các khu công nghiệp, các khu đô thị ít có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn ô nhiễm môi trường và gìn giữ cảnh quan, nhất là ngăn chặn bùn đất bị rửa trôi vào mùa mưa. • Do thiếu nguồn lực và kinh phí, hoạt động thanh tra, giám sát các cơ sở trong việc bảo vệ môi trường và thực hiện các cam kết BVMT chưa được thực hiện triệt để. Cơ chế quản lý: • Thiếu các quy hoạch tổng thể sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. • Thiếu sự điều phối và hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường: các cơ quan như Sở Tài nguyên và Môi trường có nhiệm vụ quản lý đất đai, khoáng sản, tài nguyên 24 nước và môi trường; Sở Xây dựng lập qui hoạch, kế hoạch phát triển đô thị, quy hoạch quản lý chất thải rắn và hệ thống cấp, thoát nước vệ sinh đô thị; Chi cục Kiểm lâm có chức năng quản lý nhà nước về rừng, đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên; Chi cục Bảo vệ nguồn lợi Thuỷ sản có chức năng quản lý về nguồn lợi thuỷ hải sản; Ban Quản lý vịnh Hạ Long có chức năng quản lý khu Di sản,đều tham gia vào các quá trình kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường và gây suy thoái tài nguyên nhưng chức năng còn chồng chéo và hoạt động kém hiệu quả. • Chưa có sự tham gia tích cực của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, các bên liên quan trong công tác xây dựng, thực hiện các chương trình/kế hoạch về bảo vệ môi trường và cùng giám sát các hoạt động gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp. • Có sự hạn chế về năng lực chuyên môn và thiếu các cán bộ quản lý và đặc biệt là thiếu nguồn kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi trường. • Chưa có nguồn tài chính bền vững cho hoạt động bảo vệ môi trường: nguồn tài chính từ ngân sách Nhà nước cho hoạt động quản lý bảo vệ môi trường còn rất hạn chế, chưa đủ nguồn kinh phí cho xây dựng các công trình ngăn ngừa và khôi phục môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường, quan trắc môi trường, chưa có các chính sách thuế, phí môi trường để gây quỹ bảo vệ môi trường. • Nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên và sử dụng vùng bờ còn hạn chế. • Điều kiện sống của nhân dân trong vùng bờ chưa được đảm bảo do thiếu nước sạch và vệ sinh môi trường, đặc biệt đối với số ngư dân sống trôi nổi trên một số vùng nước biển của vịnh Hạ Long. • Chưa có cơ chế hợp tác chặt chẽ với các huyện/thị trấn và các tỉnh khác trong việc giải quyết các vấn đề môi trường liên địa phương và xuyên biên giới. • Sự cư trú, sinh sống trái phép của nhiều hộ ngư dân trên vùng vịnh, trên bờ biển, bãi trên sông, ) • Mâu thuẫn sử dụng đa mục tiêu, đa ngành vẫn tồn tại (như giữa nuôi trồng thủy sản với du lịch, giao thông thuỷ, giữa khai thác than, vật liệu xây dựng với nuôi trồng thủy sản hay giữa đánh bắt thủy sản với bảo tồn thiên nhiên, ) 25 3. Các định hướng chiến lược Quản lý Tổng hợp Vùng bờ (QLTHVB) vịnh Hạ Long Cơ sở xây dựng Chiến lược Nhu cầu của địa phương • Phát triển mạnh nền kinh tế biển dựa vào lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan môi trường vùng bờ: Du lịch sinh thái, dịch vụ cảng biển, công nghiệp khai thác và nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản, thương mại, công nghiệp khai thác than. • Sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. • Không ngừng nâng cao chất lượng sống, dân trí, xoá đói giảm nghèo, giữ gìn nền văn hoá và bản sắc địa phương. • Bảo vệ các sinh cảnh, bảo tồn khu Di sản Thiên nhiên của Thế giới vịnh Hạ Long. • Duy trì và cải thiện chất lượng không khí, nước ngầm, nước mặt, nước biển. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế • QLTHVB là một cách tiếp cận mới mẻ ở Việt Nam về quản lý tài nguyên và môi trường, đòi hỏi có các chuyên gia và cán bộ quản lý có kiến thức đa ngành, đa lĩnh vực và biết thu hút sự tham gia của tất cả các bên liên quan. • QLTHVB đã thành công ở nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. • QLTHVB đã được áp dụng thí điểm cho vùng bờ Thành phố Đà Nẵng và một số dự án, chương trình QLTHVB Việt Nam đã cho thấy đây là cách tiếp cận hợp lý, hiệu quả và đã có những kinh nghiệm, bài học quý giá. Hiện QLTHVB đang được nhân rộng ra tất cả các tỉnh ven biển miền Tru

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_cao_chuyen_de_xac_dinh_cac_dinh_huong_chien_luoc_quan_ly.pdf
Tài liệu liên quan