Rừng Cúc Phương là một khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm trên địa phận ranh giới 3 khu vực Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ thuộc ba tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Vườn quốc gia này có hệ động thực vật phong phú đa dạng mang đặc trưng rừng mưa nhiệt đới. Nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao được phát hiện và bảo tồn tại đây. Đây cũng là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam.
51 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9065 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Chuyến thực địa tự nhiên miền Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hệ thống lớp phủ thực vật hêt sức phát triển. Ở đây quá trình tự phủ và nửa tự phủ phát triển mạnh mẽ tạo nên những cánh đồng karstơ tương đối rộng lớn, đất màu mỡ thể hiện một quá trình karstơ tương đối dài.
Những dãy núi đá vôi ở đây cũng khác so với ở Tam Cốc do ở Tam Cốc có sự xen kẽ giữa đá vôi, đá phiến, đá kết tinh biến chất.
Rừng Cúc Phương là một khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm trên địa phận ranh giới 3 khu vực Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ thuộc ba tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Vườn quốc gia này có hệ động thực vật phong phú đa dạng mang đặc trưng rừng mưa nhiệt đới. Nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao được phát hiện và bảo tồn tại đây. Đây cũng là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam.
Càng tiến đến địa phận của rừng Cúc Phương dọc đồi núi chúng tôi bắt gặp rừng thứ sinh với nhiều tre, nứa, mộc chen chúc nhau, nhiều lọai cây bụi xen lẫn với rừng tre nứa chúng tôi bắt gặp những vết savan cây bụi lùn. Chúng tôi được anh Bảy- một hướng dẫn viên phân tích rõ thêm về sự đa dạng của rừng quốc gia lớn nhất Việt Nam mang tầm cỡ quốc tế này.
Rừng Cúc Phương được thành lập đầu tiên vào ngày 7/7/1962.
Rừng Cúc Phương
- Vị trí điạ lý: vườn quốc gia Cúc Phương nằm ở 3 tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Thuộc địa phận của 4 huyện thuộc 3 tỉnh này: Thạch Thành( Thanh Hóa), Yên Thủy – Lạng Sơn( Hòa Bình), Nho Quan( Ninh Bình). Bao quanh rừng có 17 xã, đây là khu vực rừng nguyên sinh được bảo tồn bậc nhất của nước ta hiện nay, cách thủ đô Hà Nội 120km về phía Tây.
- Diện tích: Vườn quốc gia Cúc Phương thành lập vào tháng 7/1962, sau khi một nhóm kỹ sư nông nghiệp đến đây để xác định đây là khu vực giàu tài nguyên, giàu tiềm năng, rừng chưa bị khai thác nhiều. Với diện tích 22.200ha, tỉnh Ninh Bình chiếm 51,1%, Thanh Hóa chiếm 22,5%, Hòa Bình chiếm phần còn lại.
- Về địa hình: Nằm trong vùng karstơ xâm thực có 2 dãy núi chạy song song với nhau và xen giữa là những thung lũng nhỏ đồi núi thấp, độ cao trung bình từ 300 – 400m cao nhất là núi Mây Bụi cao 692m. Rừng Cúc Phương điển hình karstơ dài với hệ thống sông ngầm phía dưới.
- Đất đai: Đất đai ở đây được phân làm 2 loại, trong đó đất được hình thành trong đá vôi chiếm ưu thế nhất.
- Khí hậu: Nhiệt đới ẩm gió mùa, nhiệt độ trung bình 16,6độ C, trung bình cao nhất là 20độ C. Lượng mưa trung bình hằng năm là 2151,2mm. Độ ẩm tương đối 90%. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt:
+ Mùa hạ: từ tháng 5 đến tháng 11 nhiệt độ trung bình là 23độ c, lượng mưa1129,2%
+ Mùa đông (mùa khô) kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Do đặc điểm vị trí địa lý luồng thực vật có 3 luồng di cư chính:
Luồng nhiệt đới nóng ẩm Mã Lai- Inđô, gồm các dây di cư từ thời Krêta, các loại thuộc họ dầu, luồng này chiếm 0,6% trong tổng số loai cây thực vật ở đây.
Luồng thực vật Tây Bắc: Vân Nam, Quý Châu, Hymalaya, chủ yếu là các loài rụng lá về mùa đông: Giẻ, Thích, Nhài…
Luồng thực vật từ Tây Nam Ấn- Miến: gồm các loại cây thuộc họ Ngũ Gia Bì, đây là loại thuộc chi mới của Đông Dương.
- Về cấu trúc rừng: Trên thực tế không phải mọi nơi trên Cúc Phương cấu trúc rừng được chia làm 5 phần mà được chia làm 3 nhóm chính:
Rừng ở thung lũng và chân núi: đây là rừng giàu nhất tiêu biểu cho cấu trúc rừng có 5 tầng tán chính:
Tầng vượt tán: Bao gồm những cây ở độ cao trên 40m, gồm Chò Chỉ, Chò Ngàn Năm.
Tầng tán rừng: Ở độ cao 30m đến 40m, bao gồm Cà Lồ, Sàng.
Tầng dưới tán: Là những loài cây chịu bóng, một số loài cây tồn tại bằng cách đón nhận ánh sáng thường xuyên thông qua các kẽ hở hoăc tiếp tục vươn lên để tồn tại. Bao gồm những cây có độ cao từ 20 đến 30m như: Vàng Anh, Nhộn, Cỏ Khẹt…
Tầng cây bụi: Bao gồm một số loài cây thích nghi với cường độ ánh sáng thấp, gồm cả cây ưa bóng và cây bụi như: Na, Móc, Đùng Đình…
Tầng cỏ quyết: Đây là nơi lí tưởng cho rêu, dương xỉ, và thực vật có hoa ưa bóng. Nhiều loài nấm, địa y phát triển mạnh mẽ trong môi trường ẩm và tạo nên sự đa dạng của tầng cỏ quyết.
Đặc biệt trong rừng có nhiều loại cây dây leo( 359 loài), có cây dây leo dài tới 1km. Các cây kí sinh rất phong phú và đa dạng.
=> Đây là một cấu trúc rừng hoàn hảo.
Nếu ở dưới thung lũng đại diện cho cấu trúc 5 tầng tán thì ở trên sườn núi chỉ có 2 tầng tán. Hầu hết rễ cây bám vào đá vôi, sinh sống trên đá vôi.
- Hệ động vật: Do không gian rừng chật hẹp nên ở đây rất hiếm các loài thú lớn. Nhưng trái lại các loài thú nhỏ: chim, bò sát, côn trùng rất phong phú. Cúc Phương có khoảng 117 loài thú, 2 loài được xếp vào loài đặc hữu đó là: Vọoc Mông Trắng và Sóc Bụng Đỏ. Có ít nhất 5 loài thuộc họ Mèo vẫn tồn tại ở Cúc Phương. Trong 152 loài thú nhỏ ở đây thì có thú nhỏ nhất trên thế giới như Chuột Chù lông trắng.
Ở vườn quốc gia này có khoảng hơn 300 loài chim. Chiếm 1/3 tổng số loài chim ở Việt Nam, bao gồm cả những loài di cư như Đại Bàng, chim Nhạn, và một số loài bản địa như Gà Lôi trắng và Niệc Hung. Bò sát khoảng 40 loài, trong đó có 26 loài Thằn Lằn bóng, Tắc Kè. Cúc Phương còn là nơi hội tụ của nhiều loài lưỡng cư như Ếch, Nhái, Cóc. Côn trùng: đây là loài phong phú đa dạng nhất ở rừng, nhiều nhất là các loại bướm sặc sỡ đủ màu sắc. vườn quốc gia Cúc Phương có nhiều loài Cá lạ thích nghi với cuộc sống tại các con suối chảy theo mùa và hệ thống thoát nước ngầm.
Ở đây do quá trình sụt lún hình thành nên những hang động karstơ. Theo chân anh hướng dẫn viên, đoàn chúng tôi có mặt tại hang động Người Xưa.
Động Người Xưa
Động Người Xưa được khai quật và năm 1966. Trong hang người ta phát hiện ra ba bộ xương hóa thạch, hầu hết những hóa thạch này có tư thế nằm co. Có lẽ đó là một văn hóa truyền thống. Sau khi khai quật, các nhà khoa học đã sử dụng phương pháp phóng xạ và xác định được ba bộ xương này có tuổi khoảng 7500 năm về trước, thuộc nền văn hóa Đông Sơn, Hòa Bình.
Động Người Xưa là một trong những hang động lớn nhất ở đây, bao gồm 3 ngăn: Ngăn đầu tiên có cửa quay về hướng Tây; ngăn thứ hai có nhiều nhũ đá với nhiều màu sắc khác nhau; còn ngăn thứ ba như một cung điện của tộc trưởng.
Vào đến cửa hang ta thấy có ít nhũ đá hơn, quan sát dưới mặt đất có lớp vỏ sò, vỏ ốc. Đối với địa hình núi đá vôi cũng như nguồn gốc của rừng Cúc Phương từ xưa là một biển cổ, sau quá trình biến đổi địa chất thì môi trường sống của sinh vật bị biến đổi, một số loài bị trôi dạt nằm trong địa hình đá vôi.
Thạch nhũ phía trong hang có màu rỉ sắt do những khoáng chất đá vôi phản ứng hóa học, còn có cả những khoáng màu trắng. Ta có thể nhìn trên sản phẩm núi đá vôi từ các nhũ đá có ánh sáng lấp lánh, đó chính là silicat. Trên trần hang có cả những đốm màu đỏ, đó chính là sắt ôxit.
Kết thúc chuyến thăm hang động Người Xưa, đoàn chúng tôi tiếp tục theo chân anh hướng dẫn viên để đến với“ cây Chò Ngàn Năm”. Dọc theo đường đến với cây Chò Ngàn Năm chúng tôi quan sát thấy cây ở vùng núi đá vôi có bạnh vè. Chúng tôi đã được anh Bảy giải thích tường tận . Đó chính là do cấu tạo của thổ nhưỡng. Do tầng đất ở đây mỏng, cây có bạnh vè để cân bằng với thân cây và chống chịu được với sức ép bên ngoài. Ở các vùng núi đá vôi rễ sẽ không ăn sâu xuống mà trải dài ra trên mặt đất, cho nên cây ở đây dễ đổ, đặc biệt là các cây lớn, từ đó tạo nên sự biến động của thực vật trong rừng. Ở những nơi cây bị đổ có nhiều cây chuối mọc lên, nó phát tán nhanh ở nơi có ánh sáng mặt trời.
Đến với khu vực hệ sinh thái của các cây chò xanh khác với các hệ sinh thái khác, ở đây là hệ sinh thái nguyên sinh, chưa có sự tác động của con người. Ngoài ra ngay trên đường đi chúng tôi còn quan sát được thêm một số loại cây khác nữa:
+ Dây Cây Bàng: có đường kính 0,5m, dài hàng nghìn mét như những con trăn khổng lồ.
+ Đa bóp cổ: loài thực vật chuyên đi bóp ngẹt cây chủ đẻ hút chất dinh dưỡng, sau khi cây chủ chết cũng là lúc nó tự hút chất dinh dưỡng trong đất.
Với chuyến đi gần 3km cuối cùng đoàn chúng tôi cũng đã đến được với cây Chò Ngàn Năm. Đây là một cây Chò xanh nó thuộc họ Đậu, có nguồn gốc từ khu vực Tây Bắc đến Cúc Phương và kết thúc ở Thanh Hóa.
Đây là một trong những cây có đặc tính khi lớn lên tách thành hai thân và có khả năng chống chịu với các điều kiện bên ngoài. Cây có đường kính 5,5m, chiều cao khoảng 45m. Người ta chưa xác định được tuổi của nó.
Cây Chò Ngàn Năm
Tạm biệt cây Chò Ngàn Năm buổi chúng tôi nghỉ ngơi tại nhà sàn trong rừng. Đoàn chúng tôi đốt lửa trại và cùng nhau ca hát tập thể. Dường như mọi mệt mỏi của ngày hôm nay đã biến mất, hào tan trong không khí ấm cúng của cô trò chúng tôi nơi núi rừng này.
Sau một đêm nghỉ tại nhà sàn sang hôm sau chúng tôi được dẫn đi thăm Vườn Thực Vật Phương.
Vườn thực vật Cúc Phương là một công trình khoa học, với diện tích là 150ha. Được xây dựng từ năm 19885 tại khu Đông Nam của vườn quốc gia Cúc Phương. Mục đích xây dựng vườn thực vật là nhằm bảo tồn nguồn gen các loại thực vật quý hiếm của Cúc Phương và Việt Nam, xây dựng theo quy trình gieo trồng và cung cấp giống bản địa.
Hiện tại vườn trồng được 350 loài gỗ( 120 loài cây của Cúc Phương, 85 loài cây của Việt Nam, 5 loài nhập nội, 20 loài cây ăn quả, 15 loài tre trúc, 15 loài cau dừa), và một số loài cây thuốc, các loài lan….
Vườn thực vật Cúc Phương còn là nơi bảo tồn một số loài động vật hoang dã, nghiên cứu tập tính sinh học của các loài như Vượn, Vọoc, Hươu, Nai, Rùa…
Địa điểm tiếp theo mà đoàn chúng tôi đặt chân đến là khu bảo tồn vườn thú Linh Trưởng. Nhưng trước khi đên đó chúng tôi lại được ghé qua Trung Tâm Du Khách. Nơi đây là ghi chép lại những tư liệu qúy báu, cũng như nguồn gốc của vườn quốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương là một trong số ít những khu rừng lớn nhất hình thành trên núi đá vôi được bảo vệ ở miền Bắc Việt Nam.
8h30’ chúng tôi tiếp tục được vào thăm quan Trung tâm du khách, tại đây có lưu trữ rất đầy đủ những dữ liệu về Cúc Phương như: sự phân bố, diện tích của Cúc Phương, cũng như sự đa dạng, quá trình hình thành, hiện trạng và các biện pháp quản lý, bảo vệ Cúc Phương.
Tiếp theo chúng tôi được dẫn đi thăm Khu cứu hộ Linh Trưởng. Ở đây bắt gặp nhiều loại Vượn, Vọoc đến tứ khắp nơi trên mọi miền đất nước. Những loài này đều đang có nguy cơ bị tuyệt chủng, do diện tích rừng bị thu hẹp, hay do bị săn bắt. Trung tâm này được xây dựng vào năm 1993.
Linh Trưởng là loài tiến hóa bằng tay, cứu hộ gồm 25 loài chia tàm 4 nhóm, nhưng ở Cúc Phương hiện chia làm 3 nhóm:
Vọoc: là loai khỉ ăn lá
+ Vọoc Mông Trắng: Đây là loài đặc hữu, là hình ảnh tiêu biểu của vườn Cúc Phương.
Vọoc Mông Trắng
+ Vọoc Cát Bà: Là một trong những loài có nguy cơ bị tuyệt chủng cao nhất, trong tự nhiên chỉ có khoảng 50 con. Vọoc Cát Bà có đuôi dài, đầu trắng chỉ có trên đảo Cát Bà.
+ Vọoc Trà vá: Có bụng rất to, được chia làm hai loại là Trà Vá chân xám và Trà Vá chân nâu.
+ Vọoc Má Trắng đến từ Hà tĩnh, còn gọi là Vọoc Hà Tĩnh.
Vượn: nhóm không đuôi
Sống dọc biên giới Việt Nam gồm Vượn Má Trắng và Vượn Má Hung, không có đuôi, tay dài hơn chân.
Những loài này được bảo vệ và chăm sóc rất chu đáo, đến một thời gian nhất định chúng sẽ được thả vào rừng bán hoang dã để tiện theo dõi. Có những loài sống thành bầy đàn, cũng có những loài sống đơn lẻ.
Đến với nơi đây, tôi nhận ra một điều là những loài linh trưởng này thật đáng yêu, không đáng bị con người săn bắn. Và chúng ta cần có những biện pháp để bảo vệ chúng.
Tôi tự hỏi một điều là tại sao Cúc Phương còn giữ được nét nguyên sinh cho tới ngày nay? Điều này chính là do địa hình ở Cúc Phương phức tạp, Cúc Phương như lọt giữa bốn bề là núi. Mặt khác, do Cúc Phương được phát hiện và bảo vệ sớm với đội ngũ kiểm lâm đông đảo nhiệt tình luôn thường trực 24/24.
Nhận xét:
Vườn quốc gia Cúc Phương là rừng quốc gia còn nguyên sinh nhất ở Việt Nam, nó còn bảo tồn được một số loài sinh vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Đây là rừng quốc gia vô cùng phong phú và quý giá với các hoạt động nghiên cứu khoa học, cũng như các hoạt động khác. Ngoài ra nó con có những giá trị khác như: Văn hóa, lịch sử, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường… Với những giá trị to lớn đó, thì mỗi chúng ta phả có ý thức bảo vệ.
3. Tuyền Ninh Bình – Quảng Ninh (chiều ngày 1/4 và ngày 2/4):
Trên quãng đường này, đoàn thực tế của chúng tôi đã được đi qua cạnh đáy tam giác châu của đồng bằng sông Hồng: đó là các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng.
Đồng bằng sông Hồng rộng 15.000km2, là miền đất được hình thành do sự bồi đắp cần mẫn, nhẫn nại của sông Hồng và sông Thái Bình qua hang triệu năm. Đồng bằng này chính là nón phóng vật khổng lồ của hai sông trên. Đồng thời do được hình thành trên một võng chồng nên ở đây cũng còn nhiều đồi núi sót. . Ngay cạnh đáy vẫn nổi lên những ngọn đồi, đất ở đây là đất feralit được phong hóa từ sa phiến.
Khác với hệ thống sông miền Trung mà chúng ta đã đi qua với đặc điểm sông ngắn, dốc, nước trong xanh thì ở đây nước luôn đục ngầu vì nhiều phù sa, sông dài và rộng hơn
Đặc biệt ở đây còn có hệ thống đê rất phát triển. chúng ta quan sát thấy phía trong đê thấp hơn phía ngoài đê, do phía ngoài đê được bồi tụ phù sa hàng năm nên rất màu mỡ , còn trong đê phù sa chỉ bù đắp vào mùa lũ. Đất ở đây có màu nâu sẫm, và đồng bằng sông Hồng này chính là cái nôi của nền nông nghiệp văn minh lúa nước ở nước ta.
Qua Nam Định, đoàn chúng tôi đến với quê hương chị Hai năm tấn Thái Bình. Đây là vùng đồng bằng rất điển hình, địa hình nhìn chung bằng phẳng. Đất đai ở đây màu mỡ do dươc bồi đắp bởi phù sa sông Thái Bình, ven biển có nhiều cồn cát.
Đến với Hải Phòng, ngoài vùng đồng bằng điển hình chúng ta còn bắt gặp các đồi núi sót như: Kiến An, Đồ Sơn.
Đến khoảng 17h chiều, đoàn chúng tôi đã đặt chân đến được với mảnh đất Quảng Ninh. Chúng tôi ăn uống và nghỉ ngơi ở đó, buổi tối cả đoàn rủ nhau cùng đi chợ Bãi Cháy. Khép lại một ngày nữa về chuyến thực tế đầy kỉ niệm.
4. Điểm Vịnh Hạ Long (ngày 2/ 4):
Sáng sớm đoàn chúng tôi đã chuẩn bị cho chuyên đi du ngoạn trên thuyền để đến và khám phá vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long
- Vị trí địa lý:
Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo được xác định trong tọa độ từ: 106độ38’- 107độ22’Đ và từ 20độ45’- 20độ36’B. Đó là vùng biển biên đảo thuộc thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả một phần thuộc huyện Vân Đồn Quảng Ninh. Nằm sát bờ Tây của vịnh Bắc Bộ. Vịnh Hạ Long nằm về phía Đông Bắc của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 165km.
Vịnh Hạ Long có khoảng 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 900 đảo đã được đặt tên. Ngày 14/12/1994 tổ chức UNESCO đã công nhận Vịnh Hạ Long là: Di sản thiên nhiên thế giới, bởi giá trị cao của tàn tích được toàn cầu công nhận cảnh quan đá vôi karstơ điển hình.
- Về mặt địa chất:
Khu vực Hạ Long nằm trên dới phức nếp lồi quảng Ninh. Trong phạm vi lòng Vịnh Hạ Long các núi đá vôi thuộc hệ thống núi Cát Bà và hệ tầng Quang Thanh. Đá vôi thuộc hệ tầng này được hình thành bởi trầm tích có tuổi Cacbon va tuổi Pecmi.
- Đặc điểm:
Đá vôi phân lớp mỏng đến dày, màu xám, xám đen, xám sáng, vi hạt hoặc ẩn tinh. Đá vôi khá sạch, gần như 100% là Canxit. Vào đầu đại Cổ Sinh khu vực Hạ Long và đồng bằng Bắc Việt Nam cơ bản là vùng biển sâu rộng gắn liền với sự phát triển của địa máng- vùng biển sâu Katazia do quá trình sụt võng của đáy.
Bên cạnh các đảo đá vôi có taly dốc đứng ở các đảo cấu tạo bằng đá phiến, sườn thoải và mềm mại hơn. Độ cao của các dãy núi này chỉ trên dưới 100m so với mực nước biển.
Đây là một vịnh rất kín, không có sóng, là điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật: Tảo, Vi Tảo, phổ biến là các Vi Tảo xanh sống lơ lửng trong nước, Vi Tảo này làn cho nước biển có màu xanh biếc.
- Về chế độ thủy triều:
Chế độ nhật triều đều, độ chênh thủy triều lớn nhất là 4,5m. Cũng giống như núi đá vôi ở Hoa Lư Ninh Bình, ở đây có nhiều khối núi bị vò nhau, các phay trượt, do hoạt động kiến tạo mà sự phân lớp của đá bị mất.
- Về thực vật:
Chủ yếu là các loại cây bụi có rễ dài vươn cắm vào đá vôi để hút chất dinh dưỡng như các loài cây họ Si, cây dây leo ở đây cũng phổ biến.
Địa điểm đầu tiên ở Vịnh Hạ Long mà đoàn chúng tôi đặt chân đến là Động Thiên Cung.
Điều kiện hình thành hang động: Phitroxen là thời gian chủ yếu để hình thành hang động ở Vịnh Hạ Long. Chúng thường tập trung ở độ cao 10- 15m, 20- 30m, và 40- 60m. Mỗi hệ độ cao đấnh dấy thời gian kiến tạo ổn định tương ứng với một mức xâm thực cơ sở nhất định. Sau đó đáy hang động nâng lên do vận động kiến tạo khu vực. Các hang động phổ biến có tuổi Phitroxen giữa và muộn là thời gian thuận lợi cho quá trình karstơ tạo hang, quá trình hòa tan đá vôi tạo hang và thạch nhũ.
Hang động này hình thành cách đây khoảng 2 triệu năm, được xếp vào nhóm các di tích hang ngầm cổ. Trước kia, hang động này hình thành ngầm sâu dưới mặt đất, do kiến tạo của vỏ Trái Đất, cũng như là sự sụt lún của mặt đất, sự hạ thấp của mực nước biển đã làm cho hang động trở nên khô cạn như ngaỳ hôm nay.
Bước vào cửa động điều đầu tiên mà ta thấy đó là cửa động rất nhỏ, tuy nhiên nó được che kín bởi hệ thống thảm thực vật bên ngoài. Chính vì thế mà động được phát hiện rất là muộn, vào năm 1901, do bốn người Pháp phát hiện ra. Từ khi phát hiện ra hang động này thi ban quản lý các di tích danh thắng sở Văn Hóa thông tin tỉnh Quảng Ninh đã đặt tên cho động với tên gọi đầu tiên là động Bạch Tuyết. Sau này đổi lại với tên gọi là động Thiên Cung.
Động Thiên Cung có thiết diện hình chữ nhật, với diện tích khoảng 3000m2, chiều rộng khoảng 25m, chiều dài khoảng 120m, cao trên 20m. Chiều dài nằm theo hướng Bắc Nam. Động được chia ra làm ba ngăn chính.
Đứng tại không gian này chúng ta thấy có rất nhiều hệ thống măng thạch nhũ. Hai hình ảnh đầu tiên tại không gian ngăn thứ nhất là hai khối măng đá, làm ta liên tưởng đến hai con vật trong bộ tứ linh của người Việt Nam. Đó chính là hình ảnh mang dáng vẻ của chú chim Phượng Hoàng và khối măng đá mang dáng dấp của một con Rồng. Hệ thống thạch nhũ ở đây trẻ hơn rất nhiều, hình thành cách đây khoảng 11 000 năm- là thời kì nóng ẩm, mưa nhiều, là thời kì quá trình trao đổi thuận nghịch giữa nước mưa và đá vôi hòa tan với nhau. Ta thấy trên trần hang có nhiều kẽ nứt lớn, qua thời gian dài liên tục nó kết tủa thạch nhũ và măng đá. Những khố thạch nhũ cứ lớn dần lên, măng và đá đối xứng với nhau tạo nên các cột trụ đá. Ở đây có hai cột trụ đá đã minh chứng cho măng và nhũ gặp nhau tại một điểm cố định và nó không tiếp tục hình thành nữa.
Theo chân hướng dẫn viên đoàn chúng tôi tiến vào ngăn thứ hai của động Thiên Cung. Không gian ngăn thứ hai này có một vẻ đẹp nguy nga và tráng lệ. Tại đây cũng xuất hiện hình ảnh con Rồng với hệ thống măng thạch nhũ tạo nên. Đập vào mắt chúng tôi là hình ảnh tứ trụ thiên cung đối xứng nhau như làm nhiệm vụ nâng đỡ toàn bộ hệ thống cung điện này. Bao gồm: trụ Rắn, trụ Voi, trụ Rùa, trụ Thảo Mộc. Chúng tôi còn quan sát thấy ở ngăn trung tâm nay có hình ảnh Voi chầu- Hổ phục với khối măng đá tạo thành.
Hình 10: Ngăn thứ 2 của động Thiên Cung
Đến với không gian ngăn thứ ba- ngăn cuối cùng của động Thiên Cung. Không gian ở đây thu hẹp hơn nhiều nhưng cũng không kém phần sinh động, có hồ Suối Tiên với những măng nhũ đá lấp lánh. Có hình ảnh măng nhũ đá tượng trưng cho Adam và Eva, hay hình ảnh bầu sữa tiên của mẹ Âu Cơ. Ở ngăn thứ ba này, ta cũng bắt gặp nhiều hố sụt do các chấn động nhỏ tạo nên.
Trong hang động Thiên Cung những măng đá, cột đá, nhũ đá đều có màu sắc trắng buốt, độ tinh khiết của đá lên tới 98%.
Với hình ảnh do vô số các măng nhũ đá tạo nên gợi cho ta cuộc sống nhộn nhịp mà suy nghĩ về nơi chốn hoàng cung, đúng như tên gọi của nó- động Thiên Cung.
Tạm biệt động Thiên Cung, theo chân người hướng dẫn viên đoàn chúng tôi đến với hang Đầu Gỗ. Hang có tên gọi như vậy vì nơi đây để lại dấu tích về một chiến thắng oanh liệt chống quân Nguyên xâm lược.
Hang Đầu Gỗ có diện tích lớn hơn động Thiên Cung với diện tích 5000m2, chiều cao khoảng 27m. Ở khu vực cửa hang là sự tách vỡ của hai khối đá làm hai, một bên là khối đá bị sụp do chấn động nhẹ, phía ngoài do ảnh hưởng của gió và mưa nên có nhiều rêu bám.
Hang cũng được chia lam ba ngăn gần tương tự như động Thiên Cung. Thật sự cảnh đẹp của nơi này do trời ban, có đến đây chúng tôi mới cảm nhận được hết sự kì diệu của nó.
Bước vào đây, toàn bộ khung cảnh ngăn thứ nhất như được phủ một lớp bụi thời gian, chúng ta nhìn thấy có một màu rêu phong. Đến đây chúng ta liên tưởng đến công xưởng chế tác của một vị đấng tạo hóa nào đó đã đưa tác phẩm của mình sắp đặt ra thế giới ngoài kia. Hình ảnh đầu tiên mà ta nhìn thấy là cột đá với khuôn mặt của một vị đấng tạo hóa. Phía dưới là hình tượng một con Sư Tử, rẽ mặt sang bên phải là hình ảnh một con Rùa rất lớn. Ở đây chúng tôi còn bắt gặp một bức vách dựng đứng với chiều cao khoảng 20m, chiều rộng khoảng 30m. Theo các nhà địa chất, thì đây là“ vết trượt địa chất”. Trên bức vách có nhiều màu sắc đan xen giống như là một bức tranh, hay nói cách khác là bức họa đồ của Vịnh hạ Long. Hang Đầu Gỗ còn được người phương Tây đặt tên là động của các kì quan.
Đến với ngăn thứ hai của hang Đầu Gỗ. Khi sang đến đây chúng ta thấy măng nhũ đá vôi này đều có màu sáng hơn so với ngăn thứ nhất. Nếu như ngoài kia chịu sự tác động của thiên nhiên, thì vào đây những yếu tố thiên nhiên tác động không còn nhiều nữa. Chúng ta thấy một hang Đầu Gỗ với lối kiến trúc khỏe khoắn hơn rất nhiều, với những cột trụ đá đồ sộ. Ta còn thấy hình ảnh của một vị sư ngồi thiền, trong đây còn có hình tượng của một cây chuông đá. Tại không gian ngăn thứ 2 có rất nhiều măng nhũ đá đỗ gãy. Dựa vào sự đỗ gãy này, các nhà địa chất có thể cho ta biết lịch sử hình thành hang cách đây hàng triệu năm. Diễn ra các pha chấn động, pha di chấn làm đỗ gãy măng nhũ đá ở đây. Trên măng nhũ đá có đường vân giống như vân gỗ, chúng ta có thể dùng phương pháp Cacbon để xác định độ tuổi của nó.
Đến với không gian ngăn thứ ba- ngăn cuối cùng của hang Đầu Gỗ. Sang đây những măng nhũ đá bắt đầu có màu sáng trắng nguyên thủy. Trong ngăn thứ ba chúng ta gặp rất nhiều hình ảnh quen thuộc như bông hoa đá, biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam- người mẹ đang bế con…
Hang Đầu Gỗ là một trong những hang động được phát hiện sớm nhất trên thế giới.
Vịnh Hạ Long đúng như lời nhận xét của giáo sư địa chất Phạm Ngọc Thạch lúc đến đây: “để có một kim tự tháp ở Ai Cập phải mất một thế kỷ, để có Vạn Lý Trường Thành cũng phải mất một thế kỷ, còn để có một Vịnh Hạ Long như hôm nay phải mất nửa tỷ năm”.
Đối với các nhà địa chất thì Vịnh Hạ Long như một bảo tàng địa chất ngoài trời khổng lồ, đây là nơi điển hình nhất của kiểu địa hình Karstơ.
Chia tay hang Đầu Gỗ và động Thiên Cung, chúng tôi lên thuyền tiếp tục cuộc hành trình tham quan Vịnh Hạ Long. Trời hôm nay se lạnh và mưa phùn do có gió mùa Đông Bắc. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy địa danh nổi tiếng ở Vịnh Hạ Long là hòn Trống Mái.
Hình 11: Hòn Trống Mái
Đây là kết quả của quá trình hòa tan và rửa trôi đá vôi do nước biển, nước mưa, gió và hoạt động của các quá trình khác. Chúng tôi đi qua các hòn đảo, những khối núi đá vôi sừng sững, dưới chân xuất hiện vô số những hốc hàm ếch do sự xâm thực của nước biển.
Vịnh Hạ Long quả là một món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Đây là một vùng biển đảo có hệ sinh thái đa dạng: Với 400 loài cá, 500 loài động vật đáy, 160 loài san hô, 355 loài sinh vật phù du, 140 loài rong, và 34 loài thực vật ngập mặn.
Là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế gới, đây là nơi thu hút nhiều khách du lịch nhất cả nước. Tiềm năng phát triển rất lớn, tuy nhiên cần phải chú ý đến việc phát triển du lịch và bảo vệ môi trường nguyên sinh của thiên nhiên nơi đây. Thật sự khi đi trên Vịnh Hạ Long, chúng tôi mới cảm nhận được toàn bộ phong cảnh vịnh lặng gió này, như một mê cung đảo không lối ra thật tuyệt vời! Chúng ta thầm cảm ơn thiên nhiên đã ban tặng cho đất nước Việt Nam một kỳ quan tuyệt đẹp như thế này.
2.2 Điểm Tuần Châu:
Sau một ngày chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long, tối đó chúng tôi đi thăm đảo Tuần Châu- một khu du lịch nổi tiếng của Việt Nam. Xe chúng tôi chạy qua cầu Bãi Cháy, đây là cây cầu duy nhất bắc qua vịnh. Đến với khu du lịch Tuần Châu , chúng tôi thấy được sự đầu tư về vật chất kĩ thuật của con người nơi đây. Thật xứng đáng với những gì của một khu du lịch thế giới với nhiều trò giải trí độc đáo: biểu diễn cá Heo, đặc biệt là khu nhạc nước một kỹ thuật hiện đại về ánh sáng và âm thanh kết hợp với lực nước lần đầu tiên có mặt ở Việt Nam.
Hình12: Biểu diễn Nhạc Nước
Qua chuyến khảo sát thực tế ở đây đã để lại trong chúng tôi một cảm giác về sự lớn mạnh và vững chắc của mảnh đất Quảng Ninh. Chào tạm biệt Quảng Ninh đoàn chúng tôi lại đến với vùng đất Tổ- Phú Thọ.
3. Tuyến QUẢNG NINH- PHÚ THỌ:
Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, là đỉnh của đồng bằng sông Hồng và miền trung du phía Bắc. Địa hình nơi đây khá đa dạng: núi thấp, đồi, thung lũng…Miền núi thấp nằm ở phía Bắc và phía Tây thuộc các huyện: Thanh Sơn, Yên Lộc, Sông Thao, Hạ Hoàng, Đoan Hùng.
Trên đường đi đến Đền Hùng chúng tôi quan sát được một kiểu địa hình hết sức độc đáo: kiểu địa hình Bát úp- là kiểu địa hình phổ biến ở Phú Thọ. Hầu như đều có dạng đỉnh tròn, sườn thoải, thung lũng sâu. Trên bề mặt có phủ một lớp đất đỏ, độ cao tương đối của các đồi từ 20- 25m. Đây
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thucte_6936.doc