Sấy khô vải len
Căn cứ điều kiện thiết bị hiện có tại Công ty, để giảm bớt những ảnh
hưởng của nhiệt độ trong quá trình sấy và chỉnh canh sợi trên vải, nhóm đề tài
lựa chọn sấy vải len trên máy sấy văng có hệ thống ngấm ép hồ, chỉnh canh vải
và có điều chỉnh được chế độ cấp bù. Sau khi sấy khô vải được qua hệ thống làm
mát bằng quạt không khí nguội.
- Thông số công nghệ văng sấy:
Nhiệt độ sấy khô: 140oC
Tốc độ vải: 20 m/ph
Mức cấp bù 5%
Lực ép: 2,0 bar
Tốc độ gió quạt ở mức vừa phải (mức 1)42
- Đánh giá chất lượng vải sau sấy: không còn lại các vết bẩn trên bề mặt, vải khô
đều, giữ được vẻ mềm mại, không sai lệch màu mẫu và đảm bảo chỉnh canh sợi
ngang và sợi dọc không bị xiên chéo hoặc cong võng.
137 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Nghiên cứu ứng dụng công nghệ xử lý hoàn tất vải len 100%, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự định hình vải len mà kết quả
không bị thay đổi khi len được hồi phục trong nước sau 30 phút ở nhiệt độ 70oC.
Những đường cong biểu diễn sự “định hình dính” và “định hình bền” trong biểu
đồ hình 1.3 cho thấy lý do tại sao lại chọn điều kiện hồi phục như vậy. Trong
thực tế, biên giới giữa đường biểu diễn giá trị nhiệt độ và hàm ẩm mà tại đó định
hình dính và định hình bền có thể xảy ra không nhận biết rõ ràng trên hình vẽ do
các lý do ở trên.
Nhiệt độ
(oC)
13
Hình 1.3. Những điều kiện để len có định hình dính và định hình bền
Điểm R trong hình 1.3 biểu thị cho các điều kiện dùng trong các phép thử
tiêu chuẩn về lượng giải phóng tối đa của định hình dính và lượng giải phóng tối
thiểu của định hình bền. Có thể thấy rằng, sự hồi phục của len trong nước ở
nhiệt độ cao (chẳng hạn 100oC) có thể làm mất đi một lượng đáng kể định hình
bền. Phương pháp góc hồi nhàu được sử dụng rộng rãi do sự khá nhạy cảm của
chúng nhưng lại có nhược điểm là cần mẫu chuẩn bị riêng trong xử lý định hình
bền. Các phương pháp đo sự thay đổi kích thước chỉ hữu ích khi sự thay đổi kích
thước đủ lớn để có thể đo chính xác và khi các kích thước thực tế trong công
đoạn định hình được biết. Tuy không có phép đo nào là tuyệt đối, nhưng chúng
hữu ích để so sánh giữa các điều kiện khác nhau khi dạng vải không thay đổi.
Quá trình định hình bền đạt được tối thiểu là 40%, khi đo bằng phương pháp
góc hồi nhàu.
1.5. Mối quan hệ giữa định hình bền và độ giãn nở ẩm.
Sự định hình bền và độ giãn nở ẩm có quan hệ chặt chẽ với nhau. Phần
này đề cập đến mối quan hệ về cơ học của xơ, sợi, vải để hiểu sâu hơn về những
thay đổi tính chất của vải xuất hiện trong quá trình định hình bền.
Đặc tính giãn nở ẩm được đặc trưng bởi sự thay đổi đường kính xơ và
trạng thái bị uốn cong của xơ. Khi xơ len hấp thụ nước nó sẽ giãn nở. Từ trạng
thái khô đến trạng thái hấp thụ nước bão hòa, đường kính của xơ tăng 17% trong
khi chiều dài chỉ tăng 1%. Khi xơ trương nở với nước, nó có xu hướng thẳng ra
và càng tăng lên khi hàm ẩm tăng. Sự uốn cong của xơ dễ dàng điều chỉnh bằng
14
quá trình định hình bền của vải, đây chính là mối liên quan giữa quá trình định
hình bền và hiện tượng giãn nở ẩm.
Trong sợi len chải kỹ, có thể xem phần lớn các xơ song song và tiếp xúc
với nhau, vì vậy các sợi trong vải cũng có đặc tính tương tự như xơ. Bất cứ khi
nào vải hồi phục trở về hàm ẩm mà chúng được định hình bền, sẽ tạo nên các giá
trị đặc biệt của sự trương nở và độ uốn cong mà ở đó xảy ra định hình bền.
Sự thay đổi kích thước xuất hiện khi hàm ẩm vải được thay đổi, có thể
quan sát dễ dàng dựa vào đường cong biểu diễn tính chất giãn nở. Đường cong
ẩm nhận được bởi việc phục hồi ướt, vải được sấy khô tới hàm ẩm bằng 0, rồi đo
kích thước vải sau quá trình điều ẩm tới khi mà hàm ẩm tăng dần đến mức bão
hòa. Tất cả các biểu đồ biểu diễn trong chương này đều ở dạng tổng quát và đơn
giản hóa. Khi hàm ẩm thấp, các biểu đồ biểu diễn là các đường gần thẳng, còn
khi hàm ẩm tăng thì chúng được thể hiện bằng đường cong lõm hơn về phía trục
biểu thị hàm ẩm.
Tính chất giãn nở của vải mà chưa qua định hình bền (hình 1.4). Toàn bộ
độ giãn nở ẩm (từ ướt đến khô) thường nhỏ và đường cong thường được mô tả
tối đa để dễ thấy ở vị trí trung gian hàm ẩm giữa khô và ướt.
Hình 1.4. Đặc tính ẩm điển hình của vải trước và sau khi định hình bền
tại vị trí hàm ẩm trung bình (khoảng 20%) và ở vị trí hàm ẩm bão hòa.
Dạng đường cong trương nở của vải chưa định hình được nhận biết thông
qua xem xét sự tương tác giữa các sợi trong vải. Với vải chưa định hình, sợi cần
được uốn cong hơn là trạng thái thẳng để phù hợp với độ quăn khi dệt trên vải.
15
Ở hàm ẩm rất thấp, chỉ có một số lượng rất nhỏ các khoảng cách còn trống giữa
các sợi (hình 1.5)
Khi hàm ẩm tăng và xơ trương nở thì sợi duỗi thẳng và vải giãn ra.
Khoảng trống giữa các xơ giảm khi hàm ẩm tăng. Cuối cùng, khi các sợi đan
chặt với nhau, vải “khít” bởi không còn khoảng trống nào giữa các sợi. Vì xơ và
sợi tăng độ dài không đáng kể cùng với sự tăng của hàm ẩm, nên sau khi các sợi
đan thắt nhau, độ trương nở mạnh hơn của xơ chỉ được điều tiết nếu độ dày vải
tăng và các kích thước co lại. Hiện tượng này gọi là “độ co trương nở của vải”.
Hình 1.5. Giản đồ biểu diễn 3 hàm ẩm khác nhau của vải chưa định hình
Quá trình định hình bền xảy ra ngay cả trong điều kiện hàm ẩm cao và cả
khi bão hòa ẩm. Trong điều kiện này, xơ và sợi đều trương nở hơn ở điều kiện
thường, chúng được định hình bền ở dạng sóng uốn nếp và được quyết định bởi
cấu trúc vải. Sự phục hồi sức căng trong quá trình định hình bền làm giảm lực
liên kết bên trong sợi là do các sợi đã được định hình với một hình dạng mới,
tương ứng với hàm ẩm mà tại đó chúng được định hình bền. Trong quá trình
sấy, khi hàm ẩm giảm xuống dưới giá trị hàm ẩm mà xơ được định hình, thì các
xơ co lại về đường kính và khoảng trống giữa các sợi tăng. Đồng thời độ uốn
nếp của sợi tăng khi hàm ẩm giảm, vì vậy vải co lại. Vì các sợi đã định hình bền
thì cho độ uốn nếp hơn trước đó, liên kết giữa chúng thì lại giảm mạnh; trong
quá trình sấy, mức độ co vải lớn hơn trước khi xảy ra quá trình định hình bền.
Độ co lớn dẫn đến sự tăng giá trị giãn nở ẩm.
Tương tác của sợi trong cấu trúc vải đã qua định hình bền khi nó hoàn
toàn bão hòa với nước (hình 1.6) (định hình ướt)
16
Trong trường hợp này, chỉ có hàm ẩm ở trạng thái bão hòa là khi các sợi
tương đối co thắt, khoảng trống giữa các sợi tăng nhưng độ dày vải lại giảm nhẹ,
điều này làm cho vải co vì độ uốn của sợi tăng. Do vậy, thực chất đo được độ
tăng giá trị trương nở là dựa vào độ tăng giá trị co. Những sự thay đổi tương ứng
về kích thước của vải và hàm ẩm (hình 1.4)
Khi vải được định hình bền tại giá trị hàm ẩm nhỏ hơn mức bão hòa, tình
huống sẽ diễn ra tương tự như vậy đối với vải định hình ướt trừ khi độ co lúc
trương nở bắt đầu đạt được hàm ẩm cao hơn hàm ẩm khi định hình bền. Trong
trường hợp này, độ trương nở khi hút ẩm sẽ nằm giữa 2 giá trị: giá trị chưa định
hình và giá trị định hình ướt. Trở lại đường cong biểu diễn đặc trưng tính hút ẩm
của vải được định hình với hàm ẩm là 20% (Hình 1.4), lúc này do vải không bị
khống chế (treo trong buồng hấp) nên những đường cong biểu diễn của vải chưa
định hình và đã định hình cắt nhau tại điểm hàm ẩm mà ở đó diễn ra quá trình
định hình.
Hình 1.6. Giản đồ biểu thị các hàm ẩm khác nhau của vải khi xảy ra định
hình bền tại hàm ẩm bão hòa.
1.6. Mô hình uốn nếp trượt của giãn nở ẩm
Mô hình uốn nếp trượt của giãn nở ẩm được De Boos và Wemyss phát
triển. Họ giả sử rằng sự phân bố độ uốn của sợi tỷ lệ với độ uốn nếp khi dệt của
sợi có trong vải. Ngoài ra, độ trễ trượt (KESF – 2GH5) được giả thiết là cho biết
số đo các lực bên trong sợi. Độ uốn nếp khi dệt được tính bằng (L/p – 1), trong
đó p là độ dài dự kiến của sợi có trong vải và L là độ giãn dài của chính sợi đó
(BS2863;1972). Mô hình cho phép tính được giá trị độ giãn nở ẩm (HE) áp dụng
cho nhiều kiểu vải khác nhau với độ chính xác khoảng ± 1%.
HE = (0,8 x độ uốn nếp khi dệt) – (1,30 x độ trễ trượt) + 1,6
17
1.7. Định hình trong quá trình hoàn tất
Các quá trình định hình khác nhau được mô tả bằng các quá trình hóa học
và lý học. Các biểu đồ về nhiệt độ và hàm ẩm thường để chỉ ra sự thay đổi của
các thông số này ảnh hưởng tới mức định hình đưa vào. Sự thay đổi kích thước
được thể hiện bằng đồ thị theo hàm ẩm. Đường cong ẩm đươc sử dụng trong đồ
thị minh họa sự biến thiên kích thước của vải, mũi tên trên biểu đồ biểu thị sự
thay đổi kích thước trong quá trình định hình. Ở đây chưa có sự phân biệt về sợi
dọc hay sợi ngang, trong khi đối với các loại vải không cân xứng như vải chéo
thì luôn có sự khác biệt này, nó phụ thuộc khá nhiều vào cấu trúc dệt và quá
trình dệt.
1.7.1. Quá trình sấy khô vải
Sự biến thiên về nhiệt độ và hàm ẩm của vải trong thời gian sấy bằng khí
nóng tại máy văng sấy (hình 1.7).
Hình 1.7. Sự thay đổi của nhiệt độ và hàm ẩm vải trong thời gian sấy ở 150oC
Trong quá trình sấy, khi nhiệt độ vải tăng, trước tiên nước thoát khỏi
không gian mao mạch giữa xơ. Trong khi nước ở mao mạch bay hơi thì nhiệt độ
của vải gần như không đổi, thông thường ở khoảng 40-60oC. Khi nước ở mao
mạch cạn, lượng nước bên trong xơ mất đi thì nhiệt độ của vải sẽ tăng. Cuối
cùng nhiệt của vải cũng đạt tới nhiệt độ của không khí nóng bên trong máy văng
sấy, nếu quá trình sấy đủ dài thì hàm ẩm sẽ về 0.
Chỉ có định hình dính được đưa vào vải trong quá trình văng sấy. Do đó
việc sấy trong máy văng chỉ ảnh hưởng đến độ co hồi phục của vải. Kích thước
hồi phục ướt vẫn không có thay đổi đáng kể và độ giãn nở ẩm cũng không thay
đổi.
18
Hình 1.8. Sự thay đổi nhiệt độ và hàm ẩm của vải len trong quá trình sấy.
Điểm A trên biểu đồ thể hiện vị trí của vải ướt (bão hòa nước) trong điều
kiện nhiệt độ thường (chọn là 20oC). Khi sấy vải, nhiệt độ tăng, hàm ẩm giảm
xuống cho tới khi vải được đưa ra khỏi khoang nhiệt máy sấy văng (tại điểm B),
sau đó vải được làm nguội và điều hòa tới điểm C.
Trong thực tế, vải len hầu như luôn “sấy quá”. Điều này có nghĩa là sau
khi sấy, hàm ẩm của vải nhỏ hơn 14% (hàm ẩm được xem là tối ưu cho các quá
trình hoàn tất tiếp theo). Thực tế vải thường được “sấy quá” với hàm ẩm trong
khoảng 2-8% để cố gắng đảm bảo cho không còn điểm ướt nào trên vải. Các vết
ẩm đó có thể xuất hiện khi sự phân bố hơi ẩm trên bề mặt vải trước khi sấy
không đều. Điều đó cũng có nghĩa là ngay cả tại biên vải cũng được đảm bảo
không còn ướt cho dù cấu trúc dệt có chặt chẽ hơn làm cho chúng không nhanh
khô bằng các phần khác.
Ở hàm ẩm 8% (điểm B) hoặc thấp hơn, nhiệt độ 100oC len ở dưới nhiệt độ
tinh thể hóa. Trong điều kiện này, vải được định hình dính trong vùng gia nhiệt
của máy sấy văng. Tuy nhiên, khi hàm ẩm > 8%, len ở trên nhiệt độ tinh thể hóa
khi nó đi ra khỏi vùng gia nhiệt và cũng lại được định hình dính khi vải được
làm nguội. Sự làm nguội hiệu quả là lúc vải còn đang trên kim của máy văng.
Việc làm nguội này thường được hỗ trợ bằng cách thổi hay hút không khí qua
vải hoặc bằng trục làm mát. Nếu len ở nhiệt độ tinh thể hóa và nó được tháo
khỏi kim văng, vải len sẽ được định hình dính trong khi kích thước của nó tương
đối khó khống chế lúc xếp lớp hay cuộn vải.
19
Nhiệt độ của vải hầu như không thể hạ xuống đến nhiệt độ phòng ở cuối
máy sấy, thường từ 40-60oC. Việc làm nguội tiếp theo và việc tăng hàm ẩm
thường xảy ra chậm nếu vải được lưu kho trước khi xử lý tiếp theo.
Sau khi sấy, để quá trình hoàn tất khô được thực hiện dưới điều kiện nhiệt
độ tối ưu, vải cần đạt hàm ẩm ít nhất 14% ở nhiệt độ thường (tương ứng điểm
C). Trong thực tế, phải mất vài tuần để lô vải đã sấy quá đạt độ cân bằng với
điều kiện bình thường của môi trường (nhiệt độ 20oC và độ ẩm tương đối 60%),
đặc biệt khi vải được xếp thành lớp trong xe hoặc cuộn trong các cuộn lớn.
Nếu quá trình sấy vải đạt tối ưu, vải khi ra khỏi máy văng ở trong khoảng
nhiệt độ thường và hàm ẩm đạt 14% (hoặc cao hơn một chút), nên dùng gia
nhiệt khi hàm ẩm gần đạt được giá trị mong muốn. Vị trí cuả vải lúc đó sẽ rất
gần điểm D và nó sẽ nằm phía trên nhiệt độ tinh thể hóa. Việc điều chỉnh các
kích thước của vải trong qúa trình định hình dính sẽ diễn ra, làm cho vải bị
nguội đi dưới 60oC trước khi tháo khỏi kẹp của máy văng. Việc làm nguội cũng
có thể đạt được với một vài % hơi nước, song cũng có thể xảy ra làm lạnh bằng
tán xạ. Sự sấy khô lý tưởng chỉ có thể xảy ra trong một điều kiện nhất định mà
sản xuất công nghiệp rất khó đạt được. Máy văng cần được điều chỉnh chính xác
để lượng nước phân bố đều trên vải trước khi sấy; cấu trúc vải (kể cả biên) cho
phép có được tốc độ sấy đồng nhất và việc làm nguội cần phải đạt được kết quả.
Khi vải ướt trên kim của máy văng, nó thường được kéo giãn nhẹ theo
chiều ngang (để trợ giúp giữ vải trên kim). Vải cũng có thể bị giãn dọc hoặc cấp
bù theo hướng dọc. Khi hàm ẩm của len hạ xuống dưới giá trị bão hòa thì vải sẽ
có xu hướng co lại do ảnh hưởng của hiệu ứng nhả ẩm và dẫn đến gia tăng sức
căng hơn lúc ban đầu khi kéo giãn vải trên kẹp văng. Điều này dẫn đến độ co hồi
phục theo hướng ngang.
20
Hình 1.9. Sự thay đổi kích thước của vải bị kéo giãn và hàm ẩm trong quá
trình sấy
Vải ướt thể hiện ở điểm A, được kéo giãn nhẹ và đặt trên kim văng lúc có
kích thước như ở điểm D. Suốt quá trình sấy, vải không thay đổi kích thước vì
nó bị giữ bởi kim văng. Khi vải khô và hàm ẩm giảm tới 8% (điểm E), vải sẽ ở
dưới nhiệt tinh thể hóa và được định hình dính (hình 1.9). Sự co nhẹ (tại điểm F)
thường xuất hiện khi vải rời khỏi kim văng do sự hồi phục sức căng trong quá
trình định hình dính là không hoàn toàn. Vì hàm ẩm tăng khi để vải trong môi
trường xung quanh, vải có xu hướng co do có sự phục hồi sức căng trong xơ.
Tuy vậy, sự co chỉ xuất hiện khi vải không bị khống chế. Khi vải được cuộn vào
sau quá trình sấy, sự co có thể không xảy ra và khi vải được xếp chồng thành lớp
thì độ co có thể không đều. Giả sử vải được tự do thay đổi kích thước trong điều
kiện đó, kích thước của nó có thể đạt đến điểm G có hàm ẩm 14%. Độ hồi co
cuối cùng trong vải được phân tích bởi sự khác nhau giữa kích thước vải ở điểm
G với kích thước hồi phục tương ứng tại điểm C, được biểu diễn trên đường
cong giãn nở của vải đã phục hồi. Nếu vải không thể co thì việc co bổ sung có
thể được đưa vào trong quá trình ổn định ở điều kiện chuẩn hóa.
Nếu vải được cấp bù trên kim văng theo hướng dọc, độ co hồi phục nhận
được có thể nhỏ hoặc âm (hình 1.10) (vải có độ co hồi phục âm khi nó được hồi
phục ướt)
Chiều dài trên kim văng
trong quá trình sấy
21
Hình 1.10. Sự thay đổi kích thước khi vải được cấp bù trên máy sấy văng.
Khi vải được hồi phục ướt (tại A) được cấp bù trên máy văng thì chiều dài
mới của nó được quyết định bởi kích thước tại D. Trong ví dụ này, sau khi sấy
khô trong buồng gia nhiệt của máy văng (tại E) chiều dài vải thấp hơn chiều dài
đã được phục hồi của nó. Khi ra khỏi kim văng, ngay lập tức vải phục hồi tới
một chiều dài lớn hơn một chút (điểm F). Trong khi điều hòa ẩm tới hàm ẩm
14%, chiều dài vải có thể tăng lên, phụ thuộc vào cách giữ vải. Trong trường
hợp này, độ co hồi phục sẽ âm và sẽ được xác định bằng sự khác nhau giữa kích
thước vải tại G và kích thước tương ứng tại C. Ngoài ra nếu vải không thể giãn ở
điều kiện của nó thì độ co hồi phục âm sẽ lớn hơn.
Đo độ co hồi phục trong tình huống sấy thực tế rất khó dự đoán vì nó phụ thuộc
vào các thông số sau:
- Độ kéo căng ngang và mức cấp bù của vải ướt trên kẹp văng.
- Hàm ẩm ở thời điểm ngừng sấy.
- Việc làm nguội vải.
- Sự hồi phục của vải ở thời điểm ra khỏi kim văng
- Sự hồi phục của vải khi điều hòa sau sấy.
- Đặc tính ẩm của vải.
Trong thực tế, định hình trên máy văng (về khổ, cấp thiếu hoặc cấp bù) đòi
hỏi phải đạt được độ co hồi phục mong muốn, thường phải làm thực nghiệm,
trong khi các giá trị khác được giữ không đổi. Định hình trên máy có thể không
22
cho các giá trị chính xác về độ giãn hay cấp bù, vì vải thường bị kéo giãn một
cách không chủ định khi đưa vào máy văng sấy.
1.7.2. Định hình hơi
Mục đích của quá trình định hình hơi là định hình dính vải phẳng. Khi vải
ở 20oC và hàm ẩm 14% (điểm C, hình 1.11) được cài xen kẽ với lớp vải bọc,
được đặt trong máy định hình hơi và gia nhiệt bằng hơi ở 100oC. Sự ngưng tụ
hơi nước trong lúc gia nhiệt sẽ làm tăng hàm ẩm tới khoảng 20% (điểm D). Điều
kiện này, len nằm phía trên nhiệt độ tinh thể hóa và tiếp đó vải sẽ được định
hình dính nhanh chóng khi được làm nguội trong khi vẫn đang được giữ bởi vải
bọc.
Hình 1.11. Sự thay đổi nhiệt độ và hàm ẩm trong định hình hơi
Việc làm lạnh đạt được bằng cách hút không khí qua nồi chưng. Cùng với
việc tổn thất nhiệt do bức xạ và dẫn nhiệt, thì sự làm lạnh bằng bay hơi tự nhiên
được cho là quá trình làm lạnh chính và dẫn tới mất khoảng 4-5% lượng ẩm; vì
vậy hàm ẩm của len cao hơn chút ít so với giá trị gốc của nó, vào khoảng 15-
16% (gần điểm C). Dưới nhiệt độ này, độ co phục hồi của vải chỉ tăng nhẹ. Mức
độ co phục hồi phụ thuộc vào độ giãn nở ẩm của vải, song không tăng hơn 0,5%.
Ở khoảng 100oC và hàm ẩm 20%, len có thể định hình nhưng tốc độ
tương đối chậm.
Tùy thuộc vào độ pH của vải, trước khi định hình bền vải cần được xông
hơi khoảng 10 phút để đạt độ định hình tốt (khoảng 50%). Với mức định hình
này thường áp dụng bằng định hình hơi (blowing) vải trước khi hoàn tất ướt.
23
1.7.3. Là ép hơi
Phương pháp định hình quần áo này không phải là quá trình hoàn tất
nhưng cần xem xét bởi việc hoàn tất có thể ảnh hưởng tới những nếp nhăn bền.
Trong khi là ép hơi (còn gọi là ép Hoffman), vải được ép phẳng giữa tấm
trên có đục lỗ phẳng di động với tấm dưới cố định. Sau khi bàn ép đóng lại, hơi
áp lực được xông qua vải, thông thường từ tấm trên tới tấm dưới (chu trình xông
hơi). Sau đó bàn ép vẫn đóng, ngắt hơi và vải được giữ nóng trong một thời gian
ngắn (chu kỳ hấp). Cuối cùng mở bàn ép và vải được làm nguội bằng cách hút
khí qua nó, trong khi vải nằm trên tấm dưới. Chu kỳ là ép tối thiểu trong khoảng
thời gian vài giây. Nhiệt độ và hàm ẩm thay đổi được biểu diễn (hình 1.12)
Hình 1.12. Sự thay đổi nhiệt độ và hàm ẩm trong quá trình ép hơi
Quá trình gia nhiệt cho vải chủ yếu bằng hơi bão hòa. Hàm ẩm ban đầu
tăng khoảng 4% (từ C đến D – hình 1.12). Gia nhiệt hơi có thể tăng hàm ẩm 6%,
nhưng giá trị thực tế người ta thường thấy thấp hơn bởi một phần nhiệt được dẫn
nhiệt và bức xạ qua tấm trên và tấm dưới của thiết bị là ép. Nhiệt độ vải trong
bất kỳ lúc nào cũng thường không nâng lên quá cao trên 100oC, ngay cả khi
nhiệt độ hơi nước có thể cao tới 150oC. Khi len ở nhiệt độ trên 100oC thì không
nên tăng thêm nữa, trừ khi len khô hoàn toàn. Thời gian cho điều đó xảy ra trong
quá trình hấp hàm ẩm chỉ giảm nhẹ (thể hiện sự thay đổi hàm ẩm từ D tới E;
hình 1.12)
Số đo hàm ẩm cho thấy rằng giá trị cuối thấp hơn vài % so với trước khi
là ép (F). Trong hình 1.12 cho thấy trong chu kỳ xông hơi, vải chuyển qua định
24
hình dính và được định hình bền khi nó đang làm nguội trong giai đoạn hút chân
không. Để đạt định hình dính tối đa, hàm ẩm ban đầu của vải cần phải tăng đáng
kể và vải được làm nguội trước khi lấy đi khỏi bệ dưới. Nếu hàm ẩm ban đầu
quá thấp (khoảng 5%) có thể xảy ra định hình dính. Hàm ẩm và nhiệt độ thấp
trong khi là ép có thể giảm cấp độ hồi nhàu của vải sau là ép.
1.7.4. Xử lý hơi trên máy văng kim
Khi xử lý hơi trên máy văng kim, kích thước vải có thể thay đổi và định
hình dính xảy ra với độ chính xác lớn hơn so với quá trình định hình hơi. Trong
quá trình văng vải, kích thước vải được khống chế bằng cách cấp vải trên máy
văng ở khổ vải định trước và lượng cấp bù hay cấp thiếu vải theo hướng dọc.
Trên văng kim, vải được gia nhiệt trong thời gian ngắn (khoảng 20 đến 60 giây),
bằng hơi bão hòa ở áp suất khí quyển rồi làm nguội bằng cách hút không khí qua
vải. Xử lý hơi trên máy văng kim tương tự như định hình hơi, vải ở điểm C
(hình 1.11) chuyển sang điểm D khi xông hơi và trở về gần C khi vải nguội.
Như trong quá trình sấy văng, vải được hồi phục nhẹ giống như khi rời khỏi kim
văng, độ định hình dính luôn dưới 100%. Hình 1.11 cho thấy hàm ẩm ban đầu
của vải không quá thấp, hay hàm ẩm trong thời gian xử lý hơi không đủ cao để
quá trình định hình dính có hiệu quả. Nếu vải rời khỏi kim văng ở một hàm ẩm
và nhiệt độ cao hơn ngoài môi trường thì có thể sẽ xảy ra việc hồi phục ở một
mức độ nào đó.
1.7.5. Định hình nấu, nhuộm và định hình hơi ướt
Trong tất cả các quá trình này, vải len được làm ướt và sau đó định hình
bền ở hàm ẩm bão hòa (34%) và nhiệt độ gần 100oC. Sau đó làm nguội vải ở
70oC trước khi tháo ra khỏi máy. Có thể thấy trên hình 1.3, vải ướt ở 100oC là
trên nhiệt độ mà ở đó quá trình định hình xảy ra nhanh. Sự thay đổi các kích
thước xảy ra trong quá trình này phụ thuộc vào một số các thông số, bao gồm cả
các kích thước lúc vải được định hình bền (liên quan đến kích thước phục hồi
vải ướt chưa định hình), mức độ định hình bền được đưa ra và xuất sứ của vải.
Những mối quan hệ này là chưa được hiểu hoàn toàn và là mục tiêu nghiên cứu
hiện nay.
25
1.7.6. Định hình hơi áp lực
Trong quá trình định hình hơi áp lực, vải có hàm ẩm trong khoảng 5 đến
15%, được nằm xen kẽ với một vải lót và cấp vào thùng áp lực. Sau khi cấp hơi
để loại không khí, vải được gia nhiệt bằng hơi bão hòa đến nhiệt độ giữa 110-
130oC trong một vài phút, hàm ẩm của vải có thể tăng tới cực đại khoảng 6-8%.
Sau quá trình xử lý hơi áp lực, xả áp và làm nguội bằng cách hút không khí qua
vải, khi đó sẽ có sự bay hơi của lượng ẩm hấp phụ trên vải.
Hình 1.13. Sự thay đổi nhiệt độ và hàm ẩm trong quá trình định hình hơi áp lực
Quá trình công nghệ tiêu biểu được minh họa trên hình 1.13, vải ban đầu
ở nhiệt độ 20oC và hàm ẩm 14% (điểm C) được xử lý hơi áp lực ở nhiệt độ
120oC và hàm ẩm tăng lên 20% (điểm K). Việc định hình bền thích hợp có thể
thực hiện trong những điều kiện như thế trong vài phút. Trong quá trình làm
nguội thì nhiệt độ và hàm ẩm của vải sẽ quay về điểm C.
Trong ví dụ này, quá trình tở vải có sức căng ở khoảng trên 50oC sẽ dẫn
đến định hình dính (trạng thái giãn). Sức căng vải phải được kiểm soát cẩn thận,
nếu không kết quả là độ co hồi phục của vải sẽ rất khó lặp lại hoặc khó khống
chế. Một số máy định hình hới áp lực hiện đại được vận hành bằng băng tải, trên
đó vải được đỡ và làm lạnh bằng hút khí ngay sau khi tở vải khỏi cuộn. Mức độ
phục hồi phụ thuộc vào khả năng co của vải. Nếu vải được làm nguội và tở cuộn
ở trên 50oC thì độ co phục hồi của vải có thể dễ dàng kiểm soát.
Trong hình elip chấm gạch (hình 1.13) chỉ ra dãy các thông số gần đúng
với thực tế. Như chỉ dẫn mũi tên chấm gạch, vải có hàm ẩm ban đầu khoảng 8%
Hàm ẩm (%)
26
có thể mới đủ để thực hiện định hình dính thuận lợi. Vải có độ phục hồi ban đầu
thấp hơn không thích hợp cho định hình dính hiệu quả.
Sự thay đổi kích thước vải trong quá trình định hình hơi áp lực còn phụ
thuộc vào các quá trình đã tiến hành trước, có nghĩa là vào mức định hình bền đã
thực hiện trong các quá trình trước đó của vải.
Với vải chưa hề được xử lý trước thì mức độ định hình bền sẽ cao hơn
(như vải dệt thoi chưa nhuộm hoặc vải mẫu chưa được định hình nấu), (H.1.14)
Hình 1.14. Sự thay đổi kích thước khi vải chưa hồi phục và định hình được
định hình hơi áp lực (C~D~H)
Trong ví dụ này, vải được hồi phục ướt và được điều hòa ở hàm ẩm 14%
và nhiệt độ 20oC (tại điểm C; hình 1.14) và được cuộn kèm cùng với vải bọc
bông đã điều kiện hóa. Đường cong ẩm của vải chạy giữa B và A, đối với vải
chưa định hình, nó sẽ ít cong ứng với vùng lân cận tại hàm ẩm cực đại 20%.
Xông hơi áp lực xảy ra ở hàm ẩm 22% (nghĩa là khoảng 8% trọng lượng
nước ngưng tụ trong vải để nâng nhiệt độ vải từ 20 đến 130oC. Định hình bền
đạt hiệu quả 100%.
Vải được giữ bởi băng tải, kích thước của nó không thay đổi khi hàm ẩm
tăng lên trong thời gian xông hơi. Vải sẽ cố để giãn do hiệu ứng ẩm và định hình
bền khi bị nén ở điểm D. Đường cong ẩm của vải vừa định hình được chỉ dẫn
theo đường FE. Người ta thấy rằng đường cong có cực đại và điểm này dịch
chuyển tới hàm ẩm cao hơn so với vải chưa xử lý và chiều dài phục hồi của vải
27
ở hàm ẩm 14% tại G. Ngoài ra sự giãn nở ẩm cũng tăng và kích thước hồi phục
ẩm của vải đã tăng từ A tới E.
Độ co phục hồi vải sau quá trình định hình hơi áp lực sẽ tùy thuộc vào vải
được giữ như thế nào trong thời gian làm nguội và điều hòa tới hàm ẩm môi
trường. Nếu cuộn vải được tở ra ở nhiệt đọ phòng và hàm ẩm 14%, kích thước
vải ở điểm C, nhưng kích thước phục hồi sẽ ở G, như vậy % độ co hồi phục sẽ là
100(C-G)/G. Đây là độ co hồi phục tạo ra bởi quá trình định hình dính của vải
trong cuộn và độ co phụ thuộc theo hàm ẩm tăng trong quá trình hấp hơi áp lực.
Thường các mẻ vải được tở cuộn khi còn ấm và trong khi hàm ẩm vải len
còn cao hơn hàm ẩm môi trường. Vải sau đó được hồi phục khi nó được làm
nguội và điều hòa, nếu vải không bị giữ thì việc định hình dính sẽ ít hơn so với
vải được làm lạnh trên cuộn và kích thước thể hiện như tại điểm H. Độ co hồi
phục được cho là 100(C-H)/C và độ co này nhỏ hơn so với vải được làm nguội
trên máy. Độ co hồi phục lớn hơn có thể được xảy ra nếu vải được kéo giãn ra
như khi nó được tở cuộn và được làm nguội trong điều kiện nhất định. Kéo giãn
vải theo chiều sợi dọc cũng tạo nên sự co chút ít theo hường ngang và độ co hồi
phục theo hướng ngang giảm tới điểm mà tại đó nó có thể có giá trị âm.
Tính chất tiêu biểu cho vải đã qua định hình bền ở mức độ cao (như
nhuộm, định hình nấu hoặc vải đã được định hình hơi áp lực ở giai đoạn trước),
(hình 1.15)
Trong ví dụ trước, vải được giả sử là đã hồi ẩm ở trong điều kiện 14% và
nhiệt độ 20oC (tại điểm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_nghien_cuu_ung_dung_cong_nghe_xu_ly_hoan_tat_vai_len.pdf