Báo cáo Phương thức nhận diện chủ thể trong hoạt động công chứng, giải pháp để nâng cao hiệu quả của kỹ năng nhận diện con người của công chứng viên

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU . . 1

B. NỘI DUNG: . .2

I. .KỸ NĂNG CHUNG ĐỂ XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH CHỦ THỂ THAM GIA GIAO DỊCH LÀ CÁ NHÂN .2

1. Tư cách chủ thể là cá nhân cách chủ thể tham gia giao dịch: .2

1.1. Điều kiện để cá nhân là chủ thể giao dịch dân sự:

1.2. Điều kiện để chủ thể là cá nhân trực tiếp tham gia ký kết, thực hiện giao dịch

dân sự: .3

a) Người tham gia giao kết hợp đồng không có năng lực hành vi dân sự: .3

b) Người tham gia giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ: 3

c) Người tham gia giao kết hợp đồng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hànhvi: .4

d) Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: .4

đ) Người bị mất năng lực hành vi dân sự: 5

e) Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: . .5

1.3. Tư cách chủ thể của cá nhân tham gia giao dịch dân sự trong một số trường

hợp: .7

a) Chủ thể cá nhân tham gia giao dịch là vợ chồng: . .7

b) Chủ thể cá nhân tham gia giao dịch với tư cách là người đại diện theo pháp luật

hoặc theo ủy quyền: 7

b.1. Trường hợp cá nhân tham gia giao dịch dân sự với tư cách là người đại điệntheo pháp luật (Điều 134 BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015) . .8

b.2. Trường hợp cá nhân tham gia giao dịch với tư cách là người đại diện theo ủyquyền (Điều 134, 138 BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015): .9

c. Xác định cá nhân tham gia giao dịch là người Việt Nam định cư ở nước ngoài

hoặc người nước ngoài: . 9

2. Tư cách chủ thể là tổ chức tham gia hợp đồng, giao dịch liên quan đến hoạt

động công chứng: 9

II. Giải pháp để nâng cao hiệu quả của kỹ năng nhận diện con người của công

chứng viên: . .10

C. KẾT LUẬN: . .12

 

docx14 trang | Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 11/09/2024 | Lượt xem: 29 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Phương thức nhận diện chủ thể trong hoạt động công chứng, giải pháp để nâng cao hiệu quả của kỹ năng nhận diện con người của công chứng viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược coi là không có năng lực hành vi, vậy mọi giao dịch của trẻ em dưới 6 tuổi có thể vô hiệu vì người giao kết không có năng lực hành vi. Người tham gia giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ: Khoản 3 và Khoản 4 Điều 21 quy định: “Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi; Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”. Người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được coi là có “năng lực hành vi một phần” vì chỉ được phép tự mình tham gia những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, còn đối với các giao dịch khác, phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Như vậy, các giao dịch không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày mà không được người đại diện theo pháp luật đồng ý có thể vô hiệu vì người giao kết không có năng lực hành vi. Trường hợp người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, nếu có tài sản riêng đủ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được phép tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch, trừ những giao dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, chẳng hạn việc lập di chúc phải được sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Như vậy, trong trường hợp này, chỉ các giao dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật mới có thể vô hiệu vì lý do người giao kết không có năng lực hành vi. Ví dụ, C 17 tuổi, có tài sản riêng, có thể tự mình đi mua 1 máy vi tính để phục vụ cho việc học tập của mình. Giao dịch này là hợp pháp, không cần thông qua người đại diện. Người tham gia giao kết hợp đồng có khó khăn trong nhận thức, làm chủhành vi: Khoản 1 Điều 23 quy định “Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ” (đây cũng là 1 trong những trường hợp bị hạn chế năng lực hành vi dân sự). Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: Khoản 1, Khoản 2 Điều 24 quyđịnh: “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác”. Các giao dịch do người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng có thể bị Tòa án tuyên vô hiệu theo yêu cầu của người đại diện của người này. Ví dụ: Trường hợp ông A là người bị nghiện ma túy, đã có Quyết định của Tòa án tuyên bố ông A bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong lúc lên cơn nghiện, ông A đã đem xe mô tô của gia đình bán cho ông B với giá 7 triệu đồng. Khi phát hiện, gia đình ông A đã khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng mua bán xe giữa ông A và ông B vô hiệu. Ông B phải trả lại tài sản (chiếc xe mô tô) cho gia đình ông A theo quy định tại Khoản 1 Điều 125. đ) Người bị mất năng lực hành vi dân sự: Khoản 1, Khoản 2 Điều 22 quy định: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”. Đối với các giao dịch do người mất năng lực hành vi dân sự giao kết, theo yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của người này, Tòa án tuyên giao dịch đó vô hiệu. Một người như thế nào bị coi là mất năng lực hành vi? Điều 22 BLDS quy định thủ tục một người bị coi là mất năng lực hành vi như sau: Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Vậy, những giao dịch mà người mất năng lực hành vi giao kết trước khi có quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi có thể vô hiệu không? Theo án lệ một số nước, trong trường hợp này, người đại diện cho người mất năng lực hành vi chỉ cần đưa ra bằng chứng chứng tỏ vào thời điểm giao kết, sự mất năng lực hành vi hoặc được biểu hiện một cách hiển nhiên, hoặc được phía bên kia biết mà không cần phải viện dẫn chứng cứ trực tiếp (Giấy giám định, kết luận của bác sỹ). BLDS dành Điều 125 để giải quyết vấn đề này, những người vào thời điểm giao kết một giao dịch dân sự không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. e) Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Điều 20 quy định: “Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này ”. Như vậy có nghĩa là người từ đủ 18 tuổi trở lên không bị mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Lưu ý: Trong giao dịch dân sự có đối tượng là tài sản và quyền về tài sản mà chủ thể là người đủ tuổi kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và Gia đình (nữ từ đủ 18 tuổi, nam từ đủ 20 tuổi) thì công chứng viên cần xem xét đến tình trạng hôn nhân của người đó vì có thể đó là tài sản chung của vợ chồng. Tình trạng hôn nhân được xác định bằng Giấy đăng ký kết hôn hoặc Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó có hộ khẩu thường trú (hoặc UBND cấp xã nơi đăng ký tạm trú trong trường hợp người đó không có nơi thường trú). Có thể khẳng định, người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể tự mình đứng ra giao kết các Hợp đồng, giao dịch. Chỉ khi nào chắc chắn rằng người yêu cầu công chứng ký kết một hợp đồng, giao dịch nào đó trong trạng thái tinh thần thoải mái, tự nguyện, không chịu bất kỳ một sức ép nào từ phía bên ngoài, họ có năng lực hành vi dân sự phù hợp với quy định của pháp luật đối với các Hợp đồng, giao dịch đó và họ hoàn toàn ý thức được hậu quả việc làm của mình, thông tin về chủ thể phải đầy đủ và đúng với những giấy tờ mà họ đã cung cấp thì công chứng viên mới cho họ ký kết Hợp đồng, giao dịch đó; nếu có sai sót có thể sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn, tranh chấp và mất hiệu lực của văn bản công chứng. Một chủ thể (cá nhân) được quyền trực tiếp tham gia một quan hệ pháp luật khi có đầy đủ năng lực chủ thể, được tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng lực pháp luật gắn liền với quyền của chủ thể (chủ thể có được phép thực hiện quyền đó hay không) chứ không gắn với khả năng thực hiện quyền đó. Không có năng lực pháp luật, vì vậy, được hiểu là một chủ thể không được phép làm một việc nào đó, kể cả thông qua người đại diện. Nói cách khác, không có năng lực pháp luật thực chất là trường hợp pháp luật không cho phép một chủ thể được thực hiện một số quyền nhất định. Cho nên, việc xử lý những trường hợp không có năng lực pháp luật chính là việc xử lý nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật theo Điều 125 BLDS quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện, đó là: “ Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp: Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sựnhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó; Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho ngườichưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ; Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đãthành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự. Đó là lý do Khoản 1 Điều 125 chỉ quy định về điều kiện năng lực hành vi. Tóm lại, công chứng viên phải kiểm tra cá nhân đó có đủ thẩm quyền giao kết Hợp đồng, giao dịch hay không, hay nói cách khác cá nhân đó có đủ năng lực hành vi để tự mình xác lập hay đại diện cho bên thứ ba xác lập Hợp đồng, giao dịch hay không? công chứng viên phải kiểm tra độ tuổi của người yêu cầu công chứng thông qua các giấy tờ tùy thân mà họ xuất trình. Nếu cần công chứng viên có thể xác minh thêm bằng một số giấy tờ, tài liệu có liên quan như giấy khai sinh, sổ Hộ khẩu.Điều quan trọng nhất ở giai đoạn này là công chứng viên cần phải xác định độ tuổi của người yêu cầu công chứng phù hợp với từng loại Hợp đồng, giao dịch cụ thể theo quy định của pháp luật, bởi vì một cá nhân có thể đầy đủ năng lực hành vi đối với Hợp đồng, giao dịch này nhưng lại không đủ năng lực hành vi để giao kết một Hợp đồng, giao dịch khác. Ví dụ: Cá nhân từ đủ 15 tuổi có đủ tư cách giao kết Hợp đồng, giao dịch nhằm định đoạt tài sản riêng (loại tài sản không cần đăng ký quyền sở hữu) nhằm phục vụ cho sinh hoạt của mình nhưng lại chưa thể là chủ thể tham gia giao kết các Hợp đồng, giao dịch liên quan đến chế độ tài sản chung, riêng của vợ chồng, theo quy định Luật Hôn nhân gia đình “Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên” mới đủ tuổi kết hôn (Khoản 1 Điều 9 Luật HNGĐ) 1.3. Tư cách chủ thể của cá nhân tham gia giao dịch dân sự trong một số trường hợp: Chủ thể cá nhân tham gia giao dịch là vợ chồng: Trong giao dịch có sự tham gia của chủ thể là vợ chồng, thì công chứng viên phải yêu cầu người đến giao dịch cung cấp các giấy tờ để chứng minh họ là vợ chồng, ví dụ như: Giấy đăng ký kết hôn, Trích lục đăng ký kết hôn. Chủ thể cá nhân tham gia giao dịch với tư cách là người đại diện theo phápluật hoặc theo ủy quyền: b.1. Trường hợp cá nhân tham gia giao dịch dân sự với tư cách là người đại điện theo pháp luật (Điều 134 BLDS) thì ngoài điều kiện người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện thì công chứng viên còn phải yêu cầu họ cung cấp giấy tờ chứng minh tư cách đại diện tham gia giao dịch của họ như: Khai sinh của người con chưa thành niên có ghi tên cha mẹ, trường hợp cha mẹ làđại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên; Đối với trường hợp người giám hộ (theo Điều 48, 52, 53, 54 BLDS) đại diện thamgia giao dịch dân sự cho người được giám hộ thì phải cung cấp 1 trong các giấy tờ sau: + Văn bản lựa chọn giám hộ cho bản thân người được giám hộ có sự đồng ý của người được chọn làm giám hộ, được công chứng hoặc chứng thực; + Văn bản cử người giám hộ của UBND cấp xã nơi người được giám hộ cư trú (trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên là vợ, chồng, con, cha, mẹ, anh, chị em ruột, ông bà theo quy định tại Điều 52, Điều 53 BLDS); + Quyết định, bản án của Tòa án chỉ định người giám hộ. Việc giám hộ phải đăng ký tại UBND cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ hoặc người giám hộ (theo Điều 19 Luật Hộ tịch). Tuy nhiên, người giám hộ đương nhiên thì dù không đăng ký vẫn phải thực hiện việc giám hộ. Đối với trường hợp tham gia giao dịch với tư cách người đại diện, pháp luật dân sự còn quy định việc “giám sát việc giám hộ” tại Điều 51 và Điều 59 BLDS. Trong đó, Khoản 1 Điều 59 quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người được giám hộ như sau: “Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ. Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ”. b.2 Trường hợp cá nhân tham gia giao dịch với tư cách là người đại diện theo ủy quyền (Điều 134, 138 Bộ luật Dân sự năm 2015): Trường hợp cá nhân đại diện theo ủy quyền của cá nhân hoặc pháp nhân để tham gia giao dịch dân sự thì cá nhân làm đại diện đó phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện Đối với cá nhân đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi cũng có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự đó phải do người đủ 18 tuổi trở lên thực hiện. c. Xác định cá nhân tham gia giao dịch là người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài: Khi cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài tham gia giao dịch dân sự, Công chứng viên cần kiểm tra các giấy tờ chứng minh họ là người có đủ điều kiện để tham gia giao dịch dân sự đó hay không. “Năng lực pháp luật của cá nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. Người nước ngoài tại Việt Nam có năng lực pháp luật dân sự như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác “(Điều 673 Bộ luật Dân sự năm 2015). Về xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân người nước ngoài, Điều 674 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “- Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. - Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxbao_cao_phuong_thuc_nhan_dien_chu_the_trong_hoat_dong_cong_c.docx