Báo cáo Thực tập địa chất tại thành phố Lạng Sơn

Phức hệ chưa nước trong hệ tầng Lạng Sơn và hệ tầng Kỳ Cùng phân bố theo ba dải chính:

- Dải thứ 1 từ phía TB kéo dài đến TN

- Dải thứ 2 từ phía ĐB kéo dài đến ĐN

- Dải thứ 3 phân bố ở phía Nam vung nghiên cứu.

Phần lớn các đá thuộc hệ tầng Lạng Sơn gồm cát kết, bột kết, sét kết có cấu tạo phân nhip với chiều dai khoảng hơn 50m và các lớp cát bột kết, sét kết, sét vôi chiều dày 150m. Nước trong tầng này cơ bản là nước khe nứt, ở một số nơi đá bị nứt nẻ mạnh và cắt khá sâu, tạo điều kiện tập trung nước ngầm. Nước có độ Ph 6-7 thuộc loại cacbonat canxi lưu lượng từ 0,01- 0,7 hoặc 0,8 l/s. Nước có độ Ph từ 6,5 đến 7,5. Các đá pử phần trên phần phức hệ này là cát kết hạt trung, hạt mịn bột kết, sét kết có cấu tạo phân nhịp đá sét vôi phân lớp mỏng từ vài cm đến 1-2m tập lớp dày khaongr 15-80m có thể hình thành các hang karst lưu lượng 0,3- 3 l/s.

 

docx50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9141 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập địa chất tại thành phố Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hời gian Paleozoi muộn phần Đông Bắc Việt Nam trong đó có vùng Lạng Sơn là phần mảng lục địa đã nêu. Cuối Pecmi đầu Trias có sự va chạm của mảng Đông Dương với mảng Đông á với các hoạt động tách giãn, phun trào bazan khá mạnh mẽ dọc tuyến sông Đà-Thanh Hoá-Ninh Bình. Hiện tượng nói trên đã tác động mạnh đến khu vực Hà Giang - Cao Bằng - Lạng Sơn - Quảng Ninh - Bắc Giang - Thái Nguyên và các vùng lân cận. Kết quả đầu tiên là hình thành các đới đứt gãy sâu các địa hào mà khu vực thành phố Lạng Sơn là nơi giao nhau cảu chúng với các phương chính là Tây Bắc - Đông Nam và á kinh tuyến tạo nên cấu trúc lớn dạng chữ nhân hoặc chặc ba. Với cấu trúc đã nêu, phân chia các đơn vị kiến tạo từ lớn đến nhỏ như sau: + Mảng Đông á + Khu vực Đông Bắc Việt Nam + Vùng phát triển và các đứt gãy sâu vòm nhiệt thành phố Lạng Sơn. Trong vùng thành phố Lạng Sơn có các đới kiện tạo: - Đới trung gian giữa các nhánh đứt gãy sâu. - Đới hạ võng và trầm tích Pecmi muộn - Trias sớm ven các nhánh đứt gãy sâu. - Đới phát triển magma ven các đứt gãy sâu Trias trung. - Đới hạ võng trầm tích ven các đứt gãy sâu Trias trung và Trias muộn. - Đới hạ võng trầm tích kế thừa ven các đứt gãy sâu và phát triển magma dạng vòm nhiệt vào Jura muộn - Poleogen. - Đới tách giãn kiến tạo và hạ võng trầm tích Kainozoi giữa - muộn. Dưới đây chúng toi trình bày những đặc điểm chính của các đới kiến tạo trên. Đới trung gian giữa các nhánh đứt gãy sâu Đới có phương kéo dài Tây Bắc - Đông Nam từ Đồng én qua Kỳ Lừa đến Mai Pha bao gồm chủ yếu phân bố trầm tích hệ tầng Bắc Sơn. Các thành tạo chính của đới là đá vôi, đá vôi vi hạt có cấu tạo từ phân lớp vừa đến phân kớp dày với cấu trúc phức nếp uốn mà phần lớn các nếp uốn thành viền có vòm cong cánh cánh thoải, bình đồ có dạng vung, chảo, dạng nếp uốn ngắn. Các thành tạo trầm tích nói trên được hình thành vào Cacbon-Pecmi trung trong điều kiện môi trường biển nóng ẩm, trong, ở điều kiện kiến tạo khá bình ổn. Quá trình uốn nếp với các trầm tích đã nêu xảy ra vào cuối Pecmi trung đưa diện tích trầm đọng trước đây thành lục địa hình thành mảng Việt Trung (Dương Tử) trong mảng lớn Đông á. Tất nhiên theo phân tích kiến tạo vào các giai đoạn trước thì còn có các mảng hoặc vi mảng (terrane) ở các vị trí trước và thời gian khác nhau. Trong thời kỳ cuối Paleozoi đầu Mezozoi đới này và phần lớn cấu trúc tương tự ở Việt Nam bị tác động bởi hoạt động va chạm hút chìm, hạ võng của mảng Đông Dương với mảng Việt Trung. Trong bối cảnh hoạt động này dẫn đến quá trình hạ võng theo phương Tây Bắc - Đông Nam, biến đổi từ rìa của đới, dần dần tiến đến trung tâm của đới, hình thành miền ven biển, biển nông, trầm tích các thành tạo lục nguyên, cát kết, bột kết, sét kết, sét than, bauxit…và trầm tích sau hơn là silic và đá vôi. Đồng én, Hoàng Đồng, Kỳ Lừa, Khôn Sào, Bản Lóng, Mai Pha…là các khu vực đã xuất hiện các hiện tượng hạ võng như đã nêu trên. Tuy nhiên, một số nơi trung tâm vùng nghiên cứu (Nhị Thanh, Pha Vệ…) chưa phát hiện các trầm tích nói trên chứng tỏ ở những vị trí này hiện tượng hạ võng xảy ra sau khu vực nói trên, thậm trí là đột biến, sụt võng đột ngột nên không có điều kiện trầm tích khoáng sản bauxit. Đặc điểm kiến tạo trong đới sau quá trình uốn nếp rõ nhất là các cấu tạo theo phương Đông Bắc - Tây Nam, Tây Bắc - Đông Nam, á kinh tuyến, á vĩ tuyến nhưng chưa gặp các thể magma phun trào với quy mô lớn, vì vậy có thể xác định rằng đây là đới trung gian giữa các nhánh đứt gãy sâu, trung gian giữa các dải hoạt động mạnh nên hoạt động kiến tạo bình ổn hơn so với xung quanh. Trong số các cấu tạo dạng phá huỷ thuộc giai đoạn trước, đáng kể là đứt gãy Tây Kỳ Lừa, hình thành đới ép đạp vỡ milonit. Sau đó các cấu trúc cơ bản gặp trong các đới này là cấu trúc đứt gãy có quy mô và phương khác nhau, nhưng chưa gặp đá phun trào. Vì vậy có thể coi đây là đới trung gian nằm ở nơi giao hoà cân bằng tương đối các lực kiến tạo tấc động bởi nhánh đứt gãy sâu. Đới hạ võng và trầm tíc Pecmi muộn - Trias sớm ven các nhánh đứt gãy sâu Đới này bao gồm các dải phía Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam và Đông Nam vùng nghiên cứu. Các đá cấu thành đới kiến tạo này là trầm tích ven bờ và biển nông như cát kết, bột kết, sét kết, sét than, bauxit, silic thành tạo trong điều kiện hạ võng khu vực ở mức độ trung bình thuộc giai đoạn đầu biển tiến Pecmi muộn - Trias sớm. Các thành tạo nói trên thuộc các hệ tầng: Đồng Đăng, Lạng Sơn, Kỳ cùng, với các phương chính là Đông Bắc - Tay Nam, Tây Bắc - Đông Nam. Vào cuối Pecmi, tiếp theo quá trình hạ võng chung, một số nơi ven rìa đới thứ nhất xuất hiện các đứt gãy thuận toác căng võng, hạ lún thay đổi thế nằm và góc dốc của trầm tích hạ tầng Đồng Đăng và hệ tầng Lạng Sơn, sau đó ở một số nơi nói trên có hoạt động dồn ép, hình thành các đứt gãy trượt nghịch làm các trầm tích đá vôi bị biến dạng khá mạnh. Các uốn nếp trong đới này phần lớn ở dạng nếp lồi nhỏ hoặc dạng nếp uốn ngắn không có các nếp uốn dạng tuyến. Các biến dạng phá huỷ trong đới thuộc b loại sau: - Đới thứ nhất là biến dạng phá huỷ liên quan đến phá huỷ ở móng thuộc hệ tầng Bắc Sơn. - Đới thứ hai là biến dạng phá huỷ liên quan với các hoạt động phun trào dồn ép. - Đới thứ ba là đới biến dạng phá huỷ liên quan với quá trình dồn ép bồn trầm tích. Ở các vị trí giao tuyến giữa magma và biến dạng đã xuất hiện các đứt gẫy nghịch như ở phía Nam nhà hàng Hoàng Di, Tây Bắc Bệnh viện Lạng Sơn, Mai Pha… Ở dạng thứ hai có thể gặp các đới trượt chờm và các nếp uốn đảo, chúc đầu như ở phía Nam và phía Tây Bắc Nà Pàn, bờ trái sông Kỳ Cùng, ở phía Nam Nà Sen, phía Đông Mai Pha… Ở dạng thứ ba hình thành các nếp uốn có góc dốc nhỏ như ở quãng đền thờ Trần Hưng Đạo, Thác Trà, phía Bắc Nà Chuông…nhưng ở phía trên xuất hiện các nếp uốn đảo, chúc đầu, dạng mào gà như ở Đông Bắc Bản Lóng, phía Đông Pò Mơ… Trên cơ sở phân tích như đã trình bày thấy rằng vào cuối Trias sớm một số nơi trong vùng đã trở thành lục địa có mặt các phun trào magma axit dạng đảo và cung đảo. Đới magma phun trào Trias trung ven nhánh đứt gãy sâu. Trong khu vực nghiên cứu chúng tôi thấy các đới này phân bố các dải ở phía Tây, phía Đông bắc và Đông Nam. Dải phía Tây nó các phương Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc - Tây Nam. Dải phía Đông Bắc có các phương Tây Bắc - Đông Nam chuyển thành Đông Bắc - Tây Nam rồi thu hẹp dần và mất hẳn. Những điều trình bày đã xác định rằng phần phía tây có hoạt động magma khá mạnh, trong khi đó ở phần phía Đông và Đông Bắc hoạt động magma cũng tương đối, còn lại phần Đông Nam thì hoạt động trên yếu hẳn, chứng tỏ hoạt động đứt gãy ở hai khu vực nói trên, nhất là đứt gãy thuận - toác là khá mạnh. Đồng thời điều kiện môi trường lục địa và biển đã cho khả năng khác nhau với thành tạo magma phun trào axit. Magma phun trào axit chủ yếu là ryolit, thể hiện là loại magma có lò tương đối nông, liên quan đến hiện tương tách vỏ ở mức đột thật không mạnh mẽ, dung dịch magma xuyên chậm lên vỏ và đồng hoá phần đá già silic và tạo magma phun trào axit. Điều nữa cho thấy, ngoài việc magma nói trên xuyên quan các đá cổ hơn chúng còn phủ chính hợp lên trên cá đá trầm tích ở đây chứng tỏ chúng được lắng đọng ở các trũng sâu cung hoặc giữa cung khi trầm tích biển nông đang được hình thành như ở phía Tây Nam Nà Pàn. Như vậy sự có mặt của đới magma phun trào đã thể hiện hoạt động kiến tạo magma khá mạnh ở đây nhưng liên quan chủ yếu với các đứt gãy sâu (phần nào giống dạng Bâicn), và một số nơi khác với magma thuộc đới tách giữa sông Đà. Các biến dạng phá huỷ tương đối hình thành vào các giai đoạn khác nhau nhưng liên quan nhiều đến giai đoạn cuối Trias và giai đoạn Jura - Neogen. Chúng chia cắt các đá trong đới, hình thành các dải dập vỡ và bị phong hoá mạnh, phong hó dạng đường. Đới hạ võng trầm tích Trias trung -Trias muộn ven các đứt gãy sâu Vào giữa Trias hoạt động đứt gãy mạnh lên ở dạng đứt gãy sâu - địa hào hình thành các dải biển phương Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc - Tây Nam ở phía Đông Bắc và Đông Nam vùng nghiên cứu. Giới hạn của phạm vi này về phía Đông Bắc có thể là đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình - Tiên Yên, phía Đông Nam là đứt gãy Na Sa - Nà Chuông - Đồng Mỏ - Chi Lăng - Sông Thương, trong đới đứt gãy theo phương này. Quá trình hạ võng hình thành đới biển nông với các trầm tích các - bột kết, sét kết và sét vôi. Tuy nhiên, do quá trình phun trào magma với thời tiết nóng và khô, do hiện tượng chuyển dịch về phía Đông Bắc và Đông Nam nên đã xuất hiện các biển nông dạng vũng vịnh và sau đó là các vũng biên có khí hậu khô nóng. Trong các điều kiện ở trên đã hình thành trầm tích thuộc môi trường oxy hoá với các lớp trầm tích có màu sắc sặc sỡ như tím gan gàn, nâu, nâu đỏ. Trong điều kiệnnhw thế đã hình thành cấu trúc dạng võng địa hoà hệ thống Mẫu Sơn lên hệ tầng Nà Khuất. Trong điều kiện võng sâu phân dị đã hình thành các cấu trúc dạng khối mang tính chất cục bộ rõ rệt. Cấu trúc nếp uốn đặc trưng là phức hệ nếp võng sâu phân dị đã hình thành các cấu trúc dạng khối mang tính chất cục bộ rõ rệt. Cấu trúc nếp uốn đặc trưng là phức hệ nếp lõm có biên độ rộng, thuộc loại nếp uốn ngắn ít thấy các biến dạng phức tạp và cường độ cao. Các biến dạng phá huỷ mạnh thuộc vào giai đoạn sau uốn nếp, khép kín bồn trầm tích. Các đứt gãy này phần nhiều là đứt gãy nghịch và trượt ngang, khả năng liên quan đến biến dạng ở khu vực giao nhau của đứt gãy dạng chạc ba mà một trong các tác động là khối nâng Mẫu Sơn. Hoạt động kiến tạo cảu khu vực, hoạt động của khối này và sự hình thành magma dưới khối là một trong những nguyên nhân chính hình thành các đứt gãy nghịch đã nêu. Đới hạ võng trầm tích kế thừa ven các đứt gãy sâu và phun trào magma dạng vòm nhiệt Jura muộn - Paleogen. Sau quá trình khép kín bồn trầm tích vào giai đoạn cuối Trias, trong vùng còn tàn dư lại một số võng dạng bồn địa ở phía Tây Bắc thuộc Hoàng Đồng và Hợp Thành. Các dòng magma ở dưới sâu có thành phần mafic vễn tiếp tục di chuyển. Vào cuối Jura đầu Kreta hoạt động kiến tạo mạnh lên, dẫn đến chảy vỏ, sụt võng, trầm tích thành tạo lục địa dạng vũng vịnh như cuội, sạn, cát và phun trào ryolit. Đặc tính thành tạo như trên phần nào giống dạng hố võng chồng ở Tú Lệ. Dòng magma sâu tiếp tục đi vào phía Tây Bắc vùng nghiên cứu, gặp các đứt gãy mở thuận lợi nhất là giao nhau giữa chúng, bazan được đưa lên vòm nhịêt gồm chủ yếu các dung nham magma sâu, mafic và phá vỡ vỏ trào ra phủ trên một diện tích khá rộng ở phía Tây Bắc Nông Đồng. Những điều nói trên chứng tỏ phần Tây Bắc của vùng có hiện tượng kế thừa mạnh mẽ sụt vòm trầm tích và phun trào magma dạng vòm nhiệt. Cấu trúc đặc trưng trong đới là cấu trúc xuyên cắt cảu các thân magma có tuổi muộn hơn có trầm tích magma có trước. Cùng vào đó là các đứt gãy mà một pha là tách giãn, căng đứt, góp phần mở đường cho dung nham mafic lên nhanh vào trào ra dưới dạng núi lửa bazan. Đới tách kiến tạo và hạ võng trầm tích Kainozoi giữa - muộn Sau Paleogen vỏ Trái Đất khu vực nghiên cứu ở giai đoạn bình ổn bóc mòn san bằng cho đến đầu Neogen. Vào đầu Mioxen, do hoạt động dồn ép, trượt toác của đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình - Tiên Yên, do tác dụng các lực kiến tạo từ phía Hymalaya - Vân Nam - Trung Quốc và các lực khác ở đây cấu trúc trượt toác tạo nên các địa hào dọc thung lũng NaSa. Trong các địa hào bắt đầu quá trình trầm tích dạng vũng vịnh của sông với độ chênh cao khá lớn. Trầm tích gồm các các lớp khấu kính cuội, sạn, cát, bột, sét và sét than. Nguồn vật liệu chủ yếu từ bên hồ địa hoà nên rất giày felspat thuộc các hệ tầng Khôn Làng, Tam Danh, Tam Lung. Cuối Mioxen ngừng quá trình tách giãn, sụt võng giảm hẳn thay vào đó là quá trình dồn ép theo các hướng từ Đông Nam xuống Tây Bắc, từ Tây Nam về Đông Nam. Tuy nhiên hướng của lực có những giai đoạn thay đổi và trượt ngược lại. Quá trình nói trên đã hình thành các nếp uốn, đứt gãy nghịch có mặt trượt nghiêng về phía Tây Bắc. Hiện tượng như thế thấy rõ trong trầm tích Neogen khu vực Hợp Thành và khu vực Đông Bắc Nà Nùng. Từ cuối Mioxen đến đầu Đệ Tứ vùng nghiên cứu chịu quá trình san bằng trong hoạt động kiến tạo khá bình ổn. Sang nửa đầu Đệ Tứ hoạt động kiến tạo trẻ tăng lên làm xuất hiện một số đứt gãy phương á kinh tuyến Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc - Tây Nam. Hiện tượng nói trên hình thành các dạng elip hoặc dạng vòng ở phía Nam và Đông Nam vùng nghiên cứu. Tại đây đã tích đọng các lớp cuội, sạn, cát, cát pha, sét pha và các vật liệu hữu cơ có liên quan qua tới hoạt động tích tụ của sông Kỳ Cùng. Trong thời gian gần đây dọc đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình - Tiên Yên vẫn xảy ra hiện tượng hạ tương đối với tốc độ 0.7 - 1.0mm trên năm. Đặc diểm các khe nứt, đứt gãy và nếp uốn. Khe nứt Các khe nứt trong vùng nghiên cứu có nguòn gốc nội sinh và ngoại sinh. Các khe nứt nội sinh do hoạt động kiến tạo, hoạt động magma, hoạt động biến chất gây ra. Trong đó các khe nứt kiến tạo có vai trò cơ bản, Các khe nứt ngoại sinh chủ yếu do phong hóa, đổ lở và một số tác nhân khác chúng phân bố trong vùng nghiên cứu . a, Khe nứt nội sinh. Chủ yếu là khe nứt do kiến tạo, phát triển có quy luật rõ ràng các khe nứt này liên quan chặt chẽ với đứt gãy, nếp uốn. Khe nứt liên quan đến đứt gãy phát triển ngay trong đới đứt gãy và bên cạnh. Khe nứt liên quan đến nếp uốn thì các uốn nếp làm cho đá bị nứt nẻ mạnh tạo điều kiện tốt cho quá trình phong hóa, bóc mòn, xâm thực ,hòa tan tạo nên địa hình đảo ngược ở nhiều nơI thuộc vùng thành phó Lạng Sơn. b, Khe nứt ngoại sinh. Đây là khe nứt do quá trình phong hóa tạo nên và một sồ nguồn gốc khác. Khe nứt do phong hoa phát triển trên các đá cát kết, bột kết, sét két, đá voi và trong các đá phun trào Ryolit… Trong đó các đá cát – bột – sét kết phổ biến là khe nứt vòng do hiện tượng phong hóa hình cầu như ở khu vực thác Trà, phía Tây bệnh viện lao phổi LS… khe nứt phát triển trong đá vôI lam cho các đá bị nứt nẻ phong hóa ạo bề mặt dạng dăm nên đôI khi có thể nhầm với dăm kết kiến tạo. Đứt gãy Vùng TP Lạng Sơn có hoạt động đứt gãy khá mạnh với các hệ thống đứt gãy: - Hệ thống đứt gãy theo phương Tây Bắc- Đông Nam -Hệ thống đứt gãy theo phương á kinh tuyến -Hệ thống đứt gãy theo phương á vĩ tuyến - Hệ thống đứt gãy theo phương Đông Bắc – Tây Nam Theo tài liệu khảo sát thực tế, tài liệu tham khảo, tài liệu phân tích kết hợp với quá trình đi lộ trình chúng tôi trình bày đặc điểm chính của một số đứt gãy trong vùng TP Lạng Sơn a, Đứt gãy theo phương TB-ĐN Đứt gãy F1: Đứt gãy Cao Bằng- Lộc Bình- Tiên Yên là đứt gãy sâu lớn nhất ở khu vực Đông Bắc VN. Trên bình đồ cấu trúc đứt gãy gần vuông góc với hướng cấu tạo của đá Paleozoi muộn-Mezozoi. Dọc theo đứt gãy đã phát triển các thành tạo địa hào Neogen hẹp kéo dài theo phương TB-ĐN. Dờu hiệu nhận biết các đứt gãy trực tiếp là: hiện tượng khe nứt, mặt trượt, nếp uốn, vò nhàu trong các đá trầm tích và phun trào của các hệ tầng Khôn Làng, Tam Danh, Tam Lung, Nà Khuất, Mẫu Sơn. Dờu hiệu nhận biết gián tiếp là sự định hướng của thung lũng kéo dài suốt từ CBằng qua Lạng Sơn đến Tiên Yên( QN), linement trên ảnh vệ tinh. Theo các tài liệu địa chất dứt gãy F1 cắt qua vỏ TĐ sâu 20-30km thậm chí 40-60km, dọc theo đứt gãy có hiện tượng hạ võng 0.7mm/năm và trượt ngang, cánh ĐB trượt về phía Tây Bắc, cánh TN trượt về phía Đông Nam. Hiện tại ở khu vực nghiên cứu do hoạt động đứt gãy này và dồn ép của khối Mẫu Sơn về phía Tây- Tây Bắc đã hình thành các đứt gãy ngang tạo dịch chuyển rõ nét, tác động không nhỏ đến sự ổn định của các công trình ở phần phía Nam cầu bê tông qua sông Kỳ Cùng và khu vực vườn hoa Hoàng Văn Thụ. Đứt gãy F2: Nằm ở phía Đông Bắc vùng nghiên cứu kéo dài theo phương ĐB-TN và đi qua khu vực Kéo Tàu. Đứt gãy này chúng tôI gặp ở điểm lộ 1515 lộ trình từ Phai Vệ đi Khón Lênh. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy này là tại điểm lộ có đới dăm kết rộng 1-1.5m, cao 5m, bên tráI là các trầm tích lục nguyên gồm cát, bột và sét kết thuọc hệ tâng Lạng Sơn, bên phải là khối núi đá vôi chứa hóa đá trung lỗ thuộc hệ tần Đồng Đăng. Chúng ta cũng xác định được đây là đứt gãy thuận có cánh treo tụt xuống và cánh trụ dịch chuyển lên, thế nằm của mặt đứt gãy đo dược là 45/60. Đứt gãy F3 : nằm ở vùng Đông Bắc vùng nghiên cứu cách diểm lộ 1515 khoảng 300m, đứt gãy mà chúng ta nghiên cứu là một đứt gãy nghịch có cánh treo dịch chuyển lên trên, cánh trụ xuống dưới, bề rộng đới đứt gãy này khoảng 1-1.5m, trước đó ở đây đã có một đứt gãy F3 trượt dọc sông song với mặt lớp, 2 hệ thống đứt gãy này giao nhau và làm mất đI tính liên tục của thân đá. Đứt gãy này tác dụng lên các lớp đá của hệ tầng LS làm cho đôI chỗ ta nhìn thấy có hình dạng khúc dồi. Đứt gãy trẻ F3 có thế nằm 68/58. Đứt gãy F4 : Chúng ta bắt gặp đứt gãy này ở điểm lộ 1517 trên lộ trình từ Phai Vệ đI Khón Lênh. Dọc theo đới đứt gãy này ta thấy đá bị dập vỡ và cà nát mạnh. Chúng ta cũng đang đứng ở mức địa hình tương đói cao nhưng lại quan sát thấy một giếng nước ở ben cánh và đó là cánh treo. Ta cũng biết rằng các đá phun trao ryolit huộc hệ tàng Khôn Làng có mức độ lỗ hổng thấp, khả năng chứa nước kem do đó ta kết luận đây là một đứt gãy và là đứtgãy thuận. Nước thường tìm thấy ở các khe nứt, đứt gãy hay là dấu hiệu thủy văn. Đứt gãy F5 : Nằm ở phía Tây Bắc của vùng nghiên cứu tại điểm lộ 1521 bên cạnh đền thờ Trần Hưng Đạo chúng ta bắt đới đứt gãy chạy dọc theo hướng TB-ĐN. Đứt gãy này cắt qua các đá cát, bột và sét kết thuộc hệ tầng LS, dấu hiệu nhận biết đứt gãy này chíng là đới dăm kết ở đây nà sự vỡ vụn của các đá. Đứt gãy có thế nằm 68/58 và là đứt gãy thuận. Đứt gãy F6: Nằm ở bên trái quốc lộ 1A cũ trên lộ trình từ Phai Vệ đI Bản Lỏng, đứt gãy này cắt qua khối đá vôI của hệ tầng Đồng Đăng làm mất đI tính liên tục của thân đá , một dấu hiệu nữa đố là trong đá vôI có chứa hóa đá trùng lỗ làm cho độ lỗ hổng của đá tăng lênkhi sv này chết đi , phân hủy hoặc hóa thạch. Và khi chịu sự nen ép thì đá bị cà nát vỡ vụn tạo thành sản phẩm dăm kết dọc theo đới đứt gãy. Ta xác định được thế nằm của đứt gãy là 75/40 và là đứt gãy nghịch. Dựa vào thế nằm ta có thể kết luận tthêm đây là một đứt gãy chờm nghịch. Đứt gãy F7: Đứt gãy này chúng ta gặp ở điểm lộ 1532 cách cầu Phong Vài khoảng 250m về phía Tây Nam. Đứt gãy có phương TB-ĐN này cắt qua các đá phun trào Ryolit của hệ tầng Khôn Làng. dấu hiệu để nhận biét đứt gãy là sự xuất hiện đới sụt lún làm cho các đá mất đI tính liên tục, bị cà nát vỡ vụn có bề rộng 1-1.5m. Thế nằm của đứt gãy đo được là 225/75 và ta cũng xác định được đây là một đứt gãy nghịch. Đứt gãy F8: Đứt gãy chạy dọc theo phương TB-ĐN ở điểm lộ 1541 bên phảI đường đI cầu Bình Cầm. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy là sự mất đI tính lien tục của các lớp cát – bọt và sét kết tuọc hệ tầng Lạng Sơn, ở gần và trong đới đứt gãy thì các đá bị vỡ vụn , cà nát tạo thành các mảnh dăm. Chúng ta cũng xác định được đây là một đứt gãy nhịch có cánh treo dịch chuyển lên tren tương đối so với cánh trụ. Đứt gãy F9 : Đây là mồt đứt gãy lớn kéo dài từ Còn Lượt tới Pò Lỡo.Đứt gãy cắt qua các đá của hệ tầng Mẫu Sơn và Nà Khuất. Dấu hiệu nhận biết là sự vỡ vun của các đá dọc theo đứt gãy cùng với đó là dăm kết kiên tạo hình thành trong đới đứt gãy. Đứt gãy F10, F10 là hai trong khá nhiều đứt gãy lớn có phương TB-ĐN, cắt qua rất nhiều các loại dá của các hệ tầng khác nhau. Dấu hiệu để nhận biết các đứt gãy này vần là tính liên tục và sự dập vỡ của các đá dọc theo đới đứt gãy. b, Đứt gãy theo phương á kinh tuyến. Đứt gãy F11: Đứt gãy này chúng ta gặp ở điểm lộ 1511 cách điểm lộ 1510 tức động Nhị Thanh khoảng 1km trên đường đI Nà Pàn. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy là sự gián đoạn tính liên tục của thân đá, thế nằm thay đổi và đới dăm kết hình thành dọc theo đứt gãy. Thế nằm của mặt đứt gãy đo được là 80/35 và đây là một đứt gãy chờm nghịch. Đứt gãy F12, F13, F14: Đây là nhữg đứt gãy mà chúng ta đã gặp hoặc đẫ được nghe các thầy giới thiệu sơ bộ về các đứt gãy có phương kéo dài á kinh tuyến này. Đứt gãy F12 trong vùng nghiên cứu cắt qua sông Kỳ Cùng và chạy song song với 1phần quốc lộ 1A mới. Đứt gãy F13 đi qua khu vực Nà Bò – Nà Ngọt, dứt gãy F14 ở trên đường đi cửa khẩu Hữu Nghị. Dấu hiệu nhận biết các đứt gãy này có thể là tính liên tục của thân đá sự thay đổi thế nằm, đới dăm kết kiên tạo, gờ trượt, vết xước và sự dịch chuyển của các khối đá. c, Đứt gãy theo phương á vĩ tuyến. Đứt gãy F15 : Đứt gãy chúng ta gặp ở điểm lộ 1545 ở khu vực Nà Bang. Đây là đứt gãy chạy dọc theo phương Đông Tây trên lộ trình độc lập từ Phai Vệ đI Khuôn Sác. Đới đứt gãy này cắt qua các đá cát-bột và sét kết thuộc hệ tầng Lạng Sơn. Chúng ta cũng xác định được đây là đứt gãy thuận vì có cánh treo dịch chuyển xuống dưới và cánh trụ lên trên. d, Đứt gãy theo phương Đông Bắc- Tây Nam. Đứt gãy F16, F17: Đây là hai trong số rất nhiều các đứt gãy có phương kéo dài ĐB-TN các đứt gãy này nằm ở phía Đông Nam tp LS, các đứt gãy này cắt qua các đá của các hệ tầng Khôn Làng, Nà Khuất và các trầm tích Đệ Tứ. Đứt gãy F18: Dứt gãy này cúng ta bắt gặp ở điểm lộ 1514 trên lộ trình từ Phai Vệ đI bệnh viên Lao Phổi LS, cách bệnh viện lao phổi và trăm mét bên dònh sông Kỳ Cùng. Đây là đứt gãy dịch chuyển ngang và là đứt gãy trượt bằng phải. Dấu hiệu nhận biết đứ gãy là các đá phun trào Ryolit xen kẽ với các đá trầm tích của hệ tầng Khôn Làng, ở đới đứt gãy xuất hiện các đá dăm kết kiến tạo. Như vậy có thể là thông qua các khe nứt, đứt gãy này mà các dung thể magma xuyên lên tạo thành các đá ryolit hệ tầng Khôn làng xuyên cắt qua các đá trầm tích của hệ tầng Kỳ Cùng. Đứt gãy F19: Đứt gãy này chúng ta gặp ở điểm lộ 1527 tại khu di tích lịch sử Vạn Hoa . Đứt gãy này cắt qua khối đá vôI của hệ tầng Đồng Đăng làm cho các đá bị cà nát, ép nén tạo thành các sản phẩm giống như Milonit, hiên tượng Karst ở đây diễn ra khá mạnh, khi cịu tác dụng của đứt gãy này xảy ra sự trượt lở. Đó là những dấu hiệu cơ bản để nhận biết đứt gãy này. Nếp uốn Vùng nghiên cứu là nơi có cấu trúc mảng lục địa vào cuối Paleozoi bị dập vỡ hình thành các đứt gãy sâu vào cuối Pecmi đầu Trias hoạt động cho đến cuối Mioxen. Với đặc điểm kiến tạo như trên trong vùng đã phát triển một số sếp uốn ngắn, vòm rộng, thoải có góc ở các cánh không lớn. Về thời gian và quá trình thành tạo có thể chia các lớp uốn ở đây thành ba thời kỳ (pha) chính như sau: Vào cuối Pecmi trung; vào cuối Anizi; vào cuối Trias. Vào cuối Pecmi trung các thành tạo cacbonat hệ tầng Bắc Sơn bị dồn ép dâng cao, uốn nếp trở thành lục địa, địa hình là các nếp uốn thoải, ngắn Sau đay chúng tôI xin giới thiệu một số uốn nếp trong vùng: Nếp uốn U1 : Cách động Nhị Thanh khoảng 1km, ở điiểm lộ 1515 trên lộ trình Phai Vệ – Bến nước ngầm – bệnh viên Lao phổi LS. Nếp uốn được cấu tạo từ các đá cát kết, bột kết và sét kết của hệ tầng Lạng Sơn. Đây là nếp uốn khá cân xứng, bề dày các lớp ổn định, vòm nhọn vì thế đây là nếp uốn song song vòm nhọn. Ta đo được thế nằm của cánh tráI là 325/40, cánh phảI là 95/40 và thế nằm của mặt trục có phương kéo dài 225-45o , nếp uốn ta khảo sát là nếp lồi. Nếp uốn U2, U3 : Chúng ta bắt gặp những nếp uốn này ở điểm lộ 1521 bên bờ sông Kỳ Cùng, cạnh đền thờ Trần Hưng Đạo. Đây là các nếp uốn lồi lõm xen kẽ nhau, hình thành cùng các nếp uốn này là các thớ chẻ. Thế nằm của nếp uốn trục Bắc Nam có cánh Tây là270/60 và cánh Đông là 70/62. Theo một số tài liệu thì có thể đây là một phần của các nếp uốn kéo dài từ Thác Trà đến đền thờ Trần Hưng Đạo nhưng nếp uốn này nhỏ và có trục theo phương á kinh tuyến. Nếp uón U4 : Nếp uốn này nằm đối diện với bờ sông, ở trước cửa hàng xăng dầu số 2 trên đường Trần Quang Khải. Khi khảo sát điểm lộ 1522 chúng tôI phát hiẹn ra ở đây có hiện tượng uốn nếp, các nếp uốn lộ ra là các nếp lồi có thế nằm cánh Đông là 65/25 và cánh Tây là 245/25, các đá bị uốn nếp là cát, bột và sét kết thuộc hệ tầng Lạng Sơn. Nếp uốn U5, U6, U7 : ở lộ trình độc lập đầu tiên Phai Vệ – Giếng Tiên - Đèo Giang chúng tôI đã gặp khá nhiều các nếp uốn khác nhau ở khu vực này. Các nếp uốn lồi lõm liên tiếp nhau, đôI chỗ bị ngắt quãng bởi các đứt gãy thuận. Thế nằm của nếp uốn U5 và U6 lần lượt là 230/48, 75/55 và 75/55, 265/55. Nếp uốn U7 là một nếp uốn nghiêng trong đó một cánh có thế nằm 60/37 và cánh còn lại là 273/77. ở đây chúng ta còn bắt gặp rất nhiều các nếp uốn có thế nằm và mức độ uốn nếp khác nhau trong đó có rất nhiều nếp uốn thoảI và một số it nếp uốn đổ. Các đá bị uốn nếp là cát kết, bột kết và sét kết của hệ tầng LS. Nếp uốn U8, U9, U10… nằm ở điểm lộ 1545 cũng tương tự các nếp uốn chúng tôI đã gặp trên đèo Giang. Rất nhiều các nếp lồi, lõm và các nếp uốn nghiêng làm biến dạng các đá cát, bột cà sét kết thuộc hệ tầng Lạng Sơn. CHƯƠNG VII ĐỊA MẠO Vùng TP Lạng Sơn thuộc vùng đồi núi thấp ở Đông Bắc nước ta, nơi đây có địa hình đồi núi, núi đá vôi, thung lũng và đồng bằng được cấu thành bởi các trầm tích lục nguyên carbonat, đá phun trào, phát triẻn trên cấu trúc dạng phức nếp lồi thành tạo từ kỷ cacbon đến nay. Vùng ghiên cứu trải qua chế độ lục địa lâu dài trong dới khí hậu nóng ẩm mư nhiều thuận lợi cho quá trình xói mòn, hòa tan, xâm thực thành tạo các kiểu địa hình có nguồn gốc khác nhau. Do các thnàh tạo carbonat hệ tầng Bắc Sơn có tuổi cổ nhất có vai trò nhận dạng các nếp uốn và nằm trong các điều kiện không gian thời gian đã nêu. Mà đây là nơi các đá bị hòa tan, xâm thực bóc m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThực tập địa chất Lạng Sơn.docx
Tài liệu liên quan