Nhóm hàng máy móc thiết bị nhập khẩu kém ổn định hơn nhóm trên, tỷ trọng bình quân trong cả giai đoạn này là 16,3%, giá trị nhập khẩu tăng từ 11.472 triệu đồng năm 2003 lên 13.280 triệu vào năm 2004 nhưng đến năm 2005, giá trị lại giảm xuống chỉ còn 8.922 triệu đồng nhưng đã tăng trở lại vào năm 2006 với tổng giá trị là 18.281 triệu đồng. Tuy nhiên, xu hướng cho thấy tỉ trọng mặt hàng này giảm qua các năm. Nguyên nhân chính là do giá trị nhập khẩu của lốp ôtô tăng quá nhanh làm cho giá trị của mặt hàng này tuy có tăng nhưng tỉ lệ không tăng tương ứng được.
Đá Granit và Marble nhập khẩu cũng tương tự như máy móc thiết bị, tăng về giá trị, nhưng tỉ lệ lại tăng giảm thất thường và mức đóng góp vào tổng giá trị nhập khẩu không cao, trung bình khoảng 8,4%. Giá trị mặt hàng này tăng qua các năm là do nhu cầu về xây dựng trong cả nước tăng nên nhu cầu về mặt hàng này cũng tăng theo.
43 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
184.450
85
2
Xuất khẩu
10.361
12,1
8.004
7,5
13.450
6,2
3
Xây dựng
2.040
2,4
13.660
12,8
19.100
8,8
Tổng
85.445
100
106.664
100
217.000
100
(nguồn: tổng hợp số liệu từ năm 2004-2006-Phòng Kế Toán)
Hoạt động nhập khẩu của công ty luôn chiếm ưu thế, doanh thu hoạt động nhập khẩu luôn tăng qua các năm và tăng đột biến vào năm 2006, tăng 217 % so với năm 2005, góp phần làm cho tổng doanh thu tăng 203%. Doanh thu hoạt động xuất khẩu thay đổi qua các năm, giảm vào năm 2005 và tăng trở lại vào năm 2006, tỉ lệ đóng góp vào tổng doanh thu không cao lắm và có xu hướng giảm dần. Tỉ lệ đóng góp của hoạt động xuất khẩu thấp là do sản phẩm xuất khẩu của công ty là hàng nông sản, giá trị thấp và qui mô xuất khẩu nhỏ. Hoạt động thi công xây lắp tăng cả về giá trị công trình và tỉ lệ trong tổng doanh thu, chủ yếu là thi công xây dựng, lắp đặt thiết bị các công trình dân dụng. Do giá trị của mỗi công trình không lớn lắm nên tỉ lệ đóng góp vào tổng doanh thu của lĩnh vực xây dựng vẫn còn khiêm tốn.
II. Hàng hoá và thị trường tiêu thụ
1. Đối với hoạt động xuất khẩu
Mặt hàng xuất khẩu của công ty là hàng nông sản, chủ yếu là chè đã qua chế biến, ngoài ra còn có cà phê sơ chế
Thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước Trung Đông như Pakistan và Iraq và một số nước Tây Âu (Anh), Nhật Bản,…
Trong năm 2006, Công ty đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU là 9.517.220.000đ chiếm tỉ trọng 70,76 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường Trung Đông đứng vị trí thứ hai với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2.536.670.000đ chiếm tỉ trọng 18,86%. Tiếp theo là thị trường Nhật Bản với giá trị xuất khẩu 406.190.000đ chiếm tỉ trọng khiêm tốn 3,02% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
2. Đối với hoạt động nhập khẩu
3 nhóm hàng nhập khẩu chính của công ty:
- Điện tử gia dụng
- Máy móc thiết bị
- Vật liệu xây dựng
Là công ty được phép xuất nhập khẩu trực tiếp nhưng hoạt động nhập khẩu chiếm ưu thế hơn hoạt động xuất khẩu. Trên các thị trường Công ty lựa chọn hàng hoá có uy tín chất lượng cao và giá cả phù hợp để nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của các đối tượng khách hàng khác nhau.
Thị trường Châu Á: thị trường này bao gồm nhiều thị trường khác nhau bao gồm các nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ,…Khối lượng nhập khẩu từ những thị trường này rất lớn bởi những mặt hàng khi nhập khẩu được tiêu thụ tốt trong nước.
Với thị trường Trung Quốc, các mặt hàng chủ yếu được nhập đó là hàng điện tử gia dụng như: nồi cơm điện, tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, lò vi sóng..., các thiết bị máy móc dân dụng phục vụ nhu cầu đời sống ngày càng cao của người tiêu dùng. Hàng điện tử gia dụng là lĩnh vực thuộc về mảng kinh doanh nội địa, công ty hoạt động bằng cách nhập khẩu từ các đối tác nước ngoài ( Tiger, Hier) và thực hiện việc bán buôn, bán lẻ ở thị trường trong nước. công ty điện tử Tiger của Nhật Bản, Hier của Trung Quốc là hai nhà phân phối chính của công ty trong lĩnh vực điện tử gia dụng. Ngoài ra, thị trường Trung Quốc còn là thị trường mà công ty nhập khẩu mặt hàng đá xây dựng khá lớn.
Với thị trường Nhật Bản, mặt hàng điện tử gia dụng được nhập ít hơn thị trường Trung Quốc. Mặt hàng nhập khẩu chính của thị trường này là máy móc thiết bị và nó chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn các thị trường khác nhờ lợi thế về giá cả và chi phí vận chuyển. Ngoài ra, công ty còn nhập khẩu khá nhiều lốp ôtô từ thị trường này.
Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ là ba thị trường nhập khẩu chính về mặt hàng chiếm tỉ trọng cao nhất: lốp ôtô.
Thị trường châu Âu: Công ty nhập khẩu từ thị trường này những sản phẩm như: vật liệu xây dựng, sắt thép, máy móc thiết bị,... phục vụ cho ngành xây dựng và giao thông do nhu cầu xây dựng trên địa bàn thủ đô và một số địa phương khác đang có xu hướng tăng nên thị trường này có sẽ ngày càng được mở rộng trong tương lai.
Bảng 4: Cơ cấu giá trị hàng hoá nhập khẩu theo thị trường
Đơn vị: nghìn USD
STT
Năm
Thị trường
2003
2004
2005
2006
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
1
Trung Quốc
503,5
14,5
654,5
16,3
1059,0
21,5
1359,9
13,4
2
Nhật Bản
623,0
17,9
738
18,4
960,7
19,5
1125,5
11,1
3
Châu Âu
234,0
6,7
250,6
6,2
270,4
5,5
201,3
2,0
4
Thị trường khác
2.119,5
60,9
2376,9
59,1
2642,9
53,5
7431,6
73,4
Tổng
3.480,0
100
4020,3
100
4.933,0
100
10.118,3
100
Bảng 5: Cơ cấu giá trị hàng hoá nhập khẩu theo mặt hàng
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Năm
Mặt hàng
2003
2004
2005
2006
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
1
Điện tử gia dụng
5.858
11,1
6.454
10,2
8.980
11,4
18.267
11,2
2
Máy móc thiết bị
11.472
21,8
13.280
20,9
8.922
11,3
18.281
11,2
3
Đá xây dựng
3.107
5.9
5.600
8,8
8.500
10,8
13010
8,0
4
Lốp ô tô
22.350
42.4
30.730
48,4
43.430
55,1
91.800
56,1
5
Hàng hóa khác
9.885
18.8
7.456
11,7
8968
11,4
21142
12,9
Tổng
52.672
100
63.520
100
78.800
100
163.500
100
(nguồn: Tổng hợp số liệu của Phòng Xuất Nhập Khẩu từ 2003-2006)
Trên thực tế, một số mặt hàng chiếm doanh thu rất lớn của công ty như lốp ô tô, máy móc thiết bị kể trên đều là mặt hàng nhập khẩu uỷ thác nhưng trên danh nghĩa thì các mặt hàng này lại là mặt hàng nhập khẩu trực tiếp. Vì trên danh nghĩa là mặt hàng nhập khẩu trực tiếp nên doanh thu bán các mặt hàng này không những được tính vào kim ngạch nhập khẩu mà còn được tính vào doanh thu xuất nhập khẩu, những khoản thuế phải nộp từ các mặt hàng này cũng được tính vào phần nộp ngân sách Nhà nước của công ty. Tuy nhiên doanh thu thực tế của công ty vẫn chỉ tính trên phần trăm giá trị lô hàng nhập khẩu.
Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, hàng điện tử gia dụng có doanh số chiếm tỉ lệ tương đối và tăng qua các năm, nhưng tỉ trọng của nó lại tăng giảm thất thường. Năm 2003 doanh số là 5.858 triệu đồng, chiếm 11,1%, liên tục tăng qua các năm 2004, 2005 và đến năm 2006 là: 18.267 triệu đồng, chiếm 11,2% tổng giá trị hàng nhập khẩu, năm 2006 giá trị nhập khẩu tăng đột biến 203,4% so với năm 2005. Tỷ trọng trung bình của giai đoạn 2003-2006 là 11%. Nguyên nhân là do đời sống của nhân dân ngày càng cao, nhu cầu mặt hàng này tăng khá cao. Hơn nữa, một số mặt hàng gia dụng đang tăng về nhu cầu hiện nay như máy rửa hoa quả bằng Ozone, máy làm đá siêu tốc,…Công ty hiện đang là nhà phân phối độc quyền tại Việt Nam. Tuy nhiên sản xuất trong nước cũng đã có những tiến bộ đáng kể, người tiêu dùng lựa chọn ngày càng nhiều hàng sản xuất trong nước (Hàng Việt Nam chất lượng cao - giá rẻ hơn và chất lượng tương đối đồng đều), bên cạnh đó, công ty phải cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường với các nhà nhập khẩu khác về các mặt hàng tương tự.
Nhóm hàng máy móc thiết bị nhập khẩu kém ổn định hơn nhóm trên, tỷ trọng bình quân trong cả giai đoạn này là 16,3%, giá trị nhập khẩu tăng từ 11.472 triệu đồng năm 2003 lên 13.280 triệu vào năm 2004 nhưng đến năm 2005, giá trị lại giảm xuống chỉ còn 8.922 triệu đồng nhưng đã tăng trở lại vào năm 2006 với tổng giá trị là 18.281 triệu đồng. Tuy nhiên, xu hướng cho thấy tỉ trọng mặt hàng này giảm qua các năm. Nguyên nhân chính là do giá trị nhập khẩu của lốp ôtô tăng quá nhanh làm cho giá trị của mặt hàng này tuy có tăng nhưng tỉ lệ không tăng tương ứng được.
Đá Granit và Marble nhập khẩu cũng tương tự như máy móc thiết bị, tăng về giá trị, nhưng tỉ lệ lại tăng giảm thất thường và mức đóng góp vào tổng giá trị nhập khẩu không cao, trung bình khoảng 8,4%. Giá trị mặt hàng này tăng qua các năm là do nhu cầu về xây dựng trong cả nước tăng nên nhu cầu về mặt hàng này cũng tăng theo.
Về mặt hàng lốp ô tô, tăng cả về giá trị và tỉ trọng nhưng nhìn thấy rõ nhất sự tăng trưởng qua giá trị nhập khẩu qua các năm 2003, 2004, 2005 và đặc biệt năm 2006 lên đến 91.800 triệu đồng, chiếm 56,1% trong tổng giá trị hàng nhập. Mặc dù thị trường trong nước trong năm 2005, 2006 giảm nhu cầu nhập mặt hàng này do chất lượng lốp ôtô của các công ty trong nước như Casumina, Sao Vàng,… tương đương hàng ngoại nhập mà giá cả lại rẻ hơn từ 5-15% nhưng số lượng nhập của công ty vẫn không ngừng tăng lên là do công ty chỉ chuyên nhập các loại lốp ô tô có chất lượng cao của các thương hiệu nổi tiếng như Bridgestone hay Ornest, do đó đã đáp ứng nhu cầu của một bộ phận lớn khách hàng.
Nhóm hàng nhập khẩu khác gồm hoá chất các loại, hạt nhựa, thép, ván sàn,… tăng, giảm thất thường cả về tỷ trọng và kim ngạch. Năm 2003, giá trị đạt 9.885 triệu đồng, tỷ trọng của nhóm hàng này chiếm tới 18,8% nhưng đến năm 2004, giá trị mặt hàng này giảm khá mạnh cả về giá trị nhập khẩu và tỉ trọng, năm 2005 giá trị tăng trở lại nhưng tỉ trọng lại giảm. Đến năm 2006 giá trị nhập khẩu mặt hàng này có sự tăng lên đột biến lên gấp 2,4 lần và tỷ trọng tăng trở lại đạt 12,9% so với tỷ trọng bình quân giai đoạn 2003-2006 là 13,7%.
III. Hoạt động Marketing của công ty
1. Mạng lưới kênh phân phối
Mạng lưới kênh phân phối của công ty ở Miền Bắc: Có các cửa hàng đại lý ở tất cả các quận trên toàn thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, còn có các cửa hàng đại lý ở huyện Đông Anh, ở thị xã Hà Đông-Hà Tây, Hải Phòng, Nam Định
Mạng lưới kênh phân phối ở miền Trung: Cửa hàng đại lý tại thành phố Đà Nẵng
Mạng lưới kênh phân phối tại miền Nam: Có tổng số 4 đại lý tại thành phố Hồ Chí Minh, ngoài ra còn có đại lý tại thành phố Cần Thơ.
2. Chính sách giá của công ty
Chiến lược định giá ngang bằng giá thị trường là chiến lược giá cơ bản của công ty. Phương pháp này phù hợp với mặt hàng giống nhau hoặc tương tự nhau và nó được áp dụng phổ biến cho các mặt hàng kinh doanh của công ty. Ngoài ra Công ty còn áp chính sách giá thấp hơn giá thị trường trong trường hợp mặt hàng này đang ở pha suy thoái trên thị trường hoặc cung thị trường lớn hơn cầu.
Công ty thường sử dụng kỹ thuật định giá như sau:
- Định giá trên cơ sở chi phí cộng thêm: được áp dụng cho hầu hết các mặt hàng vì công ty kinh doanh rất nhiều loại mặt hàng nên khó định giá cho từng loại mặt hàng trên cơ sở phân tích nhu cầu và chi phí của từng loại riêng biệt. Khi đưa ra quyết định giá cuối cùng, có thể tăng hoặc giảm để đạt được mức giá theo phương pháp định giá số lẻ được coi là mức hấp dẫn hơn đối với khách hàng về mặt tâm lý.
Định giá theo giá hiện hành: Là kỹ thuật định giá trên cơ sở phân tích thị trường và cạnh tranh. Công ty có thể định giá theo giá của các công ty khác trên thị trường. Tuy nhiên, hiện nay công ty chỉ định theo giá đã được xác định trên thị trường. Kỹ thuật này được áp dụng cho nhóm hàng hoá chất, vật liệu xây dựng,…
Mức giá tại các cửa hàng của công ty có thể khác nhau mặc dù cùng một loại mặt hàng do công ty áp dụng chính sách giá khác nhau tại các cửa hàng. Mức giá của công ty khá linh hoạt, phù hợp với điều kiện cạnh tranh.
IV. Phân tích hiệu quả kinh doanh của công ty
1. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Bảng 6: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Tăng
2005/2004
Tăng
2006/2005
+/-
%
+/-
%
1
Tổng doanh thu
85.445
106.664
217.000
21.219
125
110.336
203
2
Tổng chi phí của hoạt động SXKD
82.025
102.708
212.018
20.683
125
109.310
206
3
Tổng lợi nhuận
3.420
3.956
4.982
536
116
1026
126
4
Hiệu quả hoạt động
1,042
1,039
1,023
-0,003
99,7
-0,015
98,55
(nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004-2006)
Nhìn vào bảng trên ta thấy, tổng doanh thu của năm 2006 tăng đột biến so với năm 2005 về cả số tuyệt đối và số tương đối. Tuy nhiên, lợi nhuận không tăng tương ứng. Tổng lợi nhuận năm 2005 tăng 116%, tổng doanh thu tăng 125%, mức tăng này tương ứng với nhau trong khi năm 2006, tổng doanh thu tăng 203% nhưng lợi nhuận chỉ tăng 126%, mức tăng này không tương ứng với mức tăng của tổng doanh thu. Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động kinh doanh qua các năm có xu hướng giảm, năm 2005 hiệu quả hoạt động chỉ bằng 99,7% năm 2004 và năm 2006 thì chỉ bằng 98,5% năm 2005. Công ty cần nhanh chóng tìm hiểu nguyên nhân và khắc phục tránh để tình trạng này kéo dài.
Bảng 7: Kết quả hoạt động nhập khẩu của công ty
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Tăng 2005/2004
Tăng 2006/2005
+/-
%
+/-
%
1
Tổng doanh thu
85445
106664
217000
21.219
125
110.336
203
2
Doanh thu thuần từ NK
73044
85000
184450
11.956
116
99.50
217
3
Tổng chi phí nhập khẩu
72225
84014
182971
11.789
116
98.957
218
4
Lợi nhuận từ hoạt động NK
819
986
1479
167
120
493
150
5
Hiệu quả hoạt động NK
1,0113
1,0117
1,0081
0.0004
100,04
-0,0037
99,64
(nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004-2006)
Với lĩnh vực nhập khẩu, doanh thu và lợi nhuận cũng tăng không tương ứng với nhau. Đặc biệt năm 2006, doanh thu tăng 203% so với năm 2005 nhưng lợi nhuận chỉ tăng 150%. Hiệu quả hoạt động nhập khẩu năm 2005 có tăng so với năm 2004 nhưng lượng tăng là không đáng kể. Đến năm 2006 hiệu quả lại giảm xuống còn 1,0081. Các chỉ tiêu này của công ty đạt thấp so với các doanh nghiệp trong ngành. Nguyên nhân chính là do :
Qua các năm và đặc biệt là năm 2006 mức tăng về mặt hàng lốp ô tô của công ty rất mạnh, bên cạnh đó các mặt hàng khác như máy móc thiết bị, hoá chất, hạt nhựa,…cũng tăng khá mạnh nhưng những mặt hàng này không phải là mặt hàng nhập khẩu trực tiếp mà là mặt hàng nhập khẩu uỷ thác, công ty chỉ hưởng hoa hồng trên giá trị lô hàng nên lợi nhuận thu từ việc nhập khẩu các mặt hàng này rất thấp mặc dù giá trị nhập khẩu cao.
Mặt hàng nhập khẩu trực tiếp như điện dân dụng năm 2006 nhập khẩu khá nhiều nhưng lại gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường. Do đó, trong năm 2006, chiến lược định giá của công ty có những thay đổi, nhiều sản phẩm được định giá thấp hơn để tăng lượng bán nên doanh thu tăng nhưng lợi nhuận tăng không cao.
2. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí
Bảng 8: Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí
Chỉ tiêu
Đơn vị
2004
2005
2006
1
Tổng chi phí
Triệu đồng
82025
102708
212018
2
Tổng lợi nhuận
Triệu đồng
3420
3956
4982
3
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí (Dc)
%
4,17
3,85
2,35
Bảng 9 : Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí nhập khẩu
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
2006
1
Chi phí NK
Triệu đồng
61.632
72.225
84.014
182.971
2
Lợi nhuận từ hoạt động NK
Triệu đồng
711
819
986
1479
3
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí (Dc-nk)
%
1,154
1,134
1,174
0,808
(nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2003-2006)
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận
Qua 2 bảng trên ta thấy:
Cứ 1000.000đ đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì năm 2004 thu được 41700đ lợi nhuận, năm 2005 thu được 38500đ, năm 2006 thu được 23500đ. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận giảm dần qua các năm.
Năm 2003, cứ 1.000.000 VND công ty bỏ ra để kinh doanh nhập khẩu hàng hoá thì thu được 11.540 VND lợi nhuận.
Năm 2004 công ty bỏ ra 1.000.000 VND thì thu được 11.340VND lợi nhuận.Tương ứng với năm 2005, 2006 lần lượt là 11.740 VND; 8080 VND lợi nhuận. Như vậy, ta thấy tỉ lệ lợi nhuận trên chi phí giảm dần, điều này không tốt nếu để kéo dài sang những năm tiếp theo. Hơn nữa, ta thấy tỷ suất lợi nhuận trên chi phí nhập khẩu nhỏ hơn nhiều so với tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí, điều này cho thấy hiệu quả của hoạt động nhập khẩu là thấp so với hai lĩnh vực còn lại là xuất khẩu và xây dựng.
3. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu
Bảng 10 : Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu.
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
2004
2005
2006
1
Tổng doanh thu
Triệu đồng
85445
106664
217000
2
Tổng lợi nhuận
Triệu đồng
3420
3956
4982
3
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (DDT)
%
4,00
3,71
2,30
(nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh 2004-2006)
Bảng 11 : Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu nhập khẩu
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
2006
1
Doanh thu NK
Triệu đồng
62.343
73.044
85.000
184.450
2
Lợi nhuận từ hoạt động NK
Triệu đồng
711
819
986
1479
3
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (DDT-nk)
%
1,14
1,121
1,16
0,802
(nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh 2003-2006)
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu của công ty trung bình giai đoạn 2003-2006 là 3,336% , tức là cứ một triệu đồng doanh thu chỉ đem lại cho công ty 33.360 đồng lợi nhuận. Còn nếu 1000.000đ đầu tư vào nhập khẩu, chỉ thu được 10.550 đồng lợi nhuận. Như vậy lợi nhuận NK thu được là quá nhỏ, chưa tương xứng với quy mô nhập khẩu của công ty, mặc dù doanh thu tăng nhưng chi phí cũng tăng nên lợi nhuận nhập khẩu tăng không đáng kể. Vì vậy, công ty cần có giải pháp hữu hiệu để giảm chi phí không cần thiết trong khâu nhập khẩu thì sẽ tăng được quy mô về lợi nhuận. Ví dụ như: sử dụng các biện pháp xúc tiến bán hàng, kích thích khả năng tiêu dùng của khách hàng.
4. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng sức lao động:
Bảng 12: Hiệu quả sử dụng lao động:
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
2004
2005
2006
1
Tổng Doanh thu
Tr.đ
85445
106664
217000
2
Tổng lợi nhuận
Tr.đ
3420
3956
4982
3
Quỹ lương
Tr.đ
1.012,32
1.606,8
1.926
4
Số lao động
Người
76
103
107
5
Thu nhập trung bình/tháng
1000đ
1.110
1300
1500
6
Lợi nhuận / người
Tr.đ
45
38,4
46,56
(Nguồn: Tổng hợp số liệu của Công ty giai đoạn 2003-2006)
Ta thấy chỉ tiêu lợi nhuận/người của công ty thay đổi qua các năm, tức là mức đóng góp của 1 người vào lợi nhuận năm 2004 là 45 triệu đồng/người , năm 2005 giảm xuống còn 38,4 triệu đồng/người, đến năm 2006 tăng trở lại và vượt năm 2004, đạt 46,56 triệu đồng/người. Thu nhập của người lao động qua các năm cũng tăng, năm 2004, khi công ty mới cổ phần hoá được 2 năm, thu nhập trung bình chỉ đạt 1110 nghìn đồng nhưng sau 2 năm tiếp theo, thu nhập đã tăng lên 1.500 nghìn đồng, tức là tăng 135%. Nguyên nhân là do lợi nhuận của công ty tăng qua các năm, trình độ trung bình của người lao động tăng và do yêu cầu của việc nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty. Tuy nhiên, nếu so với các doanh nghiệp trong ngành thì mức thu nhập trung bình của lao động trong công ty là không cao. Nguyên nhân chính là do công ty có lực lượng lao động thời vụ khá đông đảo, chiếm khoảng 30% lao động của công ty, mà lực lượng này có mức tiền công thấp nên làm cho thu nhập trung bình của công ty giảm đi. Trên thực tế, mức thu nhập của nhân viên tại các phòng ban của công ty năm 2006 khoảng 2.000.000đ/người/tháng.
V. Đánh giá chung về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty
1. Thành tựu
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác của Việt Nam, Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng được hoạt động trong môi trường chính trị ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự nhanh nhạy trong việc mở rộng hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia trên thế giới đã giúp Công ty có thêm nhiều cơ hội trong việc phát triển thị trường nhập khẩu và mở rộng mặt hàng. Sự gia nhập vào ASEAN, APEC và bây giờ là WTO của Việt Nam đã và sẽ tiếp tục tạo những điều kiện tích cực trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty khi tham gia trực tiếp vào lĩnh vực này. Điều đó đã tạo ra điều kiện thuận lợi trong việc ký kết các hợp đồng nhập khẩu, tìm được nhiều thị trường có uy tín.
Công ty có trụ sở tại số 245-Nguyễn Tam Trinh-Hoàng Mai-Hà Nội và hệ thống các cửa hàng, đại lý nên đã tạo ra thuận lợi trong quá trình giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng và điểm tiêu thụ hàng nhập khẩu của mình. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, vốn, cán bộ... nhưng những năm qua Công ty cũng đã gặt hái được nhiều thành công, đó là:
Tốc độ tăng trưởng của giá trị hợp đồng nhập khẩu không ngừng tăng và đạt ở mức cao, doanh thu nhập khẩu chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu của Công ty. Do đó, Công ty đã đóng góp không nhỏ vào quá trình lưu thông hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của sản xuất, tiêu dùng.
Thị trường nhập khẩu không ngừng mở rộng: Công ty có quan hệ với hơn 10 nước trên thế giới thông qua các công ty có uy tín bằng việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá. Trong quá trình hợp tác Công ty luôn cố gắng duy trì và thiết lập hệ thống bạn hàng tin cậy, ổn định, tạo mối quan hệ làm ăn lâu dài. Đối với các thị trường truyền thống, Công ty sử dụng các biện pháp để duy trì mối quan hệ làm ăn như việc tiến hành khai thác thị trường theo chiều sâu.
Công ty đã xây dựng được cơ cấu tổ chức kinh doanh nhập khẩu tương đối hoàn chỉnh với đội ngũ cán bộ có chuyên môn và trình độ. Ngay từ khâu tuyển chọn Công ty đặt ra một số tiêu chuẩn tuyển nhân viên cũng như chính sách ưu đãi để thu hút nhiều hơn nữa đội ngũ trẻ năng động, có trình độ.
Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên ngày càng tăng.
Công tác tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch, hợp đồng xuất khẩu được tiến hành tương đối bài bản.
Dưới sự lãnh đạo của ban giám đốc đã hướng được đội ngũ cán bộ nhân viên nỗ lực phấn đấu hoàn thành mục tiêu chung của công ty đồng thời từng bước nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên.
Với chiến lược kinh doanh kết hợp giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá Công ty nhập khẩu rất nhiều hàng hoá nhằm giảm rủi ro nhưng đồng thời cũng tập trung vào một số mặt hàng tạo nên uy tín , thương hiệu của mình để nâng cao sức cạnh tranh. Với chiến lược thực hiện trong nhập khẩu hàng hoá, các chỉ tiêu tính được đều cho thấy Công ty kinh doanh có hiệu quả (tuy không cao lắm)
2. Những khó khăn và những vấn đề còn tồn tại của công ty
Trong những năm đầu thực hiện cổ phần hoá, Công ty gặp không ít khó khăn:
Cơ sở vật chất không đáp ứng được tốt nhu cầu và đặc biệt là cách thức quản lý và làm việc còn mang nặng tính hành chính bao cấp. Hơn nữa, cùng với sự xuất hiện của rất nhiều đối thủ cạnh tranh ở các ngành, các lĩnh vực mà Công ty đang hoạt động làm thị phần của Công ty giảm, sự biến động rất phức tạp của tỷ giá hối đoái và những thay đổi trong cơ chế, chính sách (xoá độc quyền trong kinh doanh xuất nhập khẩu, thay đổi thuế xuất nhập khẩu ...) cũng góp phần làm giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Thêm vào đó là hạn chế rất lớn của Công ty ngày càng bộc lộ như nguồn vốn kinh doanh ít so với quy mô kinh doanh của Công ty, do đó hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay của ngân hàng và trả lãi suất cao (năm 2006, lãi suất vay ngân hàng tăng) trong điều kiện tỷ lệ lợi nhuận ngày càng thấp. Trong nguồn vốn kinh doanh, vốn vay tín dụng luôn chiếm tỉ lệ khá cao, khoảng 77%, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh của công ty. Điều này được thể hiện ở việc nhiều hợp đồng nhập khẩu uỷ thác đã phải từ chối vì nguồn vốn của công ty không kịp quay vòng để ký quỹ mở thư tín dụng.
Chi phí cho hoạt động nhập khẩu là rất cao dẫn đến doanh thu nhập khẩu tuyệt đối giảm, lợi nhuận giảm, làm ảnh hưởng đến tổng doanh thu của Công ty, đến sự phân phối lương, thưởng chế độ...
Chưa có một cơ cấu mặt hàng hợp lý: hầu hết hàng hoá nhập khẩu đều xuất phát từ nhu cầu đầu tư và nhu cầu thị trường nhưng chúng lại không ổn định, nên mặt hàng nhập khẩu vì thế biến động theo nhu cầu. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của giá trị mỗi hợp đồng nhập khẩu. Sử dụng yếu tố đầu vào chưa hiệu quả, chưa có những biện pháp cắt giảm chi phí nhập khẩu. Những mặt hàng nhập khẩu đóng góp giá trị lớn vào tổng doanh thu lại là những mặt hàng nhập khẩu uỷ thác nên phần hưởng lợi trên mỗi lô hàng này ít. Còn trong hoạt động xuất khẩu, sản phẩm xuất khẩu là hàng nông sản mà chủ yếu là chè, chất lượng chè không cao nên giá trị lô hàng thấp, hơn nữa hoạt động Marketing xuất khẩu không được đầu tư thoả đáng, đa số lô hàng xuất khẩu trong thời gian vừa qua do đối tác nước ngoài đặt hàng chứ công ty chưa chú ý nhiều đến việc chủ động tìm kiếm khách hàng.
Chưa tạo được mối quan hệ làm ăn lâu dài với bạn hàng nhập khẩu do hoạt động mang tính chất thương vụ.
Hạn chế từ nguồn nhân lực: Với kinh nghiệm nắm bắt thực tế, trình độ xử lý các tình huống còn kém, rập khuôn và còn tình trạng người làm không đúng việc đã làm giảm năng suất lao động, từ đó làm giảm hiệu quả.
Quá trình thu thập và xử lý thông tin chưa được đầu tư thoả đáng. Việc lập phương án nhập khẩu thì khâu dự báo các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu trong tương lai chưa được quan tâm nghiên cứu. Chưa có sự đồng nhất giữa từng phương án nhập khẩu với một chiến lược nhập khẩu cho cả giai đoạn.
3. Nguyên nhân của những tồn tại
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, Công ty đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng bằng sự vận động linh hoạt, Công ty đã vượt qua những khó khăn, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại để đưa Công ty phát triển. Nguyên nhân đó là:
Nguyên nhân thứ nhất là do nguồn lực bên trong còn hạn chế, không chủ động được nguồn vốn, kinh phí đầu tư còn hạn hẹp nên cơ sở vật chất của Công ty chưa đáp ứng được tốt nhu cầu kinh doanh, đôi khi còn làm lỡ cơ hội kinh doanh.
Thứ hai, đó là việc thiếu thông tin: Tuy phòng kế hoạch thị trường có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác nhưng do mới thành lập nên việc thu thập xử lý thông tin còn yếu kém, chậm so với đối tác dẫn đến làm mất cơ hội kinh doanh. Đặc biệt trong việc tìm kiếm thông tin, do hạn chế về ngân sách nên chất lượng thông tin không cao, thông tin chủ yếu là thông tin thứ cấp, việc thu thập chủ yếu qua sách báo và một số nguồn khác nên chưa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo thực tập tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng.DOC