Báo cáo Tìm hiểu tình hình vay vốn và sử dụng vốn vay của các nông hộ tại xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh Dăk Lăk

* Hệ thống giao thông: Đường tỉnh lộ 12 đi qua địa bàn xã dài 9 km, được rải nhựa và thuận tiện cho việc đi lại giao thương đi lại với các xã, thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa. Tuy nhiên, phần lớn các tuyến giao thông trong khu dân cư, giao thông nội đồng là đường đất hẹp, gặp khó khăn cho việc đi lại vận chuyển nông sản, hàng hóa nhất là vào mùa mưa.

* Hệ thống thủy lợi: Năm 2009 Xã Hòa Sơn đã được nhà nước đầu tư đang thi công bê tông hóa tuyến kênh N1, đã góp phần rất lớn giúp người dân trên địa bàn Xã Hòa Sơn nói riêng và cả Huyện Krông Bông nói chung cung cấp được lượng nước cho đồng ruộng vào mùa khô và thoát nước nhanh chóng khi mùa lũ tràn về.

Theo Báo cáo tổng kết UBND Xã Hòa Sơn năm 2008, diện tích được tưới theo kế hoạch năm 2008là 2.166 ha, đến năm 2009 diện tích được tưới 2.170ha

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tìm hiểu tình hình vay vốn và sử dụng vốn vay của các nông hộ tại xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh Dăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5,5 ha, chiếm tỷ lệ 22,56%. Phân bố ở khu vực phía Đông Bắc của Xã. Hiên nay đang được khai thác để trồng cà phê, tiêu, điều, sắn.... * Nhóm Đất đỏ vàng trên đấ phiến sét: chiếm 14,17%, phân bố ở khu vực phía tây của xã. * Nhóm đất vàng nhạt trên đá granit (Fa,Ha) chiếm 18,52%; phân bổ tập trung ở khu vực nữa xã, phía Đông. Đất có tầng dày <30cm, thành phần cơ giới từ thịt nặng đến sét, khả năng giữ ẩm kém, có đá lẫn. * Nhóm đất khác: Bao gồm các loại đất lầy thụt và đất dốc tụ, phân bổ dưới các khe suối hợp thủy. Loại đất này có độ phì khá cao, giàu mùn, khả năng giữ ẩm rất tốt, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ lệ 17,46%. - Đất đai trên địa bàn xã được hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau nên phân loại đất khá đa dạng, lại phân bố trên nhiều loại địa hình, nên khả năng khai thác cũng hết sức đa dạng và phong phú, là một yếu tố thuận lợi để phát triển đa dạng những loại cây trồng. 3.1.2.3. Tài nguyên rừng Về diện tích rừng của xã Hòa Sơn, theo kết quả kiểm kê 01/01/2005: Tổng diện tích đất lâm nghiệpcó rừng: 2.790ha. Trong đó: - Đất rừng sản xuất: 1.598 ha - Đất rừng đặc dụng: 959 ha - Đất rừng trồng: 233 ha 3.1.2.4. Tài nguyên nhân văn Lịch sử hình thành và phát triển của con người của xã Hòa Sơn huyện Krông Bông luôn gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam. Toàn xã hiện có 05 cộng động dân tộc cùng sinh sống, làm việc và công tác gắn bó mật thiết với nhau. Các dân tộc sống đan xen, hình thành nên những cụm dân cư rải rác ở khắp địa bàn xã. Cộng đồng các dân tộc với những truyền thống riêng đã hình thành nên nền văn hoá đa dạng, phong phú, có những nét độc đáo riêng: trong đó nổi bật là truyền thống của người Mường, M’Nông, ÊĐê. Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử nhưng sinh hoạt lễ hội, phong tục tập quán lành mạnh vẫn được gìn giữ và phát triển như các lễ hội: cúng bến nước, cơm núi, cầu phúc của người Ê Đê…Lễ hội Khai hạ của người Mường.v.v 3.1.2.5. Cảnh quan môi trường Gần 51,96% diện tích đất đai của xã Hòa Sơn là đất rừng, trong đó có khu bảo tồn Vườn Quốc gia Chư Yang Sin với nhiều cảnh quan và một số thác nước với phong cảnh thiên nhiên sẽ là điều kiện thuận lợi để phát triển các hoạt động du lịch sinh thái. Bên cạnh đó xã Hòa Sơn đất nông nghiệp được khai thác ở mức độ khá cao, đặc biệt việc sử dụng một lượng lớn phân vô cơ và thuốc trừ sâu hại, cộng với các chất thải rắn từ sinh hoạt là một phần trong những nguyên nhân làm cho môi trường đất, nước, không khí ngày càng bị ô nhiễm. 3.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội 3.1.3.1. Tình hình dân số, dân tộc và tôn giáo Theo báo cáo UBND xã Hòa Sơn toàn xã có 15 thôn, buôn với 2.044 hộ với 9.867 khẩu. Trong đó đồng bào dân tộc tại chỗ có 243 hộ với 1.255 khẩu chiếm 12,7% dân số toàn xã. Thủ tướng vừa ký quyết định ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2011-2015. Theo đó, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (6 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 - 520.000 đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 - 650.000 đồng/người/tháng. Mức chuẩn nghèo quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện các chính sách an sinh xã hội và chính sách kinh tế, xã hội khác. Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2011. Khi đó, tổng số hộ nghèo tại xã Hòa Sơn: 344 hộ - 1.499 khẩu, chiếm 17.28 %, trong năm đã có 160 hộ nghèo và cận nghèo với sự tín chấp của các đoàn thể, được ngân hàng chính sách cho vay tổng số tiền là 750 triệu đồng, góp phần cải thiện vốn đầu tư sản xuất cho nhân dân. Công tác phúc tra hộ nghèo năm 2010, kết quả tại xã: 625 hộ, 2828 khẩu chiếm tỷ lệ 30.74%, hộ cận nghèo 271 hộ, 1393 khẩu. Với 11 dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn và có 4 tôn giáo chính gồm có: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành và Cao Đài. Theo thống kê mới nhất: tổng số hộ có theo tôn giáo trên địa bàn là 119 hộ chiếm tỷ lệ 5,8% tổng số hộ, và số khẩu tương ứng là 494 khẩu chiếm tỷ lệ 5,0% tổng số khẩu. Bảng 2: Tình hình dân số trên địa bàn xã Stt Thôn, buôn Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Số hộ Số khẩu Số hộ Số khẩu Số hộ Số khẩu 1 Thôn 1 164 794 168 782 178 816 2 Thôn 2 271 1436 121 630 121 622 3 Thôn 3 215 1102 138 711 140 703 4 Thôn 4 133 701 135 709 141 720 5 Thôn 5 75 411 75 386 76 407 6 Thôn 6 146 737 158 711 168 791 7 Thôn 7 169 844 163 821 174 824 8 Thôn 8 185 996 192 857 205 894 9 Thôn 9 121 592 121 613 134 613 10 Thôn 10 260 1235 149 674 161 721 11 Buôn Ja 117 661 124 687 131 725 12 Thôn Thanh Phú Chưa thành lập 134 681 142 732 13 Thôn Tân Sơn Chưa thành lập 40 166 43 181 14 Thôn Quảng Đông Chưa thành lập 109 573 115 550 15 Thôn Hòa Xuân Chưa thành lập 113 565 115 568 Tổng cộng 1856 9.509 1.940 9.566 2044 9867 (Nguồn: Báo cáo UBND xã) 3.1.3.2. Tình hình phân bổ và sử dụng đất trên địa bàn Căn cứ vào kết quả điều tra trên địa bàn xã cũng như kế hoạch sử dụng đất đến 2010, tình hình phân bổ và sử dụng đất như sau: Tổng diện tích đất nông nghiệp là 4.581,69 ha chiếm 85,04% tổng diện tích tự nhiên. Đất phi nông nghiệp là 30,02 ha chiếm 5,62%, đất chưa sử dụng là 503,29 chiếm 9,34%. Bảng 3: Tình hình phân bổ và sử dụng đất trên địa bàn xã Chỉ tiêu Ký hiệu Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) Tổng diện tích tự nhiên 5388,00 100 1. Đất nông nghiệp NNP 4581,69 85,04 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp SXN 2179,02 40,44 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm CHN 1717,98 31,89 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm CLN 461,04 8,56 1.2 Đất lâm nghiệp LNP 2376,96 44,12 1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản NTS 25,71 0,48 2. Đất phi nông nghiệp PNN 303,02 5,62 2.1 Đất ở OTC 72,67 1,35 2.2 Đất chuyên dùng CDG 185,89 3,45 2.3 Đất sông suối, mặt nước chuyên dùng SMN 30,76 0,57 3. Đất chưa sử dụng CSD 503,29 9,34 (Nguồn: Báo cáo UBND xã năm 2009) 3.1.3.3. Thực trạng phát triển kinh tế, xã hội Trong những năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng xã Hòa Sơn biết vận dụng những lợi thế sẵn có của xã đã đưa tốc độ phát triển kinh tế liên tục được gia tăng, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị được giữ vững. Bên cạnh đó được sự chỉ đạo của các cấp và sự nỗ lực của nhân dân địa phương, cán bộ và nhân dân trong xã đã thu được một số kết quả trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội như sau: Ngành nông nghiệp: Với diện tích đất canh tác là 2.179,02ha, ngành nghề chủ yếu của bà con trong xã là sản xuất nông nghiệp trồng cây nông sản như, lúa nước, ngô, cà phê, tiêu, điều…Trồng trọt vẫn là ngành chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của xã. Đặc biệt là trong mấy năm nay do dịch bệnh và kèm theo đó là giá thịt hơi của gia súc gia cầm giảm (cho đến cuối năm 2006 giá thịt lợn hơi và thịt gà mới tăng trở lại) nên giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đã giảm một cách đáng kể. Trồng trọt cho đến nay vẫn là ngành sản xuất chính trong nền kinh tế của xã, trong ba năm diện tích gieo trồng có tăng 134 ha với tốc độ tăng không đáng kể. Cây hàng năm: Có thể nói nhóm cây này là thế mạnh của địa phương, luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng diện tích gieo trồng (>60%). Cây lúa:Trên địa bàn xã phần diện tích gieo trồng lúa chủ yếu là cây lúa nước, chủ yếu là lúa vụ Mùa còn vụ Đông Xuân là không đáng kể (cả về mặt diện tích và sản lượng) Cây ngô: Là yếu tố cơ bản trong việc tăng sản lượng lương thực hàng năm của xã. Hầu hết diện tích là ngô lai được đầu tư phát triển cả hai vụ hoặc một vụ trồng ngô, một vụ trồng đậu. Nhóm cây có củ (khoai, đậu xanh và rau xanh) trong cơ cấu cây trồng của nhóm cây hàng năm thì tăng lên (2009) tăng 25% đối với khoai, đậu xanh tăng 7,14% và rau xanh là 12,94% còn giảm xuống 20% (2008) với khoai, đậu xanh là giảm xuống 12,5% và rau xanh giảm 10,53%. Còn cây lúa, sắn thì diện tích không thay đổi qua 3 năm. Cây công nghiệp ngắn ngày (lạc, mía, DT Trồng cỏ): Có tăng lên năm 2008 nhưng đều giảm xuống vào năm 2009. Do đất trồng màu đã bị thu hẹp dần do chuyển mục đích sử dụng đất, và một điều quan trọng nữa là các loại cây trồng này không mang lại hiệu quả kinh tế cao bằng các nhóm cây khác do đất đai ít phù hợp cho việc trồng màu. Cây lâu năm: Nhìn chung cây cà phê có tăng lên trong năm 2008, 2009 khoảng 54%, cây điều giảm diện tích xuống để chuyển đổi mục đích sử dụng năm 2009 giảm 55,59%. Bảng 4: Cơ cấu cây trồng trên địa bàn xã ĐVT: ha Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 2008/2007 2009/2008 SL % SL % 1. Cây lương thực 1620 1651 1652 31 1.19 1 0.06 Lúa nước đông xuân 228 228 229 0 0.00 1 0.44 Lúa nước vụ mùa 410 419 419 9 2.20 0 0.00 Ngô 490 515 502 25 5.10 -13 -2.52 Khoai lang 90 81 66 -9 -10.0 -15 -18.52 Sắn 402 408 436 6 1.49 28 6.86 2. Cây thực phẩm 184 184 223 0 0.00 39 21.20 Đậu xanh 29 29 29 0 0.00 0 0.00 Đậu các loại 111 111 151 0 0.00 40 36.04 Rau xanh 44 44 43 0 0.00 -1 -2.27 3. Cây CN ngắn ngày 143 150 85 7 4.90 -65 -43.33 Lạc 27 27 27 0 0.00 0 0.00 Mía 60 60 12 0 0.00 -48 -80.00 Cỏ chăn nuôi gia súc 56 63 46 7 12.50 -17 -26.98 4. Cây CN lâu năm 86 141 134 55 63.95 -7 -4.96 Cà phê 23 78 104 55 239.13 26 33.33 Điều 59 59 26 0 0.00 -33 -55.59 Tiêu 4 4 4 0 0.00 0 0.00 (Nguồn: Báo cáo UBND xã) 3.1.3.4. Cơ sở hạ tầng * Hệ thống giao thông: Đường tỉnh lộ 12 đi qua địa bàn xã dài 9 km, được rải nhựa và thuận tiện cho việc đi lại giao thương đi lại với các xã, thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa. Tuy nhiên, phần lớn các tuyến giao thông trong khu dân cư, giao thông nội đồng là đường đất hẹp, gặp khó khăn cho việc đi lại vận chuyển nông sản, hàng hóa nhất là vào mùa mưa. * Hệ thống thủy lợi: Năm 2009 Xã Hòa Sơn đã được nhà nước đầu tư đang thi công bê tông hóa tuyến kênh N1, đã góp phần rất lớn giúp người dân trên địa bàn Xã Hòa Sơn nói riêng và cả Huyện Krông Bông nói chung cung cấp được lượng nước cho đồng ruộng vào mùa khô và thoát nước nhanh chóng khi mùa lũ tràn về. Theo Báo cáo tổng kết UBND Xã Hòa Sơn năm 2008, diện tích được tưới theo kế hoạch năm 2008là 2.166 ha, đến năm 2009 diện tích được tưới 2.170ha 3.2 Kết quả nghiên cứu 3.2.1 Tình hình cơ bản của nông hộ 3.2.1.1 Tình hình đất đai và lao động Đất đai: Bảng 5: Cơ cấu cây trồng cuả nông hộ: Coppy số liệu từ xử lý cần chỉnh sửa font chữ Cây trồng Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) 1. Lúa 35.3 35.90 2. Ngô 9.9 10.07 3. Sắn 14.6 14.85 4. Điều 1.7 2.60 5. Cà phê 35.74 36.34 6. Đậu 1.1 1.12 Tổng 98.34 100.00 Nguồn: Số liệu điều tra Hòa sơn là một xã thuần nông, qua bảng phân tích số liệu cho ta thấy cơ cấu cây trồng của xã là tương đối đa dạng. Ta thấy hầu hết diện tích được dùng vào trồng lúa với tổng diện tích là 35.3 ha chiếm 35.9% so với đất sử dụng vào các loại cây trồng khác. Đây là một đặc trưng của xã vì phần lớn đất ở đây là các vùng đất trũng và thấp nên là điều kiện thuận lợi cho việc trồng lúa. Nổi lên ở đây là diện tích trồng Cà phê của xã khá cao 35.74 ha chiếm 36.34%, vì ở đây có nhiều đồi cao đất tương đối tốt phù hợp với việc phát triển cây Cà phê. Qua đây cho ta thấy rằng cây Lúa và cây Cà phê là hai cây trồng chủ lực của xã có vị trí hết sức quan trọng đối với sản xuất của người dân tại đây. Ngoài việc trồng lúa nước và cà phê người dân còn trồng các loại cây khác tại rẫy của mình như Ngô, Sắn, Điều… Ta thấy diện tích trồng Sắn tại xã chỉ đứng sau cà phê và lúa với diện tích là 14.6 ha, chiếm 14.85% đây là loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao mang lại nhiều lợi nhuận so với các loại cây trồng khác mà không cần nhiều vốn đầu tư, hầu hết các sản phẩm sau thu hoạch điều được người thu gom đến tận nhà thu mua rất nhanh và nhìn chung thì đầu ra là khá ổn định. Lao động: - Trong sản xuất nông nghiệp lao động là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất của sản xuất, chính vì vậy đây là nhân tố rất quan trọng trong sản xuất mọi ngành nghề nói chung và trong sản xuất nông nghiệp nói riêng. Qua quá trình điều tra 135 phiếu tại 4 thôn buôn của xã ta có số liệu tổng hợp như sau: Bảng 6: Số liệu về tình hình lao động Chỉ tiêu Đơn vị Hộ khá Hộ cận nghèo Hộ nghèo 1. Số lao động chính (Người) 3.04 3.12 2.72 2. Trình độ lao động % 100 100 100 Không biết chữ % 3.26 16.28 18.18 Chưa đi học % 4.43 2.32 8.44 Cấp 1 % 23.08 23.26 35.06 Cấp 2 % 37.76 27.91 22.73 Cấp 3 % 19.58 18.60 12.99 Trên trung cấp % 11.89 11.63 2.60 3. Số người phụ thuộc (Người) 1.52 2.75 2.22 Nguồn: số liệu điều tra Lao động là nguồn lực rất quan trọng của nông hộ, qua bảng số liệu ta thấy lao động chính trung bình của nhóm hộ khá là 3.04 người, nhóm hộ cận nghèo là 3.12 người và nhóm hộ nghèo là 2.72 người. Qua đây cũng cho thấy ảnh hưởng của lao động đến kết quả sản xuất và thu nhập của nông hộ tại địa phương. Nhóm hộ khá thì lao động chính là 3.04 người mà tỷ lệ phụ thuộc là của nhóm hộ này là 1.52 người, điều này có nghĩa là cứ một đơn vị lao động thì gánh theo 1.52 đơn vị tiêu thụ, trong khi đó nhóm hộ cận nghèo có tỷ lệ phụ thuộc là 2.75 người và nhóm hộ nghèo là 2.22 người. Điều này cho thấy một thực tế là các nhóm hộ cận nghèo và nhóm hộ nghèo thường là những nhóm hộ có nhiều nhân khẩu và tỷ lệ trẻ em và người già lớn hơn nhóm hộ khá. Do đó một đơn vị lao động nhóm hộ này phải gánh them lượng lớn đơn vị tiêu thụ theo sau. Trong nhóm yếu tố lao động của hộ, ngoài số lượng lao động ra thì chất lượng lao động được coi là thành phần quan trọng trong lao động của nông hộ, chất lượng lao động được thể hiện qua trình độ học vấn. Qua bảng thống kê ta thấy được nhóm hộ khá có lao động không biết chữ chiếm 3.26% thấp nhất, còn nhóm hộ cận nghèo và nhóm hộ nghèo chiếm lần lượt là 16.28% và 18.18%.Tiếp đến nhóm hộ khá có lao động cấp 1 chiếm 23.08% biên cạnh đó nhóm hộ cận nghèo và nghèo lần lượt chiếm 23.26 và 35.06. Tỷ lệ này không chênh lệch nhau lắm nhưng ở đây cho thấy rằng trình độ lao động ở xã chưa cao, trình độ lao động cấp 1 BQ chiếm gần 30% là một tỷ lệ khá lớn, còn ở trình độ cấp 2 nhóm hộ khá chiếm tỷ lệ 37.76%, nhóm cận nghèo là 27.91% và nhóm hộ nghèo là 22.73 ở trình độ này các nhóm hộ tương đối chênh lệch nhau.Còn ở trình độ cấp 3 nhóm hộ khá chiếm tỷ lệ 19.58%, cận nghèo là 18.60%, hộ nghèo là 12.99% tương đối đồng điều. Lao động trên trình độ trung cấp đối với nhóm hộ khá là 11.89%, hộ cận nghèo là 11.63% và hộ nghèo là 2.60% khá chênh lệch nhau. Qua đây cũng cho thấy nhóm hộ nghèo là nhóm hộ có số năm đi học là ít nhất đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tư duy và khả năng sản xuất của nông hộ. Tóm lại tình hình lao động của xã thông qua 135 phiếu điều tra là không cao, về số lượng lao động thì BQ mỗi hộ có 3 lao động chính, tuy nhiên chất lượng lao động lại chưa cao, tỷ lệ lao động không biết chữ chiếm tỷ lệ khá cao hơn 10% và lao động có trình độ cấp 1 là gần 30%, nên điều này cho thây khả năng tiếp thu trình độ khoa học kỹ thuật mới là rất hạn chế, nếu biết vận dụng tốt lao động có trình độ có trình độ cấp 3 tại xã thì kinh tế của hộ gia đình sẽ được cải thiện hơn. 3.2.1.2 Kết quả sản xuất nông nghiệp “Nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời là nguồn xuất khẩu quan trọng. Muốn đẩy mạnh phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung, phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”. Trên đây là những nhận định của Hồ Chủ Tịch về phát triển nông nghiệp Việt Nam . Qua đó cũng cho thấy rằng trong sản xuất nông nghiệp thì kết quả của nó như thế nào đi chăng nữa cũng sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển hay thụt lùi kinh tế của bộ mặt xã hội nông thôn hay của chính từng hộ nông nông dân nông thôn. Qúa trình nghiên cứu điều tra trên địa bàn xã ta có bảng tổng hợp về tình hình sản xuất nông nghiệp tại xã như sau: Bảng 7: Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp Đơn vị: 1000vnd/năm: sử dụng đ là được rồi không phải Vnd Thu từ khá cận nghèo nghèo BQ/khẩu cơ cấu (%) BQ/khẩu cơ cấu (%) BQ/khẩu cơ cấu (%) 1. Chăn nuôi 5458.78 14.13 372.09 9.13 764.1 16.68 2. Trồng trọt 27991.51 72.47 2328.4 57.11 3250.84 70.97 3. Thu khác 5175.13 13.4 1376.7 33.77 565.38 12.34 Tổng 38625.42 100 4077.2 100 4580.33 100 Nguồn: số liệu điều tra Trong cơ cấu nguồn thu nhập của nông hộ ta thấy rõ là thu nhập của nhóm hộ cận nghèo từ chăn nuôi chiếm 16.68% trong tổng thu, còn ở hộ cận nghèo chỉ chiếm 9.13% qua đây ta có nhận xét sự chênh lệch về thu nhập ở đây là rất rõ mức chênh lệch giữa nhóm hộ nghèo so với nhóm hộ cận nghèo trong lĩnh vực chăn nuôi gấp gần 2 lần, còn nhóm hộ khá chiếm 14.13% không có thay đổi gì nhiều về cơ cấu thu nhập trong ngành chăn nuôi so với nhóm hộ nghèo. Thu nhập từ ngành chăn nuôi tại xã chưa cao trong cơ cấu thu nhập của nông hộ điều này nói lên rằng mức đầu tư cho chăn nuôi của bà con tại xã là còn quá thấp, đầu tư còn kém hiệu quả, chưa tận dụng tốt diện tích đồng cỏ tự nhiên để chăn nuôi, việc chuyển đổi cơ cấu vậy nuôi còn thấp. Thu nhập từ trồng trọt của nhóm hộ nghèo chiếm 70.97% trong tổng thu nhập, của nhóm hộ cận nghèo chiếm 57.11% và của nhóm hộ khá là 72.47% trong tổng thu nhập. Qua đây ta có nhận xét rằng nguồn thu nhập của các nông hộ tại xã chủ yếu là từ trồng trọt,cơ cấu ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng thu nhập của bà con tại xã, điều này nói lên rằng xã Hòa Sơn là một xã thuần nông. Ngành trồng trọt là ngành mang lại thu nhập chính yếu trong tổng thu nhập hàng năm của nông hộ. Ngoài ra qua điều tra thực tế nhóm hộ khá là những hộ có diện tích đất canh tác nhiều hơn nhóm hộ nghèo và cận nghèo nên thu nhập của nhóm hộ này cao hơn nhiều so với hai nhóm hộ trên, không những vậy nhóm hộ khá là những hộ có khả năng huy động nguồn vốn sản xuất tốt hơn, họ còn có thể mạnh dạn vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau như từ NHNN & PTNT hay vay từ NHCSXH, từ hội nông dân…đây là điểm mạnh trong sản xuất trồng trọt của nhóm hộ khá mà điều này thường ít thấy ở nhóm hộ cận nghèo và đặc biệt là nhóm hộ nghèo. Ngoài hai nguồn thu trên trong cơ cấu thu nhập của các nông hộ còn có nguồn thu là thu từ nguồn thu khác, nguồn thu này của các nhóm nông hộ cũng khá khác nhau nhóm hộ nghèo từ nguồn thu này chiếm 12.34% trong tổng thu, tiếp đến là nhóm hộ khá với 13.4% trong tổng thu nhập của hộ và cao nhất là nhóm hộ cận nghèo chiếm 33.77% trong tổng thu, cao gần gấp 3 lần nhóm hộ nghèo và nhóm hộ khá. Qua điều tra thực tế nguồn thu này của các hộ là rất khác nhau; nguồn thu khác của nhóm hộ khá chủ yếu là từ việc mở các dịch vụ, mở các quán bán tạp hóa nhỏ, chạy xe chở hàng thuê… còn của nhóm hộ nghèo và cận nghèo thì nguồn thu nhập này chủ yếu là từ đi làm thuê theo mùa vụ. Tóm lại qua nghiên cứu về tình hình thu nhập của nông hộ tại địa phương ta nhận thấy rằng nguồn thu nhập chủ yếu của người dân vẫn xuất phát từ thu trong sản xuất ngành trồng trọt là chính chiếm trên 50% trong tổng thu nhập.Qua đây cũng cho ta thấy rằng sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các nhóm hộ là khác nhau giữa các nguồn thu. 3.2.2. Tình hình vay vốn và sủ dụng vốn 3.2.2.1 Tình hình vay vốn Trong nông nghiệp với những đặc tính cố hữu là chu kỳ sản xuất dài, có tính mùa vụ, độ rủi ro cao do chịu tác động của nhiều yếu tố ngoại cảnh nên vai trò của vốn là rất quan trọng. Vốn chính là điều kiện để mở ruộng và phát triển sản xuất. Xem xét tình hình vay vốn của nông hộ trên địa bàn xã cho thấy: Bảng 8: Tình hình vay vốn của nông hộ Loại hộ Hộ vay Tỷ lệ(%) Hộ không vay Tỷ lệ(%) Số vốn vay BQ/hộ(triệu) Hộ khá 63 66.32 32 33.68 21.3 Hộ cận nghèo 5 62.5 3 37.5 12.6 Hộ nghèo 26 81.25 6 18.75 9.4 Nguồn: số liệu điều tra Qua số liệu điều tra thống kê cho thấy tình hình chung tại địa bàn xã nhóm hộ nghèo là nhóm hộ có tỷ lệ vay vốn cao nhất cụ thể là chiếm tỷ lệ 81.25% trên 100% tổng số hộ nghèo,như vậy chỉ còn 18.75% số hộ nghèo là chưa được vay vốn, tiếp đến là nhóm hộ khá số hộ được vay chiếm tỷ lệ 66.32% trong tổng số hộ khá và cuối cùng là nhóm hộ cận nghèo có tỷ lệ vay vốn là thấp nhất chiếm 62.5% trên 100% số hộ có thu nhập cận nghèo.Nguyên do của vấn đề này qua nghiên cứu trong suốt quá trình thực tập tại xã, tôi có nhận xét về vấn đề này là hầu hết các hộ nghèo được tiếp cận nguồn vốn qua chương trình xóa đói giảm nghèo, và được vay vốn của NHCSXH với mức lãi suất ưu đãi. Còn nhóm hộ khá với tài sản hiện có nên đem đi thế chấm NHNN&PTNT để vay thêm vốn về để phục vụ sản xuất vì vậy dễ được ngân hàng cho vay,và nhóm hộ này thường sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn nhóm hộ nghèo và cận nghèo do không phải chi nguồn vốn vay được phục vụ sinh hoạt nên đồng vốn đi vào sản xuất là khá cao. Nhóm hộ cận nghèo tiếp cận với nguồn vốn khó hơn do tài sản trong gia đình không mấy giá trị với lại ít đất sản xuất nên khi đi vay ít khi vay được, nên thường thiếu vốn sản xuất mà trong nông nghiệp thường có tính mùa vụ không có vốn kịp thời phục vụ sản xuất hiệu quả sản xuất sẽ không cao, như vậy thu nhập sẽ thấp và dễ dẫn đến nghèo. Qua điều tra 135 hộ nông dân thì thấy khả năng được tiếp cận với nguồn vốn vay của các hộ nông dân tại xã là khá cao 94/135, với nguồn vốn vay BQ/hộ đối với nhóm hộ khá là 22.8 triệu, nhóm hộ cận nghèo là 12.6 triệu và nhóm hộ nghèo là 10.6 triệu và nhu cầu muốn vay thêm vốn về để đầu tư mở ruộng sản xuất của bà con tại xã là rất lớn 69.63% số hộ được điều tra với số vốn BQ là 18.9 triệu đồng. Thực tế cho thấy nhu cầu này còn cao hơn nhưng các hộ khác không vay được do lãi suất còn cao nên họ không dám vay hơn nữa tình hình thời tiết hiện nay thay đổi thất thường ảnh hưởng đến sản xuất nên họ sợ không trả được nợ vay. Các hộ nông dân ở đây cho biết nếu có đủ điều kiện vay vốn nhanh chóng, kịp lúc và đặc biệt là lãi suất thấp thì họ sẽ vay với số lượng đủ để sản xuất. Tuy nhiên tình hình vay vốn của người dân còn gặp rất nhiều khó khăn. Để tìm hiểu khó khăn cũng như thuận lợi của nông hộ khoi vay vốn ta tìm hiểu những yếu tố sau. 3.2.2 Những thuận lợi và khó khăn khi vay vốn Bảng 11: Nguồn vốn vay của nông hộ Chỉ tiêu Ngân hàng Tư nhân Vay khác Tổng số hộ vay(hộ) 70 7 17 BQ mỗi hộ vay (triệu đồng) 18.9 9.57 17.4 Tỷ lệ hộ vay được/ tổng số hộ (%) 51.85 5.19 12.59 Lãi suất trung bình năm(%) 10.15 0 14.00 Nguồn: số liệu điều tra Từ bảng số liệu trên cho ta thấy tỷ lệ số hộ nông dân vay vốn tư nhân là rất ít chỉ chiếm một tỷ lệ ít ỏi là 5.19% do vay họ hàng nên ít tính lãi, với số vốn vay BQ là trên 9.57 triệu đồng. Chủ yếu hình thức vay vốn của hội nông dân là từ ngân hàng và vay khác. Ở đây cho ta thấy tỷ lệ hộ vay ngân hàng là tương đối cao chiếm 51.85% với lãi suất là 10.15% năm (vốn trung hạn). Qua tìm hiểu thì hầu hết các hộ tại đây điều có bìa đỏ nên có thể đem thế chấp vay trực tiếp NHNN&PTNT huyện và vay từ NHCSXH huyện đối với diện chính sách, với thủ tục nhanh khoảng từ 4 đến 5 ngày, là bà con có tiền hoặc chậm nhất là một tuần, với số tiền vay BQ là trên 18.9 triệu đồng nên đây là điều kiện vô cùng thuận lợi và cần thiết cho sản xuất.Cũng trên đây ta nhận thấy việc vay từ nguồn vay khác bao gồm vay từ Hội nông dân, Hội phụ nữ, hộ kinh doanh, cũng chiếm tỷ lệ tương đối cao là 12.59% với lãi suất mức lãi suất 14% năm, với số vốn BQ là trên 17.4 triệu đồng. Trên đây là những mặt thuận lợi trong quá trình tìm nguồn vốn vay của các nông hộ tại địa phương. Qua bảng số liệu cho thấy tỷ lệ vay ngân hàng là cao nhất có phải do mức lãi suất ưu đãi, ta hãy cùng tìm hiểu và phân tích nguyên nhân. Một phần trong số hộ vay ngân hàng có các hộ vay thuộc diện chính sách, vay hộ nghèo theo chương trình xóa đói giảm nghèo nên được vay từ NHCSXH với mức lãi suất ưu đãi với số tiền vay thấp từ 5 đến 10 triệu đồng trên một đợt,và được hỏi thì đại bộ phận trả lời là dùng số tiền đó để chăn nuôi(mua bò), nhưng thực tế chưa đáp ứng chưa thỏa mãn. Ngoài khi hỏi người dân thì còn có một số điều bất cập khuyến người dân rất bức xúc là; bà con cho biết việc được vay trong các chương trình ưu đãi thường không công bằng, có hộ thì đợt nào cũng được vay, có hộ thì đợi mãi mà không được vay đồng nào. Nguyên nhân là do khả năng hoàn trả vốn của bà con và một nguyên nhân gây bức xúc nữa là nếu bà con muốn vay được vốn thì phải bỏ ra một ít tiền cho cán bộ thẩm định, nếu không làm như vậy thì để được vay phải mất thời gian rất lâu. Còn về việc vay vốn từ NHNN&PTNT tại trung tâm huyện, mặc dù lãi suất cao nhưng người dân đến đây vay vốn là khá cao. Qua tìm hiểu thì hầu hết những người dân vay vốn ở đây không thuộc diện nghèo, diện ưu tiên. Theo họ thì việc vay ở đây tuy rằng lãi suất cao nhưng số tiền vay được là nhiều và đáp ứng đủ nhu cầu thực tế mà họ cần. Đặc biệt là khi vay từ đây rất thoải mái về thời gian trả lãi và gốc, thường thì thời hạn trả của vốn vay từ 1 đến 2 năm. Ngoài ra việc cho vay ở ngân hàng cũng thuận tiện và nhanh, điều này tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình sử

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 17.doc
Tài liệu liên quan