PHẦN MỞ ĐẦU .1
1. Sự cần thiết phải lập quy hoạch.1
2. Các căn cứ pháp lý xây dựng dự án.2
3. Phạm vi nghiên cứu của dự án.3
4. Phương pháp nghiên cứu lập quy hoạch.4
5. Sản phẩm của dự án.6
PHẦN 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN
PHÁT TRIỂN NTTS CÁC TỈNH MIỀN TRUNG.7
I. Điều kiện tự nhiên .7
1. Vị trí địa lý và đặc điểm địa hình .7
2. Khí tượng - thủy văn.8
3. Tiềm năng phát triển NTTS.11
II. Đặc điểm kinh tế - xã hội.12
1. Vị trí, vai trò của NTTS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội .12
2. Thực trạng phát triển kinh tế – xã hội .16
PHẦN 2. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NTTS CÁC TỈNH MIỀN
TRUNG.20
I. Diễn biến tình hình nuôi trồng thủy sản các tỉnh miền Trung (2010-2014) .20
1. Nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2010-2014 .20
2. Nuôi trồng thủy sản theo vùng sinh thái.21
3. Đánh giá hiện trạng nuôi trồng thủy sản đối với các đối tượng chủ lực .26
II. Hiện trạng sản xuất giống, dịch vụ hậu cần NTTS tại các tỉnh miền Trung.33
1. Hiện trạng sản xuất giống.33
2. Cơ sở sản xuất, cung ứng, dịch vụ thức ăn, thuốc thú y, chế phẩm sinh học phục
vụ NTTS .39
III. Hiện trạng cơ sở hạ tầng vùng nuôi.40
1. Hệ thống giao thông .40
2. Hệ thống điện.41
3. Hệ thống thủy lợi.41
4. Cơ sở hạ tầng một số vùng nuôi đặc thù .42
IV. Môi trường dịch bệnh .43
1. Hiện trạng môi trường .43
2. Tình hình dịch bệnh.44
147 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/02/2022 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản các tỉnh miền trung đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
̉n nuôi
trồng thủy sản các tỉnh miền Trung như sau:
Việc thu hẹp diện tích NTTS: một số vùng có điều kiện tự nhiên phù hợp với
NTTS và đã được phát triển NTTS từ lâu đời buộc phải di dời ra xa như vùng Vĩnh
Tân (Bình Thuận), vùng Vĩnh Hy (Ninh Thuận),Vũng Rô (Phú Yên), vùng Cam Ranh
(Khánh Hòa),... do quy hoạch phát triển các ngành du lịch, công nghiệp được ưu tiên.
Tuy nhiên việc phát triển mạnh mẽ du lịch tại khu vực này cũng tạo ra những cơ
hội mới cho việc phát triển NTTS. Đây cũng là một nguồn xuất khẩu thủy sản nội địa
tại chỗ, một lượng cầu dồi dào thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm NTTS.
* Đối với việc triển khai quy hoạch tổng thể theo định Quyết định 1445/QĐ-
TTg ngày 16 tháng 08 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và một số quy
hoạch như Quy hoạch hệ thống nghiên cứu, sản xuất và cung ứng giống thủy sản
đến năm 2020; Quy hoạch phát triển nuôi cá biển đến năm 2015 và định hướng đến
năm 2020...:
Hiện trạng NTTS miền Trung đã đạt được những điểm sau:
- Sản xuất giống, cung ứng giống: Trở thành nơi sản xuất và cung ứng giống thủy
sản quan trọng của cả nước. Năm 2014 có 497 cơ sở sản xuất giống tôm sú; 305 cơ sở
sản xuất giống tôm TCT; 184 cơ sở sản xuất giống nhuyễn thể; 116 cơ sở ương giống
tôm hùm. Trong đó tập trung ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa và Phú Yên.
Công nghệ sản xuất: Ngoài hai đối tượng chủ lực xây dựng nên thương hiệu và
thế mạnh cho sản xuất giống của các tỉnh miền Trung là tôm sú và tôm TCT, thời gian
qua các cơ sở sản xuất giống đã nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ trong KHCN cho
sản xuất thành công một số đối tượng sau: Công nghệ sản xuất các loài nhuyễn thể như
tu hài, hàu, ốc hương đang được áp dụng rộng rãi và ngày càng hoàn thiện hơn.
- Khoa học công nghệ: Giai đoạn vừa qua, khoa học công nghệ đã từng bước
trở thành động lực thúc đẩy trong quá trình phát triển nuôi trồng thủy sản tại khu vực
55
miền Trung. KHCN có vai trò quan trọng, góp phần phát triển thủy sản mạnh mẽ về
lượng và chất.
Trong giai đoạn vừa qua tiến bộ trong khoa học công nghệ rõ rệt nhất là chủ
động được công nghệ sản xuất giống, chuyển giao sản xuất nhân tạo nhiều giống, loài
thủy sản để cung cấp cho nuôi thương phẩm, không chỉ làm đa dạng hóa các đối tượng
nuôi mà còn làm tăng số lượng mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Nghiên cứu, ứng dụng
thành công nhiều quy trình, công nghệ NTTS thương phẩm là nhân tố quan trọng cho
sự thành công của nghề NTTS như công nghệ nuôi tôm ít thay nước, công nghệ nuôi
Biofloc, nuôi lồng công nghệ cao...
- Phát triển cơ sở hạ tầng: Các tỉnh miền Trung đều được xây dựng trong khu
quy hoạch riêng biệt cho vùng sản xuất giống đảm bảo theo QCVN 01-81:
2011/BNNPTNT như: vùng sản xuất giống tập trung xã Chí Công, huyện Tuy Phong,
Bình Thuận; vùng sản xuất giống tập trung An Hải, Ninh Phước và vùng sản xuất giống
tập trung Nhơn Hải, Ninh Hải, Ninh Thuận; vùng sản xuất giống Cam Phú, Cam Phúc,
Ba Ngòi, Cam Ranh, và vùng sản xuất giống Ninh Vân – tỉnh Khánh Hòa; vùng sản xuất
giống Hòa Hiệp Trung và vùng sản xuất giống Xuân Hòa, Sông Cầu, tỉnh Phú Yên
Một số mặt hạn chế:
- Sản xuất giống, cung ứng giống: chỉ tiêu của chiến lược thủy sản, quy hoạch
tổng thể cần chủ động sản xuất giống và quy trình sản xuất như: ..tôm hùm (Phú Yên,
Khánh Hòa), ốc hương, sò điệp... (ven biển miền Trung). Tuy nhiên đến nay vẫn chưa
chủ động. Con giống bố mẹ hầu như còn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên và nhập
khẩu. Hầu hết tôm TCT, tôm sú bố mẹ hoàn toàn nhập từ Hawaii - Mỹ, Thái Lan,
Một số ít tôm sú bố mẹ được thu mua từ khai thác tự nhiên, tôm hùm giống hoàn toàn
phụ thuộc vào khai thác tự nhiên.
Việc kiểm dịch chất lượng con giống có nâng cao, tuy nhiên số lượng mẫu đăng
ký xét nghiệm qua các trạm rất ít so với giống lưu thông trên thị trường nên vấn đề
kiểm soát chất lượng, dịch bệnh tôm giống vẫn gặp rất nhiều khó khăn.
- Trồng rong biển: tại các tỉnh miền Trung vẫn còn hạn chế chưa phát huy được
tiềm năng điều kiện tự nhiên. Nguyên nhân do vấn đề đầu ra cho sản phẩm rong biển
vẫn còn hạn chế nên việc trồng rong biển chưa phát triển mạnh mẽ trong những năm vừa
qua. Vùng giữ giống, nhân giống rong chưa được hình thành.
- Phát triển NTTS đầm phá:Theo quy hoạch tổng thể phát triển đưa ra phát triển
NTTS nước lợ khu vực cửa sông, ven biển, đầm phá (các loài tôm sú, tôm chân trắng,
tôm hùm, nhuyễn thể, cá cảnh biển, các loài hải đặc sản, rong biển...) theo phương
thức thâm canh và bán thâm canh. Tuy nhiên đến nay xu hướng nuôi trồng thủy sản
đang dịch chuyển sang xu hướng nuôi quảng canh cải tiến, nuôi xen ghép.
Những điểm đạt được cũng như chưa đạt được qua phân tích trên đây cần được
xem xét, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình xây dựng Quy hoạch
phát triển nuôi trồng thủy sản các tỉnh miền Trung đến năm năm 2020, tầm nhìn 2030
đi vào thực tế cuộc sống và phát triển trong những thập niên tới.
VII. Đánh giá hiện trạng các dự án phát triển NTTS
Những nghiên cứu về thực trạng NTTS ở Việt Nam nói chung, và 09 tỉnh miền
Trung nói riêng được phân tích đánh giá theo nhiều cấp độ, nhiều phạm vi và với các
tác giả khác nhau, tập trung vào:
56
- Hoàn thiện công nghệ sản xuất giống đối với các đối tượng nuôi chủ lực của
vùng, đơn cử như: Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến sản xuất tôm sú
giống sạch bệnh”; Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất tôm TCT
bố mẹ sạch bệnh (SPF)” với mục tiêu tạo được công nghệ sản xuất tôm TCT bố mẹ
sạch 05 bệnh nguy hiểm thường gặp (TSV, IHHNV, WSSV, MBV, YHV). Kết quả đạt
được của nghiên cứu đã xây dựng được quy trình công nghệ sản xuất tôm TCT bố mẹ
SPF (sạch 5 loại bệnh); xây dựng hồ sơ lý lịch của đàn tôm bố mẹ và tôm giống; Đề tài
“Ứng dụng di truyền số lượng và di truyền phân tử để tạo vật liệu ban đầu cho chọn
giống tôm sú theo tính trạng tăng trưởng”. Trong năm 2012-2013, đề tài đã thu thập
được 4 nhóm tôm trong đó 3 nhóm tôm có nguồn gốc tự nhiên và 1 nhóm tôm gia hóa,
phục vụ cho lai hỗn hợp và chọn giống về sau.
- Phát triển công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm một số đối tượng mới
có giá trị cao (dự án “Hoàn thiện công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá chim
vây vàng”. Dự án đã xây dựng thành công quy trình sản xuất giống nhân tạo cá chim vây
vàng ở quy mô đại trà và việc chủ động sản xuất con giống chất lượng tốt, đủ số lượng tại
địa phương, thúc đẩy sự phát triển của các trại sản xuất giống hải sản, cũng như các trang
trại nuôi cá biển. Quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá chim vây
vàng sẽ được chuyển giao cho trung tâm giống và chi cục NTTS các tỉnh).
- Hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp cho một số đối tượng chủ
lực (dự án sản xuất thử nghiệm “Hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp
nuôi tôm hùm bông (Panulirus ornatus) và tôm hùm xanh (Panulirus homarus)”. Việc
sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm của dự án mở ra triển vọng sử
dụng thức ăn công nghiệp thay thế nguồn thức ăn cá tạp, qua đó giảm nguy cơ ô nhiễm
môi trường và dịch bệnh cho tôm hùm, góp phần phát triển nghề nuôi tôm hùm bền
vững tại Việt Nam. Sản phẩm của đề tài đã được các hộ nuôi tôm hùm ở Khánh Hòa
cũng như một số tỉnh Nam Trung bộ sử dụng và đánh giá cao”.
- Nghiên cứu bệnh học và cách xử lý bệnh đối với một số đối tượng nuôi chủ
lực của vùng như: Đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống giám sát dịch bệnh trên tôm
hùm nuôi lồng ở khu vực miền Trung”; Đề tài “Nghiên cứu bệnh sữa ở tôm hùm bông
(Panulirus ornatus) và biện pháp phòng trị”. Nghiên cứu cũng cho thấy bệnh sữa tôm
hùm bông có liên quan đến việc sử dụng thức ăn tươi sống là các loại giáp xác.
Các đề tài, dự án nghiên cứu có ý nghĩa lớn về mặt lý thuyết và thực tiễn, tuy
nhiên khó khăn chung của các đề tài nghiên cứu là khả năng nhân rộng kết quả trong
thực tiễn và tính thương mại hóa của các đề tài nghiên cứu.
VIII. Hiện trạng nguồn nhân lực trong NTTS các tỉnh miền Trung
1. Hiện trạng nhân lực cán bộ NTTS các cơ quan quản lý các tỉnh miền Trung
Lực lượng công chức, viên chức ở các Sở các tỉnh miền Trung có sự khác biệt
lớn cả về trình độ lẫn số lượng giữa các vùng đồng bằng, ven biển và vùng trung du
miền núi. Số cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng chiếm tỷ lệ cao nhất ở vùng duyên
hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên (chủ yếu là ở vùng duyên hải) đạt 73,37%, vùng
Đông Nam bộ - 56,11%, vùng ven biển Bắc Trung bộ -55,75%.
Điểm thuận lợi trong NTTS của miền Trung là trong khối các cơ quan nghiên
cứu số cán bộ có trình độ sau đại học trong ngành phần lớn thuộc lĩnh vực NTTS, xếp
sau đó là sinh học và các lĩnh vực khác như khai thác, cơ khí, chế biến thủy sản
(CBTS), kinh tế ngành.
57
Tuy nhiên nhiều địa phương trong khu vực, nhất là tuyến huyện và tuyến xã,
nhiều cán bộ quản lý NTTS là cán bộ kiêm nhiệm, chuyên môn đào tạo là nông nghiệp
hoặc thủy lợi, chưa được đào tạo về NTTS nên rất khó khăn trong việc quản lý và ứng
phó với thiên tai dịch bệnh, nhất là đối tượng NTTS rất nhạy cảm nên cần có phương án
giải quyết nhanh. Đây là một trong những khó khăn của hiện trạng nhân sự trong NTTS
miền Trung cần được khắc phục trong thời gian ngắn nhất để phát triển ngành NTTS.
2. Hiện trạng nhân lực lao động sản xuất ngành thủy sản các tỉnh miền Trung
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2010 toàn quốc có khoảng 49,02 triệu lao động
trong độ tuổi, chiếm 55,74% tổng dân số toàn quốc. Trong đó, lao động ngành nông,
lâm nghiệp và thủy sản chiếm 51,26% (riêng lao động thủy sản chiếm 7,13% toàn
ngành nông nghiệp và 3,65% tổng số lao động toàn quốc).
Theo số liệu Điều tra cơ bản của đề tài “Điểu tra phương thức tổ chức nuôi
trồng thủy sản toàn quốc” năm 2013 do Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản là đơn vị
trực tiếp thực hiện, nguồn lao động trực tiếp sản xuất NTTS của Miền Trung rất trẻ, độ
tuổi trung bình 25-35 tuổi, chất lượng lao động trẻ, có sức khỏe, nhiệt tình và gắn bó
với nghề, chịu được áp lực công việc, thiên tai thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Tuy nhiên
thu nhập bình quân của các lao động này chưa cao, trung bình mức lương từ 3,5 đến 5
triệu có nhà chủ nuôi ăn ở. Mức lương này giao động theo mùa vụ và năng suất NTTS.
Do đó, đời sống của người lao động tuy có được cải thiện nhưng chưa cao, khó vươn
lên làm giàu từ nghề này.
Cũng theo số liệu điều tra này, chủ các cơ sở nuôi và các cơ sở sản xuất giống
phục vụ NTTS đều có tuổi đời trẻ, nhiệt huyết và cam tâm với nghề. Tuy đã đầu tư vật
chất và công sức để mạnh dạn đầu tư NTTS, tuy nhiên do đa phần người nuôi chưa
được đào tạo bài bản qua trường lớp mà chỉ nuôi theo kinh nghiệm, do đó kỹ thuật
nuôi chưa đúng, dẫn đến thiệt hại khi có thiên tai dịch bệnh rất lớn. Một số rất ít các
chủ cơ sở được đào tạo đúng chuyên ngành nuôi thì tỉ lệ mất ít hơn rất nhiều so với các
chủ cơ sở nuôi chỉ nuôi dựa vào kinh nghiệm.
Do các lý do trên, điều kiện làm việc song song với khí hậu khắc nghiệt và
nhiều rủi ro, nên thế hệ nhân lực kế cận trong gia đình NTTS thường đi học các ngành
nghề khác mà không theo nghề của gia đình, đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến
nguồn nhân lực cho phát triển ngành NTTS miền Trung.
Bổ sung vào nhân lực ngành NTTS có thể là những người trong độ tuổi lao
động ở khu vực thành thị và miền núi, nếu có những chính sách và định hướng đúng
cho ngành NTTS trong khu vực, có thể thu hút được nguồn nhân lực hiện có đang
thiếu việc làm.
Bảng 24. Tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động miền Trung
Năm 2009 2010 2011 2012 Sơ bộ 2013
Khu vực thành thị (%) 5,47 4,95 3,63 3,51 3,07
khu vực nông thôn (%) 5,54 5,01 3,96 3,91 3,81
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Nếu được định hướng đào tạo nghề và có đầu ra cho ngành NTTS Miền Trung thì
đây là nguồn nhân lực bổ sung đáng kể góp phần phát triển nghề NTTS trong tương lai.
58
3. Công tác đào tạo chuyên ngành NTTS các tỉnh miền Trung
Nếu như giai đoạn 2000-2010, theo xu hướng xã hội hóa trong giáo dục và đào
tạo, trước nhu cầu ngày càng cao về nhân lực, hệ thống các cơ sở đào tạo nguồn nhân
lực nuôi trồng thủy sả cũng như các ngành nghề khác được quan tâm mở rộng, phát
triển trong cả nước và trong khu vực miền Trung. Thì giai đoạn sau năm 2010 đến nay,
số lượng các khoa đào tạo NTTS có xu hướng giảm dần. Kết quả điều tra của Trường
Cao đảng Thuỷ sản phản ánh tại năm 2010 cả nước có khoảng 35 cơ sở đào tạo nhân
lực cho ngành thủy sản, trong đó có 25 cơ sở đào tạo hệ chính quy, 10 cơ sở tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, có 11 cơ sở đào tạo thuộc Bộ NN&PTNT và các đơn vị
trực thuộc Bộ. Thì đến nay số lượng các trường có đào tạo chuyên ngành thuỷ sản đã
có sự thay đổi theo hướng giảm dần. Kết quả rà soát ban đầu của Viện Kinh tế và Quy
hoạch thuỷ sản cho thấy hiện chỉ còn 28 đơn vị có tham gia đào tạo chuyên ngành thuỷ
sản, trong đó 22 đơn vị thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, 05 đơn vị thuộc Bộ
NN&PTNT, 01 đơn vị thuộc Bộ Công Thương (chi tiết ứng như tại phụ lục I: Danh
sách các trường đào tạo NTTS khu vực miền Trung ), trong đó khu vực Miền Trung có
07 cơ sở đào tạo NTTS bao gồm bậc đại học và cao đẳng, trung học. Cụ thể:
- Đại học Thủy sản Nha Trang: là cái nôi đầu ngành về đạo tạo nhân lực cho
NTTS cả nước nói chung và cho khu vực Miền Trung. Ở đây đào tạo chuyên sâu nhiều
ngành nghề thủy sản nhất và cũng là trường có chức năng đào tạo sau đại học bao gồm
thạc sỹ và tiến sỹ cho NTTS và một số ngành nghề khác.
- Đại học Nông lâm Huế, Đại học Vinh, Đại học Hồng Đức, Đại học Quảng
Bình: là 4/21 cơ sở trên cả nước có đào tạo chuyên ngành NTTS, có cả hệ đại học và
hệ cao đẳng.
- Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Quảng Nam, Trung cấp thủy sản Thanh Hóa đào
tạo trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng cho chuyên ngành NTTS, là 2/3 đơn vị đào
tạo trung cấp NTTS trên cả nước.
Số lượng 07 trường đào tạo chuyên ngành NTTS trong khu vực miền Trung so
với 28 cơ sở đào tạo NTTS trên cả nước là một con số rất đáng tự hào cho đào tạo
nhân lực thủy sản Miền Trung, đây là một trong những thuận lợi bước đầu cho phát
triển đào tạo nâng cao nguồn nhân lực cho NTTS.
IX. Hệ thống thu mua, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm NTTS
1. Hệ thống chế biến, thương mại thủy sản
Vùng duyên hải miền Trung có nhiều tiềm năng phát triển CBTS hơn so với
vùng đồng bằng sông hồng và Bắc Trung Bộ, chỉ sau vùng đồng bằng Sông Cửu Long,
trong vùng đã hình thành một số tụ điểm nghề cá như Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình
Thuận, trong đó Bình Thuận là tỉnh có sản lượng KTTS lớn nhất trong vùng. Ngoài ra,
trong vùng có nguồn nguyên liệu tôm TCT sản xuất được từ Thừa Thiên Huế đến Ninh
Thuận với sản lượng đã đạt 108.658,20 tấn năm 2014, hiện đang là nguồn cung cấp
nguyên liệu quan trọng cho các doanh nghiệp chế biến miền Trung và một số doanh
nghiệp miền Bắc và miền Nam. Kết hợp với lợi thế về vị trí địa lý, hạ tầng giao thông,
chính sách thu hút đầu tư, cảng biển, trình độ phát triển, trong vùng đã hình thành các
khu vực tập trung các doanh nghiệp CBTS ở các tỉnh: Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình
Định, Khánh Hòa và Bình Thuận. Đây cũng là những địa phương phát triển cả chế
biến tiêu thụ nội địa lớn nhất cả nước.
59
Thừa Thiên Huế: Là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển NTTS, trong những
năm qua NTTS của tỉnh tăng cả về diện tích và sản lượng. Tuy nhiên, việc tiêu thụ
thuỷ sản còn gặp nhiều bất cập.
Hầu hết các sản phẩm của ngư dân đều phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ của các
doanh nghiệp tư nhân và các nhà thu gom nhỏ ở địa phương nên hiện tượng ép giá, ép
cấp xảy ra; hệ thống các cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc chế biến và bảo quản sản
phẩm còn rất hạn chế; ý thức trong vấn đề bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn
nhiều vấn đề bất cập; việc tiếp cận với hệ thống thông tin thị trường của người nông
dân hạn chế; quan hệ hợp tác giữa các hộ nông dân với các nhà thu gom và giữa nhà
thu gom với các doanh nghiệp và công ty chế biến xuất khẩu còn nhiều vấn đề bất cập.
Trong thời gian quan trên địa bàn tỉnh có 3 công ty: Công ty Cổ phần Phát triển
Thủy sản, Công ty Cổ phần Thủy sản và nhà máy CBTS Vinashin. Các doanh nghiệp
CBTS này đã co những đóng góp nhất định trong việc thu mua sản phẩm và giải quyết
việc làm cho người lao động. Nhìn chung các công ty này từng bước củng cố, duy trì sản
xuất và phát triển nhằm phát triển các nghề nuôi trồng và KTTS trong tỉnh phát triển.
Đà Nẵng: Khu công nghiệp chế biến hải sản hơn 300 ha, hiện có 15 doanh
nghiệp CBTS hoạt động. Phần lớn các cơ sở chế biến có công nghệ bảo quản và chế
biến được đánh giá là trung bình khá. Hầu hết các cơ sở CBTS trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng đều đạt tiêu chuẩn và được phép xuất khẩu thủy sản vào một số thị trường
khó tính như: EU, Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản.
Quảng Nam: Đến thời điểm hiện nay Quảng Nam có 13 nhà máy và xưởng
CBTS xuất khẩu, hầu hết các đơn vị này đều được Cục Quản lý chất lượng nông lâm
thủy sản cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó tỉnh
còn tập trung khoảng 20 cơ sở CBTS dạng khô và dạng mắm phục vụ tiêu thụ nội địa.
Tuy nhiên hiện nay chỉ còn 02 nhà máy hoạt động có hiệu quả (Công ty Đương
Phương và Công ty Việt Quang) còn lại hầu hết các nhà máy đều gặp khó khăn chỉ sản
xuất cầm chừng hoặc đóng cửa. Lý do chính là thiếu nguyên liệu phục vụ cho chế biến.
Quảng Ngãi: Hiện nay toàn tỉnh có 10 doanh nghiệp CBTS quy mô công
nghiệp với tổng công suất thiết kế khoảng 11.900 tấn/năm. Sản phẩm thủy sản xuất
khẩu gồm: Cá thịt trắng fillet, cá nục cấp đông nguyên con, cá cơm khô,... Sản phẩm
tiêu thụ nội địa chủ yếu là các sản phẩm có giá trị thấp như cá cơm, cá nục, cá ngừ loại
nhỏ,... Trong những năm qua tình hình CBTS của tỉnh gặp rất nhiều khó khăn: Một số
doanh nghiệp chuyển từ chế biến xuất khẩu trực tiếp sang chế biến gia công hàng xuất
khẩu cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu ngoài tỉnh và bán hàng xuất khẩu qua
hình thức hợp đồng tiêu thụ nội địa do thiếu hụt vốn. Một số doanh nghiệp vẫn giữ
nguyên hình thức ủy thác xuất khẩu qua các doanh nghiệp khác, nguyên nhân do các
cơ sở chưa đủ điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm xuất khẩu theo quy định, phần
lớn các doanh nghiệp còn thiếu vốn nên chưa đầu tư tốt cơ sở hạ tầng, kho lạnh dự trữ
nguyên liệu để phục vụ sản xuất.
Qua cơ cấu sản phẩm xuất khẩu và tiêu thụ nội địa cho thấy hầu hết các doanh
nghiệp này sử dụng nguyên liệu từ khai thác để phục vụ cho chế biến, chưa có doanh
nghiệp nào sản xuất từ nguyên liệu NTTS của địa phương.
Bình Định: Hiện tại có 05 công ty, xí nghiệp CBTS xuất khẩu với tổng công
suất chế biến khoảng 11.500 tấn sản phẩm/năm. Chế biến tiêu thụ nội địa có khoảng
339 cơ sở, sản xuất chủ yếu là nước mắm, thủy sản khô, chả cá, chả mực,...
60
Hiện nay các cơ sở sản xuất có sự đầu tư dần các trang thiết bị máy móc hiện
đại để phục vụ cho dây chuyền sản xuất.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số yếu kém như chưa xây dựng thương hiệu cho các
sản phẩm thủy sản chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức. Lực lượng lao động tại các
nhà máy CBTS chưa được đào tạo kiến thức chuyên môn trong chế biến, bảo quản thủy
sản, còn lại phần lớn lao động trong lĩnh vực CBTS là lao động phổ thông, chưa được
đào tạo về kiến thức chuyên ngành bảo quản thủy sản và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phú Yên: Hiện nay, toàn tỉnh có 84 cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản có đăng
ký kinh doanh (trong đó: 26 cơ sở chế biến nước mắm, 20 cơ sở CBTS khô, 2 cơ sở
sơ chế, CBTS đông lạnh, 16 cơ sở thu mua thủy sản và 2 cơ sở sơ chế CBTS khác) và
6 Công ty CBTS xuất khẩu.
Hiện nay các doanh nghiệp CBTS xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm từ tôm,
cá, mực đông lạnh. Các thị trường nhập khẩu sản phẩm thủy sản của Phú Yên là: Hàn
Quốc, Nhật Bản, Đài Loan Mỹ, Canada, EU,...
Các doanh nghiệp này tuy chưa phát huy hết thế mạnh nhưng xuất khẩu thủy
sản của tỉnh đã góp phần tạo ra giá trị gia tăng thêm của sản phẩm thủy sản và tạo
động lực phát triển ngành thủy sản theo chuỗi giá trị, gắn chế biến, tiêu thụ với sản
xuất nguyên liệu, cải thiện điều kiện sống, nâng cao thu nhập của cộng đồng dân cư.
Khánh Hòa: Có thể nói quy hoạch chế biến của Khánh Hòa đứng hàng đầu trung
vùng về số lượng cơ sở cũng như quy mô sản xuất của các doanh nghiệp CBTS. Toàn
tỉnh hiện có 44 doanh nghiệp CBTS đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, với các sản phẩm chính là
tôm, cá, mực, nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Các sản phẩm xuất khẩu đã có mặt trên 64 thị
trường thế giới. Trong đó, Nhật Bản, Mỹ là hai thị trường đứng đầu với tỷ trọng là 20%
và 40%; EU chiếm 15% còn lại là các thị trường khác. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu
thủy sản của tỉnh đạt trên 300 triệu USD. Thế mạnh về chế biến đã tạo điều kiện tốt về
tiêu thụ sản phẩm từ nuôi trồng thủy sant và KTTS phục vụ cho CBTS xuất khẩu.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các doanh nghiệp CBTS, các nhà máy vẫn chưa
sản xuất hết công suất sản xuất, do nguồn nguyên liệu trong tỉnh chưa đáp ứng đủ nhu
cầu chế biến do vậy các nhà mày này đã chủ động thu mua nguyên liệu tại các địa
phương khác. Trong thời gian tới các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư nâng cao dây
chuyền công nghệ sản xuất để có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Ninh Thuận: Toàn tỉnh hiện có 04 doanh nghiệp CBTS xuất khẩu, trong đó công
ty chủ lực là Chi nhánh Công ty Thông Thuận, còn lại các doanh nghiệp khác sản xuất
với quy mô vừa và nhỏ, giá trị kim ngạch xuất khẩu dao động từ 3- 6 triệu USD. Hầu
hết máy móc thiết bị của các doanh nghiệp này đều sử dụng công nghệ cũ, chủ yếu sử
dụng công nghệ tủ đông tiếp xúc, tạo ra sản phẩm cấp đông với thời gian kéo dài làm
tăng chi phí sản xuất và giảm chất lượng sản phẩm. Sản phẩm xuất khẩu còn nghèo
nàn, chưa đa dạng và phong phú. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là mực đông, cá đông,
tôm đông block, tôm luộc, tôm xiên que, tôm chiên bột, cá khô, cá tẩm gia vị,... Thị
trường tiêu thụ sản phẩm của Ninh Thuận vẫn là các thị trường truyền thống: Nga,
Trung Quốc, Đài Loan, Nhật, Hàn Quốc.
Đặc biệt năm 2014, tại Ninh Thuận khánh thành và đưa vào hoạt động nhà máy
chế biến rong sụn (Công ty Cổ phần rau câu Sơn Hải). Đây là nhà máy đầu tiên ở Việt
Nam được xây dựng và lắp đặt trang thiết bị hiện đại, áp dụng khoa học kỹ thuật để
chiết tách rong biển thành bột Carrageenan, agar - agar,... một sản phẩm cung cấp cho
61
ngành sản xuất hàng tiêu dùng trong chế biến một số loại thực phẩm, như: Thạch rau
câu, sữa, kẹo dẻo, mì tôm, xúc xích và ngành hóa mỹ phẩm: dầu gội đầu, kem đánh
răngcung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Đi vào hoạt động, mỗi năm,
nhà máy chiết suất khoảng ba nghìn tấn rong khô thành sản phẩm bột Carrageenan;
giải quyết việc làm có thu nhập ổn định cho 100 lao động tại địa phương.
Bình Thuận: Hiện nay, toàn tỉnh hiện có 334 nhà máy chế biến, sơ chế động
lạnh và thu mua hàng thủy sản với tổng công suất thiết kế khoảng 39.000 tấn thành
phẩm/năm. Công tác quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đều được chính
quyền địa phương và các doanh nghiệp quan tâm. Nhờ thế sản phẩm thủy sản của địa
phương có mặt trên khắp các châu lục, kể cả thị trường được coi là khó tính như: EU,
Mỹ, Nhật Bản. Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu áp dụng Chương trình quản lý
chất lượng theo HACCP và đạt tiêu chuẩn ngành, một số doanh nghiệp đạt chứng chỉ
ISO, nhiều doanh nghiệp có phòng kiểm nghiệm vi sinh và đặc biệt là thiết bị kiểm tra
dư lượng kháng sinh cấm đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu.
Nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất của các doanh nghiệp được sử dụng từ hai
nguồn: khai thác tự nhiên và NTTS. Hầu hết các doanh nghiệp CBTS sử dụng cùng lúc
cả hai nguồn nguyên liệu để chế biến theo nhu cầu của nước nhập khẩu và nhà tiêu
dùng. Các cơ sở CBTS thu mua nguyên liệu thông qua các chủ thu mua, nậu vựa thu
gom nguyên liệu từ các đầm, ao nuôi sau đó vận chuyển đến nhà máy chế biến.
Theo thống kê của Cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản nước ta có khoảng
568 cơ sở CBTS với tổng công suất thiết kế khoảng 2,5 triệu tấn sản phẩm/năm (miền
Trung chiếm 25%), các cơ sở này đều đạt chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó có
trên 440 cơ sở đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường như: Nhật Bản, Mỹ, EU,...
Theo số liệu điều tra và tính toán của nhóm chuyên gia thủy sản năm 2011 khu vực
duyên hải miền Trung có cơ cấu sản phẩm thủy sản chế biến như sau: sản phẩm sơ chế
chiếm 49,6%; sản phẩm giá trị gia tăng chiếm 51,4% cao hơn nhiều so với trung bình cả
nước là sản phẩm thủy sản cơ chế 60% và sản phẩm giá trị gia tăng là 40%. Điều đó
chứng tỏ sản phẩm thủy sản chế biến ngày càng đa dạng và phong phú, c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_tong_hop_quy_hoach_phat_trien_nuoi_trong_thuy_san_ca.pdf