Báo cáo tốt nghiệp Quy trình sản xuất urê – xưởng urê nhà máy đạm Phú Mỹ

MỤC LỤC

 

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ MÁY ĐẠM PHÚ MỸ 1

1.1 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 2

1.2 CÁC PHÂN XƯỞNG CHÍNH CỦA NHÀ MÁY: 3

1.2.1 Phân xưởng tổng hợp Amôniắc 3

1.2.2 Phân xưởng tổng hợp urê 3

1.2.3 Phân xưởng phụ trợ 4

1.2.4 Xưởng sản phẩm 5

1.3 ĐỊA ĐIỂM, MẶT BẰNG XÂY DỰNG NHÀ MÁY 5

1.4 SƠ ĐỒ TỔ CHỨC, BỐ TRÍ NHÂN SỰ 6

1.5. AN TOÀN LAO ĐỘNG 7

1.5.1 Các tiêu chuẩn áp dụng trong phòng cháy và chống cháy 7

1.5.2 Các chất có thể gây cháy nổ 8

1.5.3 Hệ thống phòng cháy chữa cháy 9

1.5.4 Hệ thống phát hiện lửa và khí 9

1.5.5 Giám sát và kiểm tra các thiết bị phòng cháy chữa cháy 10

1.6. XỬ LÝ NƯỚC THẢI, VỆ SINH CÔNG NGHIỆP 10

CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ URÊ 12

2.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN 13

2.2.1. Tính chất vật lý 13

2.2.2. Tính chất hóa học 15

2.3. ỨNG DỤNG 18

2.3.1 Trong công nghiệp 18

2.3.2 Sử dụng trong phòng thí nghiệm 19

2.3.3 Sử dụng y học 19

2.3.4 Sử dụng trong chẩn đoán khác 20

2.3.5 Cathrat (Hợp chất mắt lưới) 20

2.4. Những nét nổi bật về phân urê 21

2.4.1 Ưu điểm của Urê 21

2.4.2 Cách sử dụng phân urê hiệu quả nhất 21

2.4.3 Tại sao phân đạm lại cần thiết cho cây trồng? 23

2.5. Thị trường Urê trên thế giới và Việt Nam 24

2.5.1 Nhu cầu và khả năng đáp ứng phân urê tại Việt Nam 24

2.5.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ urê trên thế giới 25

CHƯƠNG 3 QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT URÊ 27

3.1 LÝ THUYẾT TỔNG HỢP VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUÁ TRÌNH TỔNG HỢP 28

3.1.1 Lý thuyết tổng hợp urê 28

3.1.2. Ảnh hưởng tỷ lệ NH3/CO2 29

3.1.2 Ảnh hưởng tỉ lệ H2O/CO2 30

3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ và áp suất 31

3.1.4 Sự hình thành biuret 32

3.2. QUY TRÌNH SẢN XUẤT URÊ TRÊN THẾ GIỚI 33

3.2.1 Công nghệ Urê không thu hồi 34

3.2.2 Công nghệ tuần hoàn dung dịch 34

3.2.3 Công nghệ C cải tiến tuần hoàn toàn bộ Misui-Toatsu 34

3.2.4 Công nghệ Montedision 38

3.2.5 Công nghệ stripping khí cao áp. 38

3.2.6 Công nghệ stripping CO2 Stamircacbon 39

3.3. QUY TRÌNH SẢN XUẤT URÊ – XƯỞNG URÊ NHÀ MÁY ĐẠM PHÚ MỸ 44

3.3.1. Công đoạn nén CO2 45

3.3.2. Tổng hợp urê và thu hồi NH3 - CO2 cao áp: 46

3.3.3 Phân hủy cacbanmate và thu hồi NH3 - CO2 trung & thấp áp 48

3.3.3 Cô đặc: 53

3.3.4 Tạo hạt urê 54

3.3. 5 Xử lý nước thải: 55

3.4 CÁC SỰ CỐ XƯỞNG URE và QUI TRÌNH PHÒNG CHỐNG SỰ CỐ 55

3.4.1 Các sự cố xưởng urê 55

3.4.2 Quy trình phòng chống sự cố: 57

CHƯƠNG 4: CÁC CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH XƯỞNG URÊ 69

 

 

doc85 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 24511 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo tốt nghiệp Quy trình sản xuất urê – xưởng urê nhà máy đạm Phú Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và Đông Á. Ước tính giữa năm 2005 và 2007 gần 70% lượng nhu cầu phân bón thế giới tăng đến từ 2 khu vực này. Hình 2.1: Sự gia tăng nhu cầu phân bón trên thế giới giữa năm 2005 và năm 2007 Việc tăng nhu cầu phân bón thế giới năm 2007 đã tác động tích cực đến việc cung cấp phân bón, đặc biệt là urê và các sản phẩm Nitơ khác. Nhu cầu phân bón Phosphat và Kali không đổi trong khi thương mại thay đổi. Việc sản xuất NH3 trên thế giới trong năm 2006 ước tính khoảng 150 triệu tấn NH3 tăng 3% so với năm 2005. Năm 2007 cung cầu Nitơ thế giới sẽ duy trì tương đối cân bằng. Thị trường urê thế giới năm 2006 cho thấy sự tăng trưởng hơn mong đợi với sự tăng giá cả, nhu cầu được duy trì tương đối liên tục, cung cấp vừa đủ. Năm 2006, sản xuất urê của thế giới ước tính khoảng 133,5 triệu tấn. Mặc dù Ả rập và Xê Út tăng thêm lượng cung nhưng việc bán urê nhìn chung vừa đủ do sự thiếu nguồn cung từ Trung Quốc và Indônêsia trên thị trường thế giới. Trong năm 2006, Ấn Độ dẫn đầu về nhập khẩu urê tiếp đó là Pakistan, Bangladesh và Tây Âu. Thêm vào đó là đã xuất hiện một số loại phân bón N ngoài urê (Gần 6 triệu tấn trong năm 2006). Năng suất urê thế giới dự kiến sẽ tăng mạnh trong năm 2007. Thị trường urê sẽ còn vừa đủ đến nửa năm 2007. Với năng suất mới sẽ dẫn đến thặng dư urê trong nửa năm 2007 còn lại. CHƯƠNG 3 QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT URÊ 3.1 LÝ THUYẾT TỔNG HỢP VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUÁ TRÌNH TỔNG HỢP 3.1.1 Lý thuyết tổng hợp urê Urê là sản phẩm được tạo thành qua phản ứng tổng hợp amôniắc lỏng và khí CO2. Trong tháp tổng hợp urê, amôniắc và CO2 phản ứng tạo thành amôni cácbamát, một phần amônium cácbamát tách nước tạo thành urê. Các phản ứng xảy ra như sau: 2NH3+CO2 « NH2COONH4 + 32560 kcal/kmol cácbamát (Ở 1.033 kg/cm2, 25OC) [1] NH2-COO-NH4 « NH2-CO-NH2+H2O - 4200 kcal/kmol urê (Ở 1.033 kg/cm2, 25OC) [2] Ở điều kiện phản ứng (T=188-190oC, P=152-157 barg), phản ứng thứ nhất xảy ra nhanh chóng và hoàn toàn, phản ứng thứ hai xảy ra chậm và quyết định vận tốc phản ứng. Phần amônium cácbamát tách nước được xác định bằng tỉ lệ các chất phản ứng khác nhau, nhiệt độ phản ứng và thời gian lưu trong tháp tổng hợp. Phản ứng thứ nhất tỏa nhiệt mạnh liệt trong khi đó phản ứng thứ hai thu nhiệt yếu và xảy ra trong pha lỏng ở tốc độ chậm. Sau hệ thống tổng hợp urê, quá trình phân huỷ (và thu hồi có liên quan) không thay đổi thành phần phản ứng được thực hiện ba bước sau: Phản ứng phân huỷ là phản ứng ngược chiều với phản ứng [1] NH2-COO-NH4 « 2 NH3 + CO2 (- nhiệt) Phản ứng xảy ra mãnh liệt khi giảm áp và/hoặc tăng nhiệt. 3.1.2. Ảnh hưởng tỷ lệ NH3/CO2 Theo phản ứng 1, tỷ lệ Mol lý thuyết của NH3/CO2 là 2, nhưng dưới các điều kiện khác sản phẩm urê ổn định chậm ở 168 bar 155 OC. Tuy nhiên trong thực tế sản phẩm urê thay đổi khi thay đổi tỷ lệ NH3/CO2. Khi tỷ lệ Mol NH3/CO2 thay đổi từ 2 đến 9, sản phẩm urê thay đổi từ khoảng 40% đến 85%. Trên những điều kiện khác, khi tỷ lệ Mol NH3/CO2 thay đổi từ 2 đến 0.5, sản phẩm urê sẽ thay đổi chỉ từ khoảng 40% đến khoảng 45%. Vì vậy ảnh hưởng của CO2 là rất nhỏ so với NH3. Hơn thế nữa, dưới điều kiện giàu CO2, dung dịch sẽ trở nên ăn mòn nhiều hơn và vận hành có vấn đề liên quan đến kết tinh là quá quan trọng. Nói chung, hầu hết tất cả các nhà máy urê được vận hành dưới tỷ lệ NH3/CO2 trong khoảng giữa 2.5 và 5.0. Hình 3.1: Ảnh hưởng tỷ lệ NH3/CO2 lên tốc độ tạo thành urê 3.1.2 Ảnh hưởng tỉ lệ H2O/CO2 Từ phản ứng thứ hai, rõ ràng rằng lượng nước dư trong dung dịch phản ứng làm cản trở sự hình thành urê từ cácbamát. Nhưng nếu hàm lượng nước quá thấp thì nồng độ cácbamát trở nên cao cùng với vấn đề nghẽn đường ống. Do đó, thông thường thì tỉ lệ mole H2O/CO2 là 0.4-1 trong các nhà máy công nghiệp. 3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ và áp suất Mối liên hệ giữa độ chuyển hóa cân bằng và nhiệt độ vận hành được đưa ra bởi Fréjacques và những người cộng sự như sau: độ chuyển hóa tăng tỉ lệ với sự tăng nhiệt độ, nhưng Otsuka và những người cộng sự đã báo cáo rằng độ chuyển hóa cân bằng tối đa tồn tại xung quanh 196-200oC Phản ứng phân huỷ là phản ứng ngược chiều với phản ứng [1] NH2-COO-NH4 « 2 NH3 + CO2 (- nhiệt) Phản ứng xảy ra mãnh liệt khi giảm áp và/hoặc tăng nhiệt. Từ phản ứng này có thể thấy rằng sự phân hủy được xúc tiến bằng cách giảm áp suất và/hoặc cung cấp nhiệt. Hình 3.2: Ảnh hưởng nhiệt độ và áp suất vào độ chuyển hóa khi tỉ lệ NH3/CO2= 4 3.1.4 Sự hình thành biuret Biuret là phản ứng không mong muốn được hình thành khi hai mole urê kết hợp thành một mole biuret và một mole amôniắc bằng gia nhiệt. 2(NH2-CO-NH2) « NH2-CO-NH-CO-NH2 + NH3 Vì biuret có hại tới sự đâm chồi của hạt, và làm héo cây dứa và cam, quýt khi đạm được phun lên lá, hàm lượng biuret trong phân đạm trên thị trường thế giới được yêu cầu dưới 1.5%. Biuret tạo thành gần như trong tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất urê và chủ yếu được tạo thành ở hệ thống phân hủy thấp áp và nhiệt độ cao. Nhìn chung, sự tạo thành biuret tăng lên nhanh chóng khi nhiệt độ vượt quá 110oC do đó cần phải giữ nhiệt độ/áp suất và thời gian lưu của mức urê lỏng ở giá trị bình thường trong các bình chứa ở mỗi giai đoạn phân hủy đặc biệt là trong bình chứa của thiết bị tách chân không. 3.2. QUY TRÌNH SẢN XUẤT URÊ TRÊN THẾ GIỚI Các phương pháp sản xuất urê từ khí thiên nhiên được sử dụng hiện nay trên thế giới, căn cứ vào khả năng thu hồi vật liệu thô, đã phát triển thành ba công nghệ chính như sau: Công nghệ không thu hồi (Once-through process): CO2 và NH3 ra khỏi khu vực tổng hợp (quá trình stripping cacbamat được xem là một phần khu vực tổng hợp) được mang đến các phân xưởng khác. NH3 sẽ được trung hòa với các axit (như axit nitric) để sản xuất các loại phân bón như là ammonium sulphat và ammonium nitrat. Công nghệ thu hồi một phần (Partial recycle process): CO2 và NH3 được tách một phần khỏi lưu chất phản ứng trong công đoạn phân hủy, sau đó được thu hồi trong một thiết bị hấp thụ, phần còn lại được mang đến các phân xưởng khác giống như công nghệ không thu hồi Công nghệ thu hồi hoàn toàn (Total recycle process): CO2 và NH3 được tách hoàn toàn trong các thiết bị phân hủy nhiều giai đoạn và được thu hồi đến thiết bị phản ứng. Ngày nay, chỉ có công nghệ thu hồi hoàn toàn được áp dụng. Tổng chuyển hóa NH3 khoảng 99%. Kết quả không có sản phẩm phụ chứa Nitơ tạo thành và việc sản xuất urê chỉ phụ thuộc vào việc cung cấp CO2 và NH3 từ xưởng NH3. Tuy nhiên, công nghệ này cũng đắt nhất về chi phí đầu tư và vận hành. Việc phân hủy cacbamat được thực hiện bằng việc kết hợp gia nhiệt, giảm áp và quá trình stripping (quá trình này làm giảm áp suất riêng của một hoặc nhiều thành phần). Các công nghệ xuyên suốt hoặc thu hồi một phần thường đòi hỏi chi phí đầu tư thấp hơn, cũng như chi phí vận hành thấp hơn nhưng độ tin cây giảm (do sự phụ thuộc lẫn nhau của phân xưởng urê và các phân xưởng khác), tính linh hoạt giảm (do tỷ lệ các sản phẩm phụ) và khó đồng bộ giữa 2 phân xưởng. Dịch urê thu được sau công đoạn phân hủy thường đạt nồng độ 65-77%. Dịch này có thể được sử dụng để sản xuất các loại phân bón chứa Nitơ hoặc chúng được cô đặc để sản xuất urê. 3.2.1 Công nghệ Urê không thu hồi Cacbamat chưa chuyển hóa được phân hủy thành NH3 và khí CO2 bằng cách gia nhiệt hỗn hợp dòng công nghê ở điều kiện thấp áp. Khí NH3 và CO2 thoát khỏi dịch urê và được sử dụng để sản xuất các muối amôn bằng cách hấp thụ NH3 trong acid sunfuaric và acid photphoric. Một nhà máy như thế này sẽ có chi phí đầu tư tương đối thấp, nhưng có lượng khí thải tương đối lớn. Do nhu cầu về urê cấp phân bón tinh khiết ngày càng tăng, nên các nhà máy đi theo công nghệ không thu hồi ít có tính hấp dẫn, bởi vì nó sản xuất ra quá nhiều muối amôn với mức tuần hoàn nhỏ. 3.2.2 Công nghệ tuần hoàn dung dịch Khí NH3 và CO2 thu hồi từ dòng công nghệ của tháp tổng hợp trong các công đoạn phân hủy ở các áp suất khác nhau ( cao áp, trung áp và tháp áp) được hấp thụ trong nước và được tái tuần hoàn trở lại cho tháp tổng hợp dung dịch cacbamat amôn lỏng có chứa Amoniac. Hầu như toàn bộ gần một nửa công suất urê của thế giới sản xuất ra đi theo công nghệ này. 3.2.3 Công nghệ C cải tiến tuần hoàn toàn bộ Misui-Toatsu Tháp tổng hợp vận hành ở điều kiện áp suất khoảng 25MPa (246at) và khoảng 1950C với tỷ lệ mol toàn phần NH3:CO2 khoảng 4:1 (nạp nguyên cộng với tuần hoàn). Theo báo cáo người ta đã thu được hiệu suất chuyển hóa cacbamat thành urê của mỗi chu trình tương đối cao. Cacbamat chưa chuyển hóa và NH3 dư được thu hồi trong dòng thải của tháp tổng hợp trước tiên là tháp phân hủy cao áp đốt nóng bằng hơi trung áp , với áp suất phân huỷ khoảng 17 MPa (xấp xỉ 168 at) và nhiệt độ khoảng 1550C, sau đó chuyển sang tháp phân hủy thấp áp gia nhiệt bằng hơi thấp áp có áp suất P=300 kPa (khoảng 3 at) và nhiệt phân huỷ là 1300C Khí thấp áp được ngưng tụ trong tháp hấp thụ thấp áp và dịch lỏng được bơm lên cho tháp hấp thụ cao áp để hấp thụ khí của thiết bị phân hủy cao áp. Amoniac dư chưa hấp thụ của tháp hấp thụ cao áp được ngưng tụ trong tháp ngưng tụ NH3 bởi vì dịch cacbamat cô đặc được thu hồi trong tháp hấp thụ cao áp. Phương pháp kết tinh trung gian cho phép sản xuất được urê có hàm lượng biuret ở mức dưới 0,5% trọng lượng phù hợp cho mục đích thương phẩm và sử dụng. Nhiệt toả ra trong quá trình tuần hoàn ngưng tụ carbamate được tận dụng cấp nhiệt cho quá trình bay hơi nước và amonia trong thiết bị tiền cô đặc chân không. Tháp tổng hợp được lót một lớp hợp kim đặc biệt để chống ăn mòn. Các chi tiết khác của thiết bị trong dây chuyền được chế tạo bởi thép không rỉ 316L, 316, 304L và 303 tùy thuộc vào áp suất và nhiệt độ làm việc và nồng dộ carbamate trong dịch ure. Nếu nồng độ cacbamat và nhiệt độ quá trình cao hơn thì cần phải có thiết bị bằng thép không rỉ 316L và 316SS còn ở những nơi có nồng độ cacbamat và nhiệt độ làm việc thấp thì dùng thiết bị có vật liệu 304L và 304SS. Không khí thụ động hóa được đưa vào trong thiết bị phân hủy cao áp để tạo lớp ô-xit trên bề mặt bên trong thiết bị tăng cường khả năng chống ăn mòn cho thiết bị bằng thép không rỉ. Trong nhiều năm qua người ta đã tiến hành các bước cải tiến công nghệ (19-24). Hiện nay có nhiều nhà máy urê công suất đến 1800 tấn/ngày đang sử dụng công nghệ này. Hình 3.3 : Công nghệ C cải tiến tuần hoàn toàn bộ Misui-Toatsu Hình 3.4 : Công nghệ Montedision 3.2.4 Công nghệ Montedision Tháp tổng hợp làm việc ở mức áp suất từ 20-22 MPa (khoảng 192-217 at) tỷ lệ mol NH3/CO2 khoảng 3,5:1 (nạp nguyên cộng tuần hoàn). Mức chuyển hóa cacbamat thành urê cho mỗi hành trình theo báo cáo đạt 62-63%. Áp suất dòng thải của tháp tổng hợp được giảm xuống vào khoảng 7,5 MPa (74 at) và hơi nước được đốt nóng để thu hồi NH3 và CO2 chưa chuyển hóa trong dịch urê. NH3 và CO2 dư được thu hồi trong hai thiết bị phân hủy áp lực nối tiếp vận hành với áp suất 1,2 Mpa (khoảng 12 at) và 200 kPa (2 at). Dịch urê loãng 75% trọng lượng của tháp phân hủy cacbamat thứ ba được cô đặc thành urê nóng chảy 99,5 % trọng lượng trong hệ thống bốc hơi chân không hai cấp vận hành ở mức áp suất khoảng 29 kPa (0,29ata) và 3,4 kPa (0,034 ata ). Khí của thiết bị phân hủy cacbamat thứ ba được ngưng tụ trong tháp hấp thụ làm lạnh bằng nước thứ ba và sau đó được bơm vào cho tháp hấp thụ thứ hai để hấp thụ khí của tháp phân hủy cacbamat thứ hai. Dịch cacbamat loãng của tháp hấp thụ thứ hai được bơm vào tháp hấp thụ thứ nhất để phục vụ mục đích hấp thụ. Nhiệt tỏa ra của quá trình hình thành cacbamat được sử dụng để sản xuất hơi thấp áp trong tháp hấp thụ thứ nhất với áp suất khoảng 300 kPa (3 at) để xuất ra ngoài nhà máy. Tháp tổng hợp được lót một lớp bằng thép 316L không khí được phun vào để thụ động hóa. Mới gần đây đã có thông báo nói về một quá trình cải tiến dựa trên công nghệ tuần hoàn kép đẳng áp (IDR) (25). Dòng công nghệ ra khỏi tháp tổng hợp đầu tiên được stripping cùng với khí NH3 sau đó với CO2 tất cả đều vận hành theo áp suất của tháp tổng hợp khoảng 18-21 MPa (khoảng 180-210 at). Theo báo cáo đã giảm được đáng kể mức tiêu hao hơi nước công nghệ. 3.2.5 Công nghệ stripping khí cao áp. Công nghệ này được phát triển và đưa vào áp dụng thương mại hóa từ những năm 1960. Công nghệ dựa vào nguyên lý stripping khí CO2 cao áp theo áp suất của tháp tổng hợp và nhiệt độ cũng tương đối cao. Cacbamamat chưa chyển hóa được phân hủy thành NH3 và CO2 bằng dòng khí CO2 khí đi qua dịch thải của tháp tổng hợp. NH3 và CO2 dư trong sản phẩm được thu hồi thấp áp bằng phương pháp đốt nóng cacbamat áp suất thấp quy ước. Trong quá trình phát triển sau này, tháp tổng hợp Amoniac cao áp được nạp liệu tác nhân stripping cho cacbamat bằng áp suất của tháp. Ngược lại với quá trình tuần hoàn dịch công nghệ stripping về mặt nguyên thủy cần phải có một cấu trúc cao thích nghi với các thiết bị như tháp tổng hợp, tháp stripper và thiết bị ngưng tụ. Các thiết bị này phải được định vị trong phạm vi cấu trúc cao vừa đủ để đảm bảo dòng cacbamat tuần hoàn bằng trọng lực tới được cho tháp tổng hợp. Song gần đây người ta đã cải tiến phát triển một thiết bị phun trộn để tuần hoàn cacbamat, nó đã giảm được đáng kể không cần đến các cấu trúc cao cồng kềnh như kể trên. Vì tính hiệu quả về mặt năng lượng của nó, nên sản phẩm đi theo công nghệ stripping chiếm khoảng một nửa sản phẩm urê của thế giới. 3.2.6 Công nghệ stripping CO2 Stamircacbon Tháp tổng hợp, tháp phân hủy cacbamat cao áp (stripper) và thiết bị ngưng tụ cacbamat mỗi cái đều hoạt động ở áp suất khoảng 14 MPa (khoảng 140 at), tỷ lệ mol NH3/CO2 là 2,8:1. Áp suất tháp tổng hợp được hiển thị thông qua tháp stripper trong đó nhu cầu về tỷ lệ mol và áp suất thấp để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình phân hủy. Lượng cacbamat chưa chuyển hóa được phân hủy và tuần hoàn đẳng áp tới cho tháp tổng hợp, do vậy kích thước bơm tuần hoàn cũng được giảm đi. Tháp tổng hợp có các đĩa lỗ có tác dụng làm cho việc pha trộn NH3 và cacbamat lỏng tuần hoàn từ thiết bị hấp thụ thấp áp và hỗn hợp khí của thiết bị ngưng tụ cao áp được thuận lợi hơn. Trên đỉnh của tháp tổng hợp có một túi khí dùng cho việc phân ly các chất không ngưng tụ của dịch sản phẩm urê. Các chất không ngưng tụ chủ yếu là không khí thụ động hóa được rửa bởi dịch cacabamat từ tháp hấp thụ thấp áp tới và thải ra ngoài qua hệ thống thải khí trơ trên cao. Dịch lỏng đi ra từ hệ phóng không này được cấp vào cho thếit bị ngưng tụ cacbamat thông qua một vòi phun được hoạt động theo mức nạp của tháp tổng hợp NH3 cao áp. Dịch sản phẩm urê chảy tràn vào đường ống xuống bên trong và được nạp vào cho đỉnh tháp stripping cao áp. Hơi cao áp cung cấp nhiệt phân hủy cacbamat và duy trì mức nhiệt độ cao khoảng 1900C. CO2 cao áp đi qua ống của thiết bị stripper ngược dòng với dòng sản phẩm urê đi xuống. Với sự có mặt của khí CO2 dư, cacbamat được phân hủy thành khí NH3 và CO2 sau đó được tách khỏi dung dịch. Áp suất trong dịch urê đã khử khí có chứa một số cacbamat và NH3 chưa chuyển hóa được giảm xuống thu hồi NH3 và urê, kết quả sản phẩm được cô đặc urê nóng chảy hàm lượng đạt 99,7% trọng lượng trong điều kiện chân không cao áp. Sau khi bổ sung NH3, khí từ trên cao của thiết bị stripper đi xuống được ngưng tụ từng phần để sản xuất hơi thấp áp xuất ra ngoài nhà máy. Hỗn hợp qua ngưng tụ từng phần này chảy ngược trở lại dưới tác dụng của trọng lực từ thiết bị ngưng tụ cao áp về cho tháp tổng hợp. Nhiệt trong thiết bị ngưng tụ cao áp được khử hết theo cách như thế nào đó để đảm bảo còn một lượng nhiệt nhất định trong khí CO2 và NH3 trong dòng khí tuần hoàn trở lại cho tháp tổng hợp nhằm duy trì cân bằng nhiệt cho tháp thông qua việc ngưng tụ khí bổ sung. 3.2.7 Công nghệ Stripping NH3 Snamprogetti Hình 3.5 Công nghệ Stripping NH3 Snamprogetti Công nghệ này được phát triển từ cuối những năm 1960. Chu trình tổng hợp vận hành ở mức áp suất 15 Mpa (khoảng 150at) và tỷ lệ toàn phần NH3/CO2 là 3,8:1. Chuyển hóa cacbamat thành urê của mỗi chu trình theo báo cáo đạt được khoảng 65-75%. Sản phẩm ra khỏi tháp tổng hợp được nạp vào cho tháp stripper cao áp để phân hủy cacbamat chưa chuyển hóa theo áp suất của tháp tổng hợp. Khí từ tháp stripper cao áp ở trên đi xuống được ngưng tụ và tuần hoàn cho tháp tổng hợp bằng một thiết bị phun trộn khí vận hành theo áp suất nạp của tháp Amoniac lỏng cao áp. Hơi thấp áp được sản xuất trong thiết bị ngưng tụ cao áp. Amoniac dư trong dịch urê sản phẩm của tháp stripper cao áp tương đối cao và cần thiết phải có hai cấp phân hủy và tuần hoàn tiếp sau chu trình tổng hợp. Không khí thụ động hóa được đưa vào cho tháp tổng hợp và được thải từ thiết bị ngưng tụ cao áp tới cho tháp hấp thụ trung áp để thu hồi NH3 và CO2 dư, áp suất khoảng 1,5 đến 1,8 MPa (khoảng 15-18 at). Amoniac dư chưa ngưng tụ của tháp hấp thụ trung áp được trộn với dòng NH3 lỏng mới chế và đưa đến cho tháp tổng hợp thông qua vòi phun cacbamat bằng bơm Amoniac lỏng cao áp. Dịch sản phẩm urê được cô đặc trong điều kiện chân không cao để đạt sản phẩm urê nóng chảy khoảng 99,7% trọng lượng và tiếp tục được đưa đến tháp tạo hạt. Mức xử dụng hơi công nghẹ khoảng 0,9 tấn / tấn urê. Có rất nhiều nhà máy hiện nay trên thế giới có công suất đến 2200 tấn/ngày đang sử dụng công nghệ như mô tả ở trên. Hình I.10: Công nghệ Stripping NH3 Snamprogetti Tất cả các qui trình công nghệ sản xuất urê được nêu ở trên điều có được những ưu nhược điểm khác nhau. Có qui trình đơn giản, dễ thực hiện song bị hạn chế ở khâu thu hồi và xử lý chất thải. Bên cạnh đó có qui trình tiết kiệm được năng lượng thì khi sản xuất không thu hồi triệt để nguyên vật liệu…Nổi bật hơn hết là công nghệ sản xuất NH3 của Topsoe-Đan Mạch và qui trình sản xuất urê Snamprogetti của Italia. Hai công nghệ này là những công nghệ sản xuất có thu hồi toàn bộ và đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Hiện nay, đây là công nghệ hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất phân bón, vừa tiết kiệm được chi phí nguyên vật liệu, vừa hạn chế được vấn đề ô nhiễm môi trường. 3.3. QUY TRÌNH SẢN XUẤT URÊ – XƯỞNG URÊ NHÀ MÁY ĐẠM PHÚ MỸ Các công đoạn chính: Công đoạn nén CO2 Tổng hợp urê và thu hồi CO2 ở áp suất cao.. Công đoạn tinh chế urê và thu hồi NH3 ở áp suất trung bình và áp suất thấp. Công đoạn cô đặc, tạo hạt Xử lý nước thải. Hình 3.6 Sơ đồ công nghệ sản xuất urê 3.3.1. Công đoạn nén CO2 CO2 bão hòa hơi nước có độ tinh khiết tối thiểu 98,5% thể tích, có nhiệt độ 450C và áp suất 0.18barg lấy từ phân Xưởng Amonia được đưa vào bình tách 20- V- 2017. Tại đây lượng lỏng cuốn theo được tách ra và được đưa về hệ thống thải lỏng, lượng khí CO2 được đưa tới cửa hút cấp 1 của máy nén. Để bảo vệ thiết bị cao áp không bị ăn mòn, một lượng không khí được thêm vào thông qua bộ điều khiển lưu lượng FV-1002 vào cửa hút. Lượng oxi thêm vào chiếm 0.25% thể tích của lượng CO2 nạp liệu. Máy nén ly tâm bao gồm có 4 cấp trung gian và được chia làm 2 vùng nén thấp áp và cao áp. Sau mỗi cấp đều được trang bị một thiết bị làm mát và một thiết bị tách với mục đích là để làm nguội và tách lỏng trong dòng khí. Nhiệt độ tại cửa hút của cấp nén thứ 4 được khống chế để tránh hiện tượng hóa rắn của CO2. Phần nước ngưng trong các bình tách trung gian được đưa về hệ thống thải lỏng. Lưu lượng thải lỏng được khống chế bằng các van điều khiển mức. Dòng khí CO2 sau khi đi qua thiết bị tách lỏng V-1017, vào đến cửa hút của máy nén có áp suất khoảng 0.12barg, được nén đến khoảng 4.6 barg trong cấp nén đầu tiên, đến khoảng 18.9 barg trong cấp nén thứ hai, đến 69.9 barg trong cấp nén thứ ba và sau cấp nén cuối cùng áp suất lên đến 157 barg. Hai van FV-1001, 1013 được sử dụng như là 2 đường tuần hoàn khi chạy máy, đồng thời chúng cũng được sử dụng để tránh cho máy nén không bị surging khi công nghệ giao động. Trong trường hợp máy nén lọt vào vùng surge, 2 van này sẽ tự động mở để tuần hoàn một phần CO2 từ cửa ra cửa cấp nén 2 về lại cửa hút cấp nén 1 và cửa ra của cấp nén 4 về lại cửa hút cấp nén 3. Ngoài ra tại đầu ra của mỗi vùng nén người ta còn trang bị các van xả HV-1001, PV-1017 để xả khí khi máy nén dừng. Turbin 20-STK-1001 chạy bằng hơi nước được sử dụng làm động cơ dẫn động cho máy nén CO2. Lượng hơi nước này được cung cấp bởi mạng hơi của nhà máy. Dòng hơi trung áp quá nhiệt có áp suất 23.5 barg được rút ra từ turbine được sử dụng làm tác nhân cấp nhiệt cho thiết bị phân giải cao áp E-1001. Lượng hơi còn lạị sau khi đi qua các tầng cánh turbin sẽ đi vào thiết bị ngưng tụ hơi nước E-1022 sử dụng nước sông có nhiệt độ thấp làm môi chất tải nhiệt ngưng tụ. Hệ thống ngưng tụ này hoạt động ở áp suất chân không khoảng -0.85 barg. Lượng nước ngưng tụ tại 20-E-1022 được bơm 20-P-1018A/B bơm về xưởng Phụ trợ để tái sử dụng. 3.3.2. Tổng hợp urê và thu hồi NH3 - CO2 cao áp: Urê được tạo thành qua phản ứng tổng hợp từ NH3 (lỏng) và CO2 (khí) trong tháp tổng hợp urê R-1001. NH3 và CO2 phản ứng tạo thành ammonicacbamat, một phần ammonicacbamat tách nước tạo thành urê Các phản ứng xảy ra như sau: 2 NH3 + CO2 NH2COONH4 NH2COONH4 (NH2)2CO + H2O Trong điều kiện phản ứng T = 188-190 0C, P = 152 – 157 barg. Phản ứng thứ nhất xảy ra nhanh chóng và hoàn toàn, phản ứng thứ hai xảy ra chậm nên quyết định vận tốc phản ứng. Phần ammonicacbamat tách nước được xác định bằng tỉ lệ các chất phản ứng khác nhau, nhiệt độ phản ứng và thời gian lưu trong tháp tổng hợp. Tỉ lệ mol NH3/CO2 trong khoảng 3,3 đến 3,6 Tỉ lệ mol H2O/CO2 trong khoảng 0,5 đến 0,7 Ammonia lỏng nạp liệu vào xưởng urê được cho qua bộ lọc FL-1002A/B. Sau đó đi vào tháp thu hồi ammonia T-1005 và được tập trung trong bồn chứa V-1005. Từ bồn chứa V-1005, ammonia được bơm lên áp suất 22 barg bằng bơm tăng áp P-1005A/B. một phần ammonia này được đưa đến tháp hấp thu trung áp T-1001, phần còn lại đi vào cụm tổng hợp cao áp. Ammonia vào cụm tổng hợp được bơm bằng bơm ammonia cao áp P-1001A/B lên áp suất 220 barg. Trước khi vào tháp tổng hợp, ammonia được gia nhiệt trong thiết bị gia nhiệt sơ bộ ammonia E-1007 và được sử dụng làm lưu chất đẩy trong bơm phun cacbamat J-1001, tại đây cacbamat từ bình tách cacbamat V-1001 được đẩy lên áp suất tháp tổng hợp. Hỗn hợp lỏng ammonia và cacbamat đi vào tháp tổng hợp urea, tại đây hỗn hợp này sẽ phản ứng với dòng CO2 nạp liệu. CO2 từ xưởng ammonia ở áp suất 0,18 barg và nhiệt độ 45 0C đi vào máy nén K-1001 và đi ra với áp suất 157 barg. Một lượng nhỏ không khí được đưa vào dòng CO2 ở đầu vào máy nén K-1001 để thụ động hoá các bề mặt thép không rĩ của các thiết bị cao áp, do đó bảo vệ chúng khỏi bị ăn mòn do các chất phản ứng và sản phẩm phản ứng. Hỗn hợp sản phẩm phản ứng ra khỏi tháp tổng hợp R-1001 được cho vào phần trên của thiết bị stripper E-1001 hoạt động ở áp suất 147 barg. Đây là thiết bị phân huỷ kiểu màng trong ống thẳng đứng, trong đó lỏng được phân phối trên bề mặt gia nhiệt dưới dạng màng và chảy xuống đáy nhờ trọng lực. Thực tế đây là thiết bị trao đổi nhiệt vỏ ống thẳng đứng với môi trường gia nhiệt ở phía vỏ và đầu ống được thiết kế đặc biệt cho phép phân phối đồng đều hỗn hợp dịch sau phản ứng. Thực tế mỗi một ống có một đầu phân phối kiểu lồng (ferrule) được thiết kế để phân phối đều dòng lỏng xung quanh thành ống dưới dạng màng. Đường kính các lỗ của đầu phân phối có tác dụng phân phối và điều khiển lưu lượng chảy qua lỗ. Khi màng lỏng chảy nó được gia nhiệt và sự phân huỷ cacbamat xảy ra. Hàm lượng CO2 trong dung dịch giảm do Stripping NH3 khi NH3 sôi, hơi tạo thành thực chất là NH3 và CO2 bay lên đỉnh ống trao đổi nhiệt. Nhiệt phân huỷ cacbamat được cung cấp nhờ sự ngưng tụ hơi bão hòa 21,8 barg. Dòng hỗn hợp giữa khí từ đỉnh thiết bị E-1001 và dung dịch thu hồi từ đáy tháp hấp thụ trung áp T-1001 đi vào các thiết bị ngưng tụ cacbamat E-1005A/B. Ở đây chúng ngưng tụ và được tuần hoàn về tháp tổng hợp R-1001 thông qua bơm phun cacbamat J-1001. Ngưng tụ khí quá trình ở áp suất cao khoảng 146 barg cho phép tạo ra hơi bão hòa 4,9 barg ở phía vỏ của thiết bị ngưng tụ cacbamat E-1005A. Và hơi 3,4 barg ở phía vỏ của thiết bị E-1005B. Từ đỉnh của bình tách V-1001 khí không ngưng bao gồm khí trơ (không khí thụ động) chứa một lượng nhỏ NH3 và CO2 được đưa trực tiếp vào đáy thiết bị phân huỷ trung áp E-1002. Hình 3.7 Sơ đồ quy trình tổng hợp và thu hồi cao áp 3.3.3 Phân hủy cacbanmate và thu hồi NH3 - CO2 trung & thấp áp Làm sạch urea và thu hồi khí xảy ra trong hai giai đoạn giảm áp suất như sau: Giai đoạn 1 ở áp suất 18,5 barg Giai đoạn 2 ở áp suất 4 barg Các thiết bị trao đổi nhiệt trong đó xảy ra quá trình làm sạch urea được gọi là các thiết bị phân huỷ bởi vì trong các thiết bị này xảy ra sự phân huỷ cacbamat. Giai đoạn phân hủy cacbanmate và thu hồi NH3, CO2 ở áp suất 18,5 barg: Dung dịch với hàm lượng CO2 thấp từ đáy thiết bị stripper E-1001 được giản nở đến áp suất 18,5 barg và đi vào phần trên thiết bị phân huỷ trung áp. Thiết bị này được chia thành 3 phần chính: Bình tách đỉnh V-1002, ở đây khí nhẹ được tách ra trước khi dung dịch đi vào bó ống. Thiết bị phân huỷ kiểu màng trong ống E-1002A/B, ở đây cacbamat được phân huỷ. Nhiệt cung cấp nhờ sự ngưng tụ hơi 4,9 barg (ở phía vỏ của phần trên E-1002A) và nước ngưng hơi ở áp suất 22 ba

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbctt.doc
  • dwgPHUONG.dwg