Cộng đồng địa phương vừa là chủ thể của văn hóa vừa là người
tham gia cũng như chịu tác động trực tiếp từ các hoạt động du lịch. Người
dân sẽ có những quan điểm, phương pháp nhất định trong việc khai thác
tốt những giá trị văn hóa của cộng đồng cho các hoạt động du lịch, mà
hạn chế những tác động tiêu cực đến những yếu tố truyền thống lâu đời.
Tuy nhiên, trên thực tế, cộng đồng gần như không có tiếng nói trực tiếp
vào hoạt động trong các dự án về phát triển du lịch, từ việc xây dựng nội
dung, quản lý đến tổ chức các hoạt động diễn ra.
Những minh chứng trên cho thấy muốn làm tốt công tác bảo tồn và
phát triển du lịch cộng đồng, cần phải trao quyền cho cộng đồng người
dân địa phương, cộng đồng tham gia trực tiếp vào các khâu trong các dự
án phát triển du lịch.
- Tăng cường đầu tư xây dựng sản phẩm và quảng bá xúc tiến: Sản
phẩm du lịch trong mắt của khách du lịch là những kinh nghiệm mà họ
trải qua trong quá trình tham quan, bao gồm ba thành tố chính: tài nguyên
du lịch tại điểm đến; các điều kiện phục vụ tại điểm du lịch; và khả năng
tiếp cận với điểm du lịch. Các mô hình hoạt động du lịch cộng đồng ở Sa
Pa hiện nay chủ yếu dựa trên nguồn tài nguyên du lịch sẵn có, đầu tư xây
dựng các sản phẩm du lịch mới còn rất hạn chế. ở Sín Chải các sản phẩm
du lịch đặc trưng vẫn chỉ là thăm làng bản, tìm hiểu đời sống văn hóa của
người H’Mông.
27 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 795 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa người H’mông thông qua du lịch cộng đồng ở bản Sín chải, huyện Sa pa, tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng bảo
tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, phát triển những giá trị
mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật các dân tộc.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với việc giữ gìn và phát
triển văn hóa đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào
H’Mông là coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống, xây
dựng, phát triển những giá trị mới về văn hoá, văn học, nghệ thuật.
1.5. Bảo tồn, phát huy văn hóa tộc người dựa vào du lịch cộng đồng
1.5.1. Du lịch và du lịch cộng đồng
* Khái niệm du lịch
Theo Tổ chức Du lịch thế giới, du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động
của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và
tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng
như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên
tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư;
nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền.
7
Luật Du lịch đưa ra khái niệm: “Du lịch là hoạt động có liên quan
đến chuyển đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong
một khoảng thời gian nhất định” .
* Khái niệm du lịch cộng đồng
Khái niệm du lịch cộng đồng có nguồn gốc xuất phát từ hình thức du
lịch tham quan làng bản vào những năm 1970. Hiện nay, có nhiều khái
niệm nhưng chưa có khái niệm chính thức. Theo Nicole Hauseler và
Wolfgang Strasdas: “Du lịch cộng đồng là một loại hình du lịch trong đó
chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích
kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương”. Theo Võ
Quế, du lịch cộng đồng là loại hình du lịch phát triển dựa vào những giá trị
tự nhiên và nhân văn của cộng đồng địa phương, có sự tham gia tích cực và
chủ động của người dân nhằm đem lại lợi ích cho chính cộng đồng.
Tuy tên gọi khác nhau, nhưng các khái niệm đều có một số vấn đề
cơ bản giống hoặc tương đồng về phương pháp tổ chức, địa điểm, mục
tiêu, vị trí phát triển du lịch cộng đồng.
1.5.2. Cộng đồng và phát triển cộng đồng
Khái niệm cộng đồng xuất hiện vào những năm 1940 tại các nước
thuộc địa của Anh. Cộng đồng là một trong những khái niệm xã hội học
mang nhiều ý nghĩa khác nhau, được sử dụng một cách rộng rãi. Theo
nghĩa rộng, khái niệm này dùng để chỉ cộng đồng các quốc gia theo lãnh
thổ như cộng đồng châu Âu, châu Á... Theo nghĩa hẹp, khái niệm này
được dùng để chỉ một dạng xã hội và nhỏ hơn nữa nó được dùng để chỉ
những đơn vị xã hội cơ bản như làng, xã, gia đình..
Tác giả Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang trong Phát triển cộng
đồng lý thuyết và vận dụng (2000), đã chỉ ra các yếu tố cấu thành nên
cộng đồng bao gồm: - Địa vực: - Yếu tố kinh tế: - Yếu tố văn hóa:
1.5.3. Mục tiêu phát triển du lịch cộng đồng
Để phát triển du lịch cộng đồng, các nhà quản lý cần quan tâm đến
một số mục tiêu căn bản sau: Du lịch cộng đồng là công cụ cho hoạt động
bảo tồn; Du lịch cộng đồng là công cụ phát triển chất lượng cuộc sống
8
cho cộng đồng. Du lịch cộng đồng là công cụ để nâng cao nhận thức, kiến
thức cho cộng đồng, là công cụ cho cộng đồng cùng tham gia, thảo luận
các vấn đề, cùng làm việc và giải quyết các vấn đề mang tính cộng đồng.
Như vậy, đây là những mục tiêu phù hợp nhất để chúng ta tham
khảo khi nghiên cứu về phát triển cộng đồng người H’Mông ở Sín Chải.
1.5.4. Tiêu chí và điều kiện phát triển du lịch cộng đồng
* Tiêu chí phát triển du lịch cộng đồng
- Khuyến khích sự tham gia và chia sẻ trách nhiệm của cộng đồng:
- Tăng tính tổ chức: - Huy động nguồn lực: - Có sự lãnh đạo:
* Điều kiện phát triển du lịch cộng đồng
Điều kiện về tài nguyên tự nhiên và nhân văn; Điều kiện về yếu tố
cộng đồng dân cư: Điều kiện có thị trường khách; Điều kiện về cơ chế,
chính sách; Điều kiện về sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính phủ, tổ chức phi
chính phủ trong và ngoài nước.
1.5.5. Sự tương tác giữa văn hóa tộc người và du lịch cộng đồng
Những thành tố cơ bản trong văn hóa tộc người như ẩm thực, trang
phục, nhà ở; nghề thủ công, âm nhạc, tín ngưỡng; lễ hội; hệ giá trị -
chuẩn mực; ngôn ngữ được liên kết thành một hệ thống, định hình văn
hóa tộc người. Theo thời gian, biến đổi của xã hội, nhiều yếu tố văn hóa
tính chất bên trong các thành tố văn hóa không còn phù hợp với quy luật
phát triển của xã hội, cộng đồng, thậm chí gây ra những rào cản cho các
nấc thang tiếp theo.
Thực tế, không phải yếu tố văn hóa truyền thống nào cũng có thể
trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách. Việc xác lập những sản
phẩm du lịch dựa trên những yếu tố văn hóa tộc người là việc làm cần
thiết trong quá trình khai thác du lịch cộng đồng. Cần tuân thủ nguyên
tắc: tôn trọng cộng đồng cũng như những đặc trưng văn hóa của cộng
đồng với sự hài lòng, tăng tính trải nghiệm của du khách.
Tác giả đưa ra khung phân tích văn hóa tộc người và mức độ phù
hợp (phổ biến) để xây dựng trở thành một sản phẩm du lịch cộng đồng,
gồm Ẩm thực; trang phục; phương tiện giao thông; nhà ở truyền thống;
9
nghề thủ công truyền thống; âm nhạc, nghệ thuật truyền thống; tôn giáo,
tín ngưỡng; lễ hội; ngôn ngữ; hệ giá trị - chuẩn mực:
1.5.6. Du lịch cộng đồng tác động thế nào với văn hóa tộc người?
Du lịch cộng đồng như một mô hình, phương pháp tiếp cận hữu
hiệu. tạo ra những tác động tích cực đối với văn hóa tộc người nhằm tôn
vinh, phát huy hơn nữa những giá trị văn hóa tộc người,
Tuy nhiên, du lịch cộng đồng cũng có thể gây ra những hệ quả dẫn
tới sự biến đổi văn hóa truyền thống cũng như cấu trúc xã hội tộc người.
Nhằm khai thác những giá trị văn hóa tộc người, du lịch cộng đồng cần
thực hiện các nguyên tắc sau: Nguyên tắc công bằng, dân chủ; Phù hợp
với khả năng của cộng đồng; Chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng;
Xác lập quyền sở hữu và tham gia của cộng đồng đối với tài nguyên thiên
nhiên và văn hóa hướng tới sự phát triển bền vững; Cách tiếp cận bền
vững với tài nguyên nhân văn, tài nguyên thiên nhiên.
Chƣơng 2
PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG DỰA VÀO TIỀM NĂNG
VĂN HÓA TỘC NGƢỜI
2.1. Phát triển du lịch cộng đồng ở Sa Pa
2.1.1. Khái quát chung về Sa Pa
Sa Pa là một huyện của Lào Cai, dưới dãy Hoàng Liên Sơn, diện
tích 683,29km
2, dân số 53.549 người, gồm 7 tộc người sinh sống trên 17
xã và một thị trấn; trong đó người H’Mông chiếm 51,65%, là vùng đất
giàu bản sắc văn hóa của người H’Mông, Dao, Tày, Giáy, Xá Phó...
Sa Pa còn là khu dự trữ sinh quyển có sự phong phú và đa dạng về
tài nguyên động, thực vật nhất cả nước và là một trong số những trung
tâm đa dạng của các loài thực vật trong chương trình bảo tồn các loài
thực vật của Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên Thế giới (IUCN), được Quỹ môi
trường toàn cầu xếp vào loại A. Năm 2003, Vườn Quốc gia Hoàng Liên
được công nhận là Vườn di sản ASEAN, trong đó có nhiều loài có nguy
cơ tuyệt chủng cao đã được ghi trong sách đỏ.
10
2.1.2. Về du lịch cộng đồng ở Sa Pa
Năm 2014, khách du lịch đến địa bàn đạt trên 826.120 Trong đó,
có trên 686.000 lượt khách nội địa và trên 140.000 lượt khách ngoại
quốc. Doanh thu từ dịch vụ du lịch trên địa bàn ước đạt 656 tỷ đồng.
Khách du lịch quốc tế đến Sa Pa thường tới thăm bản làng dân tộc.
Các tuyến, điểm du lịch cộng đồng ở Sa Pa ngày càng được mở rộng
nhằm đáp ứng nhu cầu thăm quan của du khách.
Hiện nay, Sa Pa đã xây dựng được 13 tuyến du lịch cộng đồng
tham quan làng bản kết hợp tìm hiểu văn hóa truyền thống địa phương,
như xã Nậm Cang, Thanh Phú (xã Thanh Phú), Bản Khoang (xã Bản
Khoang), Bản Hồ (xã Bản Hồ), Tả Van Giáy (xã Tả Van)...
Du lịch cộng đồng góp phần bảo vệ, quảng bá và phát huy giá trị
văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc ở Sa Pa. Nhiều giá trị văn
hóa truyền thống của đồng bào được lựa chọn, khai thác thành những sản
phẩm phục vụ du lịch như chợ tình Sa Pa, lễ hội Róng Poọc (người Giáy),
Tết nhảy (người Dao), Lễ hội Gầu Tào (người H’Mông...)
Du lịch cộng đồng ở Lào Cai nói chung và Sa Pa nói riêng vẫn còn
1 số tồn tại như dịch vụ chưa phong phú, mới dừng lại ở mức độ hài lòng;
người dân phụ thuộc vào người điều hành tour nên thu nhập chưa cao;
hoạt động du lịch cộng đồng nhỏ lẻ, chưa có sự liên kết giữa các hộ dân
với nhau; cơ sở vật chất du lịch thiếu đồng bộ, chưa được đầu tư đúng
mức; chưa phát huy hết giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc để tạo
thành sản phẩm du lịch độc đáo, mới lạ
2.1.3. Một số điểm du lịch cộng đồng tiêu biểu ở Sa Pa
Từ năm 2008, được sự giúp đỡ của Tổ chức Thiên nhiên thế giới
(IUCN) và tổ chức Phi chính phủ Hà Lan (SNV), hỗ trợ Lào Cai xây
dựng thí điểm Dự án Hỗ trợ phát triển du lịch bền vững tại Sa Pa, từ đó
nhiều điểm du lịch cộng đồng ở Sa Pa đã hình thành và phát triển như xã
Bản Hồ, Tả Van, Lao Chải, Sín Chải, Tả Phìn, Cát Cát...
2.2. Khái quát chung về Sín Chải
2.2.1. Lịch sử, điều kiện tự nhiên, dân số, kinh tế, văn hóa xã hội
11
Sín Chải là bản của người H’Mông, có 221 hộ dân với 646 nhân
khẩu, 100% là người Hmông đen, sống ở đây được khoảng 6 - 7 đời.
Người H’Mông Sín Chải chủ yếu dựa vào canh tác nông nghiệp,
phổ biến là lúa nương, ngô, cây hoa màu. Canh tác ruộng bậc thang là
một trong những thành quả vô cùng to lớn. Ngoài ra họ trồng phong lan,
thảo dược, thảo quả..., nuôi trâu, bò, ngựa, lợn, gà Hiện nay người
H’Mông Sín Chải còn lưu giữ và phát triển được một số nghề thủ công
truyền thống như dệt vải thổ cẩm, thêu, chạm khắc bạc, rèn đúc, đan lát.
Năm 2013, nghề chạm khắc bạc của người H’Mông ở đây vinh dự
được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa cấp
quốc gia. Văn hóa truyền thống của người H’Mông ở Sín Chải vẫn được
bảo tồn khá nguyên vẹn và trở thành nguồn tài nguyên quan trọng phục
vụ phát triển du lịch của Sa Pa nói chung và Sín Chải nói riêng. Điều này
đã tạo nên những nét văn hóa đặc trưng riêng của Sín Chải.
2.2.2. Tiềm năng Du lịch Sín Chải
- Tiềm năng du lịch tự nhiên
Sín Chải nằm ở vị trí gần khu du lịch sinh thái Hàm Rồng, tuyến
du lịch Tả Van - Lao Chải; điểm du lịch sinh thái Thác Bạc, đặc biệt Sín
Chải nằm ở đầu tuyến đường mòn dẫn lên đỉnh Phan Xi Păng. Sín Chải
được quy hoạch thành điểm du lịch cộng đồng nằm trong tổng thể phát
triển du lịch Lào Cai giai đoạn 2010 - 2015 tầm nhìn 2020.
+ Cảnh quan thiên nhiên: Các ngôi nhà nằm dọc theo thung lũng
suối Hang Đzê, bao bọc bởi dãy núi trùng điệp, những thửa ruộng bậc
thang đã tạo nên cho thôn Sín Chải vẻ đẹp hài hòa, sản phẩm phục vụ du
lịch cộng đồng, du lịch sinh thái hiệu quả.
+Khí hậu: nhiệt độ trung bình hàng năm là 15,40 C, khá mát mẻ,
trong lành là nơi nghỉ mát lý tưởng của du khách.
+ Địa hình: sự kiến tạo của tự nhiên trải qua hàng vạn năm đã tạo
cho Sín Chải một cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, với nhiều dãy núi xếp
lên nhau trải dài theo hướng Tây - Nam, đặc biệt là dãy Hoàng Liên với
đỉnh Phan Xi Păng - biểu tượng của nóc nhà Đông Dương.
12
+ Thuỷ văn: Sín Chải ở đầu suối Bo có chiều dài khoảng 80 km, từ
phía Nam dãy Hoàng Liên Sơn
+ Tài nguyên sinh vật: Hệ tài nguyên sinh vật của Sín Chải nằm
trong vùng lõi của vườn quốc gia Hoàng Liên. Đây là vùng dự trữ sinh
quyển được đánh giá vào dạng đa dạng sinh học nhất Việt Nam. Năm
2014, hệ thống cây Đỗ quyên và cây Vân Sam đã được công nhận là cây
Di sản Quốc gia.
+ Ruộng bậc thang: Nét nổi bật của thôn Sín Chải là hệ thống
ruộng bậc thang bao quanh bản. Năm 2009 Tạp chí du lịch “Travel and
Leisure” (Mỹ) cũng đã bình chọn ruộng bậc thang Sa Pa là 1 trong 7
ruộng bậc thang đẹp nhất, kỳ vĩ nhất châu Á và thế giới. Tháng 10 năm
2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp Ruộng bậc thang Sa Pa là
di tích danh thắng cấp Quốc gia. Năm 2014, Mother Nature giới thiệu về
30 điểm đẹp nhất thế giới, trong đó ruộng bậc thang Sa Pa của Việt Nam
đứng ở vị trí thứ 2. Ruộng bậc thang đã thu hút mạnh mẽ du khách khi
đến với Sa Pa nói chung và Sín Chải nói riêng.
- Tiềm năng nhân văn
Các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào H’Mông
được thể hiện ngay ở kiến trúc nhà ở, trong sinh hoạt hằng ngày, trong
lao động sản xuất, trong ăn mặc các bộ trang phục truyền thống... Đến
nay, các loại hình di sản văn hóa tiêu biểu của người H’Mông ở Sín Chải
chưa được đầu tư khai thác một cách hiệu quả so với các thôn bản khác trong
huyện, cụ thể là sản phẩm từ nghề thủ công truyền thống như: rèn đúc, chạm
khắc bạc, trồng lanh dệt vải, nghề đan lát...;
Một số yếu tố như nhà ở truyền thống, ẩm thực, phong tục, tập
quán, lễ hội dân gian cũng là nét đặc sắc của Sín Chải, cụ thể như nhà
ở truyền thống; nghề trồng lanh, dệt vải; thêu thùa là nét văn hóa đặc
trưng của người H’Mông ở Sa Pa nói chung và Sín Chải nói riêng.
2.3. Sín Chải trong bối cảnh du lịch cộng đồng ở Sa Pa
2.3.1. Ban Quản lý du lịch cộng đồng:
Năm 2013 các hoạt động du lịch cộng đồng bản Sín Chải chính
thức trở thành một điểm du lịch riêng do UBND huyện quản lý. Thực tế,
13
Sín Chải chưa có một Ban quản lý du lịch cộng đồng theo đúng nghĩa,
người dân địa phương gần như không có nhiều vai trò, quyền lợi trong
việc quản lý, tổ chức, kiểm soát hoạt động du lịch đang diễn ra.
2.3.2. Sản phẩm, tour tuyến du lịch
Năm 2014 lượng khách đến tham quan xã (trong đó có bản Sín
Chải) đạt 150.117 lượt khách, chiếm hơn 18% tổng số khách du lịch đến
với Sa Pa. Lượng khách đến với bản có hai mục đích với 2 nhóm đối
tượng khác nhau. Khách du lịch nội địa thường đến tham quan cảnh quan
thiên nhiên, thôn bản, xem một vài tiết mục văn nghệ. Khách nước ngoài
thích du lịch trải nghiệm, ăn ở, sinh hoạt cùng với cộng đồng, tìm hiểu
phong tục tập quán của đồng bào, ăn các món ăn do đồng bào chế biến.
Năm 1997, dự án của IUCN và SNV được triển khai tại Sa Pa với mục
tiêu “hỗ trợ địa phương đạt được một hình thái du lịch bền vững về môi
trường, văn hóa và kinh tế - xã hội”. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc là một trong mười tiêu chí mang tính định hướng cho phát triển
du lịch bền vững ở Sa Pa cũng như Sín Chải.
Các tuyến du lịch đến Sín Chải
Sín Chải nằm trên tuyến Lào Cai - Sa Pa - Cát Cát - Sín Chải,
tuyến Lào Cai - Sa Pa - Tả Van - Lao Chải - Sín Chải; Sín Chải - Đồi Dù
- Phan Xi Păng.
Người H’Mông ở Sín Chải có thế mạnh để phát triển dịch vụ nghỉ
nhà dân dựa trên kiểu trúc nhà độc đáo của người H’Mông hòa lẫn giữa
không gian hùng vĩ của núi rừng Hoàng Liên.
Sín Chải có lượng khách du lịch đến tham quan thấp nhất, nên tác
động trực tiếp từ hoạt động du lịch chưa nhiều nhưng lại chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ các hoạt động du lịch từ Cát Cát, Sa Pa, Tả Van.
Trong phát triển tour tuyến, các sản phẩm du lịch ở Sín Chải vẫn
còn những hạn chế. Nguyên nhân là do Sín Chải chưa có mô hình phát
triển du lịch phù hợp, chưa khuyến kích người dân địa phương tham gia
xây dựng, quản lý hoạt động du lịch ở địa phương, hoạt động manh mún,
thiếu sự liên kết giữa các ngành, người dân địa phương với các công ty lữ
hành, chưa có sự quy hoạch phát triển hợp lý.
14
2.3.2. Mô hình tổ chức
Tuyến du lịch Cát Cát - Sín Chải được thành lập dưới sự hỗ trợ của
tổ chức SNV nhằm hướng tới sự phát triển du lịch bền vững. Trong đó
nhằm phát huy vai trò, năng lực, sự sáng tạo của người dân tham gia vào
hoạt động du lịch. Bản Sín Chải được dự án lựa chọn để triển khai xây
dựng mô hình phát triển du lịch cộng đồng. Khi dự án bắt đầu, người dân
được tham gia thảo luận, bàn bạc đưa ý kiến đóng góp của mình vào kế
hoạch phát triển du lịch tại địa phương. Vai trò, sự sáng tạo và những ý
kiến của người dân đã được phát huy.
Ban quản lý du lịch cộng đồng của tuyến du lịch Cát Cát - Sín Chải
được thành lập gồm có 13 thành viên, do cộng đồng địa phương bầu ra,
đại diện cho chính quyền địa phương đứng ra xây dựng kế hoạch, tổ
chức, triển khai và quản lý các hoạt động liên quan đến du lịch nằm trong
tuyến du lịch cộng đồng tại địa phương.
Sau đó, tuyến du lịch Cát Cát - Sín Chải được giao cho Công ty du
lịch Cát Cát đầu tư khai thác.
2.3.3. Cơ chế hoạt động, phân chia lợi ích
- Cơ chế hoạt động
Mô hình hoạt động du lịch cộng đồng ở Sín Chải được SNV xây
dựng hướng tới sự phát triển du lịch bền vững. Tuy nhiên, sau khi dự án
kết thúc, ban quản lý du lịch cộng đồng bản Sín Chải tự giải thể. Các hoạt
động du lịch ở Sín Chải hoạt động mang tính tự phát đặt dưới sự quản lý
của của Phòng Văn hóa, Thông tin huyện Sa Pa. Bởi vậy, vai trò của
người dân tham gia vào hoạt động du lịch cộng đồng ở địa phương rất
hạn chế.
- Phân chia lợi ích
Xung đột lợi ích lớn nhất là xung đột giữa các Công ty lữ hành với
cộng đồng địa phương. Khách du lịch sử dụng các dịch vụ tại địa phương
rất ít, chủ yếu là dịch vụ xe ôm, mua nước uống, mua một số đồ thổ cẩm
làm quà lưu niệm. Còn phần lớn các dịch vụ đều do Công ty du lịch đã
chuẩn bị sẵn.
15
Xung đột lợi ích còn được thể hiện giữa người dân địa phương với
người Kinh. Ở Sín Chải, do du lịch chưa phát triển, chỉ có 2 hộ người
Kinh kinh doanh nên chưa thể hiện rõ sự xung đột này. Xung đột lợi ích
trở nên khá phổ biến trong các điểm du lịch cộng đồng, ảnh hưởng đến
phát triển bền vững, nên cần giải quyết các xung đột đó.
2.3.4. Hoạt động xúc tiến quảng bá
Hoạt động xúc tiến quảng bá các sản phẩm du lịch của Sín Chải
vẫn chỉ nằm trong chương trình xúc tiến quảng bá chung của du lịch Lào
Cai nói chung và Sa Pa nói riêng.
2.3.5. Văn hóa tộc người với phát triển du lịch cộng đồng: thực
tiễn Sín Chải
Trên thực tế, Sín Chải đã từng bước đầu khai thác những giá trị văn
hóa tộc người vào hoạt động du lịch cộng đồng. Xét trên khía cạnh số
lượng, Sín Chải chưa bằng được với các điểm du lịch khác. Tuy nhiên, đó
là những kết quả bước đầu cần được ghi nhận.
Du lịch cộng đồng đã có những tác tích cực, nâng cao nhận thức
bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tộc người của người dân địa phương,
người dân đã kịp thời giữ gìn, bảo lưu lại ngôi nhà truyền thống của
người H’Mông Sín Chải; đã quay lại với các nghề thủ công truyền thống;
những đồ dùng, dụng cụ sinh hoạt cũng được các gia đình giữ lại và trở
thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn khách du lịch
Du lịch cộng đồng là giải pháp cơ bản của bảo tồn văn hóa vì nó
còn tạo ra môi trường để các giá trị văn hóa truyền thống của người
H’Mông phát huy và nâng cao giá trị của họ. Từ đó, nhiều giá trị văn hóa
truyền thống của người H’Mông được khai thác và phát triển.
Hiện nay, hoạt động du lịch đang diễn ra tại Sín Chải mang tính
manh mún, tự phát, thiếu tính định hướng, tổ chức.
Thực tiễn Sín Chải cho thấy, để xây dựng thành công mô hình du
lịch cộng đồng cần một định hướng đúng đắn và xây dựng một chương
trình hoạt động cụ thể của các bên tham gia. Cần lựa chọn các thành tố
văn hóa tộc người phù hợp gắn với hoạt động du lịch cộng đồng, hài hòa
trong việc phân chia lợi ích các bên, nhìn nhận đúng vai trò của cộng
16
đồng, sự tham gia trực tiếp của cộng đồng vào khai thác các giá trị văn
hóa tộc người.
2.4. Bài học kinh nghiệm chung từ Sín Chải và Sa Pa
- Tiềm năng lớn nhưng chưa được phát huy:
- Thiếu các điều kiện để phát triển:
- Thiếu chiến lược phát triển du lịch:
Chƣơng 3
CÁC LUẬN GIẢI VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN
VĂN HÓA TỘC NGƢỜI GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
3.1. Du lịch cộng đồng là phƣơng pháp bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa tộc ngƣời
3.1.1. Du lịch cộng đồng - cách tiếp cận mới với bảo tồn văn hóa
tộc người
Hiện nay, du lịch cộng đồng là cách tiếp cận hữu ích và hiệu quả
nhằm phát huy tiềm năng, giá trị và bản sắc văn hóa tộc người trong phát
triển du lịch. Cách tiếp cận này có ưu điểm là giải quyết được những vấn
đề mâu thuẫn hiện đang nảy sinh trong việc phát triển du lịch ở Việt
Nam, góp phần cân bằng vai trò quan trọng của cộng đồng cư dân bản địa
trong tổng thể chiến lược phát triển của Nhà nước.
Du lịch cộng đồng là phương pháp để bảo tồn và phát huy các giá
trị di sản văn hóa tộc người một cách hiệu quả, bởi nó đã huy động được
các nguồn lực tại chỗ, phát huy tính chủ động của người dân bản địa,
khơi dậy tiềm năng phát triển du lịch.
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030, nhấn mạnh, phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống các dân tộc, tôn trọng văn hóa trong mối quan hệ với
cộng đồng địa phương; phát triển du lịch gắn với xóa đói, giảm nghèo.
Phát triển du lịch cộng đồng là một cách tiếp cận mới, theo cách từ
dưới lên thay cho cách làm từ trên xuống truyền thống. Nó đảm bảo cho
sự phát triển bền vững của một lĩnh vực hay tổng thể phát triển của một
17
quốc gia, một cộng đồng, khác với cách tiếp cận từ trên xuống mang nặng
tính quan liêu, không đáp ứng được thực tế nhu cầu.
Với Sín Chải, đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt
động du lịch, gắn du lịch cộng đồng với bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hóa người H’Mông là một biện pháp hữu hiệu cần được phát huy.
3.1.2. Phát triển du lịch gắn liền với mục tiêu bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa dân tộc
Đối với cộng đồng người H’Mông ở Sín Chải, từ thực tiễn hoạt
động đã đúc rút ra một vấn đề then chốt là phát triển du lịch phải gắn với
mục tiêu bảo tồn và phát huy văn hóa tộc người nhằm mục tiêu phát triển
một cách bền vững. Một số định hướng phát triển du lịch cộng đồng gắn
với bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tộc người:
- Khai thác có hiệu quả các giá trị di sản văn hóa tạo thành các sản
phẩm du lịch có tính cạnh tranh cao, thu hút khách du lịch
- Phát triển di sản văn hóa dân tộc gắn với phát triển cộng đồng
- Phát triển du lịch cộng đồng với bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc cần phải gắn với phát triển du lịch quốc gia
và khu vực
- Cần có sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước và các nhà đầu tư
- Quan tâm tới chu kỳ sống của mối quan hệ văn hóa - du lịch
3.1.3. Du lịch cộng đồng là giải pháp cơ bản trong bảo tồn văn
hóa người Hmông ở Sín Chải
Du lịch và văn hóa có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau nhưng
không phải mô hình du lịch nào cũng phát huy được hiệu quả của mình.
Đối với trường hợp Sín Chải, qua lý luận và thực tiễn cho thấy, phát triển
loại hình du lịch cộng đồng là giải pháp phù hợp với điều kiện đặc điểm
kinh tế, văn hóa xã hội ở Sín Chải. Loại hình này không những khai thác
tiềm năng địa phương mà còn góp phần bảo vệ và phát huy thế mạnh về
các giá trị văn hóa của cộng đồng địa phương.
Như vậy, các giá trị văn hóa truyền thống tộc người như Sín Chải
là tiềm năng, cuốn hút đối với khách du lịch khi đến Sa Pa nói chung và
18
đến Sín Chải nói riêng. Văn hóa của đồng bào càng đa dạng, càng độc
đáo bao nhiêu thì càng tạo ra nhiều sản du lịch hấp dẫn, mang tính cạnh
tranh bấy nhiêu.
Nhờ có du lịch mà nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người
H’Mông ở Sín Chải được người dân trân trọng, gìn giữ. Không những
góp phần bảo tồn, du lịch cộng đồng còn góp phần khôi phục và phát
triển các giá trị văn hóa truyền thống của người dân thành các sản phẩm
du lịch độc đáo.
Du lịch cộng đồng là giải pháp cơ bản của bảo tồn văn hóa vì nó
còn tạo ra môi trường để các giá trị văn hóa truyền thống của người
H’Mông phát huy và nâng cao giá trị của họ. Thông qua hoạt động du
lịch, đặc biệt là tạo ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, các giá trị văn hóa
truyền thống được đầu tư, khai thác trở thành các sản phẩm phục vụ
khách du lịch. Từ đó, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người
H’Mông được khai thác và phát triển.
Bên cạnh đó, một số giá trị văn hóa phi vật thể như các bài hát dân
ca, phong tục tập quán truyền thống, lễ hội cũng được người dân gìn giữ
và phát triển thành các sản phẩm du lịch.
Du lịch cộng đồng phát triển mang lại nguồn thu nhập cho chính
quyền và người dân địa phương, tạo nguồn lực đầu tư trở lại cho công tác
bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa của địa phương. Ngoài ra,
du lịch còn có khả năng thu hút chương trình, dự án nghiên cứu nhằm
nhận được hỗ trợ của các tổ chức, nhà đầu tư.
Cho đến nay, du lịch cộng đồng ở Sín Chải chưa thực sự phát triển
mạnh, , về cơ bản những giá trị văn hóa truyền thống người H’Mông tại
Sín Chải vẫn được cộng đồng người dân bảo lưu khá tốt. Đây là nguồn tài
nguyên quan trọng, là lợi thế nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động du lịch
gắn với sự tham gia của cộng đồng, trên cơ sở bảo tồn, phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng địa phương.
3.1.4. Du lịch cộng đồng và một số mặt hạn chế đối với đời sống
người dân Sín Chải
19
Bên cạnh những lợi ích mang lại, du lịch cũng có những tác động
tiêu cực nhất định đến đời sống văn hóa địa phương. Một trong những tác
động rõ nhất là sự thay đổi về lối sống của một số bộ phận thanh niên
trong bản. Tác động tiêu cực còn được thể hiện qua tình trạng bán hàng
rong, chèo kéo tranh giành khách, gây ra hình ảnh phản cảm đối với du
khách. sự liên kết các thành viên trong cộng đồng không còn chặt chẽ
như trước đây.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tomtat_la_tv_2099_1854442.pdf